Trần Văn Thọ
Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo
Mở đầu:
Từ
những năm cuối thế kỷ 20, vấn đề phát huy nội lực được nói đến nhiều
tại Việt Nam. Tôi cũng cho rằng trước trào lưu toàn cầu hoá ngày càng
mạnh, đặt vấn đề tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển
trong ổn định là cần thiết. Tuy nhiên cho đến nay vấn đề nầy mới được
bàn chung chung, chưa được phân tích một cách khoa học nên chưa đưa ra
được những kết luận có thể tham khảo cho việc đặt ra chính sách, chiến
lược cần thiết. Một đỉểm quan trọng nữa cũng chưa được bàn đến một cách
có hệ thống, chưa được phân tích, đánh giá là sự quan hệ giữa nội lực và
ngoại lực. Có thể có nhiều truờng hợp ngoại lực góp phần làm mạnh nội
lực. Do đó, sẽ là không khôn ngoan nếu không tận dụng ngoại lực để đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế. Ngoại lực nên được kết hợp với nội
lực như thế nào để phát triển nhanh và bền vững?
Bài
viết nầy xoay quanh vấn đề vốn, công nghệ và tri thức quản lý, kinh
doanh để phân tích chủ đề làm sao kết hợp có hiệu quả giữa nội lực và
ngoại lực. Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là
nguồn lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital
resources), công nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể
của từ lực trong nội lực và ngoại lực. Các nguồn
lực nầy được vận dụng qua hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó, nội
lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình diện vĩ mô (vị trí
của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể được đánh giá
qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nước ngoài (dưới đây sẽ được gọi là doanh nghiệp FDI
–foreign direct investment). Nhưng hai loại doanh nghiệp nầy không phải
lúc nào cũng hoạt động độc lập mà bổ sung nhau trong nhiều truờng hợp,
đặc biệt là nếu có chính sách, chiến lược đúng đắn sẽ phát sinh tác động
tích cực từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp vốn trong nước.
Tại
Việt Nam, dư luận xã hội và các nhà đặt chính sách chưa hiểu đúng vai
trò của ngoại lực trong trường hợp nầy nên môi truờng FDI chậm được cải
thiện và chưa có sự tác động tích cực từ doanh nghiệp FDI đến doanh
nghiệp vốn trong nước.[1]
Bài viết nầy sẽ đánh giá vai trò của FDI trên bình diện vĩ mô của kinh
tế
Việt Nam và sẽ phân tích, đánh giá vai trò của doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam trong sự quan hệ hỗ tương với các doanh nghiệp vốn trong nước.
Bài viết sẽ giới hạn vấn đề trong ngành công nghiệp chế biến là ngành mà
doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng, và cũng là ngành
Việt Nam sẽ đẩy mạnh phát triển trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Trong phần dưới đây, Tiết I sẽ bàn về các khái niệm, các khung
phân tích chính liên quan đế nội lưc và ngoại lực, trong đó đặc biệt đưa
ra một phương pháp luận để phân tích sự liên quan giữa doanh nghiệp vốn
trong nước và doanh nghiệp FDI, và đề khởi một sự liên kết (linkage)
hiệu quả giữa hai loại hình doanh nghiệp. Tiết II đánh giá tổng quát về
kết quả du nhập FDI của
Việt Nam trong thời gian qua (1988-2003). Tiết III sẽ trình bày cái nhìn
tổng quát về vị trí của doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân tại
Việt Nam và phân tích hai trường hợp cụ thể (ngành may mặc và ngành xe
máy) để xem chi tiết hơn về quan hệ giữa nội lực và ngoại lực tại
Việt Nam. Cuối cùng, phần kết luận sẽ đề xuất mấy ý kiến về mặt chính
sách để
Việt Nam tận dụng hiệu quả hơn nguồn lực nước ngoài.
I. Mấy khái niệm để phân tích nội lực và ngoại lực:
1. Nội lực và ngoại lực trong tầm nhìn vĩ mô:
Nói
cụ thể, những yếu tố nào có thể bao gồm trong nội lực và ngoại lực?
Trên phương diện phân tích kinh tế, đất đai, lao động và tư bản là những
yếu tố sản xuất chính, nhưng những nguồn lực (resources) khác như công
nghệ, tri thức quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức, v.v. còn
quan trọng hơn. Để phân tích được, ở đây ta cần giới hạn vào những nguồn
lưc mà nội lực và ngoại lực có quan hệ mật thiết nhau, hoặc bổ sung
hoặc thay thế. Những nguồn lực như vậy có thể gồm tư bản, công nghệ,
năng lực quản lý, kinh doanh. Cùng với vốn và công nghệ, năng lực quản
lý và khả năng kinh doanh là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và được gọi chung là nguồn lực kinh doanh (managerial
resources). Như vậy, vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh là 3 yếu tố
quan trọng để kinh tế phát triển và cũng là những yếu tố nhìn được cả
hai mặt nội lực và ngoại lực.
Một
nước ở trình độ phát triển còn thấp, khả năng tiết kiệm hạn chế không
đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư. Nếu hạn chế nhu cầu đầu tư ở mức tiết kiệm
cho phép thì kinh tế tăng trưởng chậm. Để nhanh chóng cất cánh, phải bảo
đảm một tỉ lệ đầu tư cao. Khoảng chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
(saving/investment gap) nầy được bù đắp bằng nguồn vốn nước ngoài. Ở đây
phát sinh vấn đề nội lực và ngoại lực: Vốn nước ngoài nên được dùng như
thế nào và đâu là mức độ có thể chấp nhận được? Vốn nước ngoài có thể
được du nhập qua các kênh sau: (1) Vay theo hình thức vốn ưu đãi của
chính phủ nước ngoài (ODA), (2) vay thương mại, (3) đầu tư trực tiếp từ
doanh nghiệp nước ngoài (FDI) , (4) các kênh khác. Các kênh (1) và (2)
phát sinh nợ phải trả trong tương lai nên phải dùng ngoại lực nầy một
cách có hiệu quả và phải vay trong một giới hạn có thể trả được nợ trong
tương
lai [2]. FDI là kênh du nhập tư bản không phát sinh nợ.
Công
nghệ là nguồn lực phải được xây dựng lâu dài nên nếu chỉ dựa vào nội
lực thì quá trình phát triển quá chậm. Trong lịch sử kinh tế, trừ Anh là
nước công nghiệp hiện đại đầu tiên, hầu như nước nào cũng tìm cách du
nhập công nghệ từ nước tiên tiến hơn mình để phát triển nhanh. Du nhập
công nghệ nước ngoài có các kênh sau: (1) Hợp đồng mua công nghệ
(licensing agreement), (2) FDI, (3) Các hình thái khác như BOT
(Build-Operation-Transfer), OEM (Original Equipment Manufacturing), uỷ
thác sản xuất (contractual
production) [3]. Trong các kênh nầy, (1) và (2) phổ biến nhất.
Nguồn
lực kinh doanh được du nhập chủ yếu qua kênh FDI. Trươc chiến tranh thế
giới lần thứ hai FDI chưa phổ biến nên có thể nói nguồn lực kinh doanh
chỉ được tích luỹ trong nội bộ mỗi nước.
Như
vậy FDI là hình thái du nhập cùng một lúc 3 nguồn lực: vốn, công nghệ
và năng lực kinh doanh. Nói khác đi, trong trường hợp FDI, cả 3 nguồn
lực được đưa vào trọn trong một gói (package). Kinh nghiệm các nước đã
phát triển rất đa dạng. Nhật Bản là nước hầu như chỉ nhập khẩu công nghệ
còn vốn và nguồn lực kinh doanh thì dựa vào nội lực. Hàn Quốc (thập
niên 1980 trở về trước) thì du nhập nhiều vốn (bằng ODA và vay thương
mại) và công nghệ (chủ yếu qua hình thức hợp đồng) nhưng năng lực kinh
doanh bản xứ đóng vai trò chủ đạo (Trần Văn Thọ 1997, Chương 6 và 8).
FDI
đưa vào cùng một lúc 3 nguồn lực nên hiệu quả phát triển lớn hơn các
hình thái khác như hợp đồng công nghệ hay vay vốn thương mại. Du biết
vậy, nhiều nước đang phát triển trong thập niên 1960 và 1970 đã lo ngại
bị các công ty đa quốc gia (MNC, multinational corporations) chi phối
kinh tế. Chủ nghĩa dân tộc và phong trào xã hội chủ nghĩa vào thời đó
rất mạnh nên MNCs bị phê phán nặng và FDI được chấp nhận nhưng thường
xuyên bị cảnh giác và bị hạn chế bằng nhiều chính sách đòi hỏi phải đáp
ứng nhiều yêu cầu của nước tiếp nhận. Trong sự cảnh giác MNCs, đã có ý
kiến là nên chia lẻ (unpackage) các nguồn lực và du nhập theo nhiều kênh
khác nhau (Oman 1984), giống như kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Tuy
nhiên, từ giữa thập niên 1980, cùng với xu thế toàn cầu hoá ngày càng
mạnh, cạnh tranh giữa các nước trong chiến lược thu hút FDI ngày càng
gay gắt vì FDI dần dần được xem là đầu máy của sự tăng truởng (engine of
growth). Không kể Singapore hay Hong Kong là những nền kinh tế mở, qui
mô nhỏ nên FDI có vai trò lớn, những nước lớn hơn như Thái Lan, Malaysia
từ khoảng 1985 và Trung Quốc từ thập niên 1990 đã thành công trong
chiến lược tích cực dùng FDI để tăng truởng cao.
Dù
vậy, tại một số nước trong đó có
Việt Nam vẫn còn có thái độ cảnh giác MNCs, xem việc du nhập FDI là
chuyện bất đắc dĩ. Điều nầy phản ảnh trong các chính sách hạn chế hoạt
động của MNC và áp dụng chính sách 2 giá, ép buộc người nước ngoài và
doanh nghiệp FDI phải trả giá cao cho nhiều sản phẩm và dịch vụ như
điện, nước, bưu chính viễn thông,.. Các nước nầy rơi vào trường hợp tiến
thối lưỡng nan (dilemma) vừa muốn du nhập FDI nhưng lại sợ bị bóc lột.
Để
giải quyết dilemma nầy tôi đã đề khởi chiến lược vừa tích cực du nhập
FDI vừa nỗ lực tích luỹ nội lực để thay thế dần ngoại lực (vốn, công
nghệ và nguồn lực kinh
doanh) [4].
Nội dung chiến lược nầy có thể tóm tắt như sau: Tuỳ theo giai đoạn phát
triển của một ngành công nghiệp, ta nên phân chia độ phụ thuộc vào
ngoại lực thành nhiều mức độ khác nhau. Chiến lược thông minh là trong
khi trình độ sản xuất còn non trẻ, ta phải biết tranh thủ đến mức cao
nhất vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh của MNCs để tăng cường khả
năng cạnh tranh quốc tế, nhưng sau đó, bằng cách tự mình tích luỹ các
nguồn lực nầy tiến đến giảm dần mức độ dựa vào ngoại lực. Hình 1 minh
hoạ điểm nầy.
Trong
hình nầy, trục tung biểu thị mức độ dựa vào ngoại lực (đo bằng tỉ lệ
góp vốn, tỉ lệ của số cán bộ kỹ thuật hoặc cán bộ quản lý nước ngoài
trong tổng số,...). Trục hoành biểu thị thời gian, còn i1, i2, i3,...là
các đường cong biểu hiện sự thay đổi về mức độ dựa vào ngoại lực. R là
mức độ bình quân mà nước nầy có thể phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài.
Tuỳ theo từng nước, ý thức dân tộc và thái độ đối với ngoại lực có khác
nhau nên R của từng nước cũng khác nhau. Điều quan trọng là trong bất cứ
ngành công nghiệp nào, mức độ dựa vào ngoại lực không phải luôn giữ ở
mức R như nhau., mà tuỳ từng giai đoạn phát triển, của từng ngành công
nghiệp nó có thể cao hoặc thấp hơn R. Như vậy, việc kết hợp giữa sự khác
nhau trong các giai đoạn phát triển của các ngành công nghiệp với sự
khác nhau tương ứng của độ phụ thuộc vào ngoại lực, sẽ đem lại một con
số trung bình của toàn nền kinh tế (R) về mức độ dựa vào ngoại lực. Ví
dụ quan sát thời điểm tn ta có thể hiểu được điều đó dễ dàng.
Làm
sao để tích luỹ các nguồn lực trong nước để dần dần thay thế được ngoại
lực? Đây là đề tài lớn không thể phân tích hết ở đây. Việc tích luỹ nội
lực bao gồm tăng tiết kiệm trong nước, khơi dậy tinh thần doanh nghiệp
của người bản xứ, đẩy mạnh giáo dục đào tạo theo hướng cung cấp ngày
càng nhiều người có năng lực quản lý , kinh doanh, v.v... Nhưng trong
các biện pháp, chính sách, chiến lược tích luỹ nội lực có vấn đề tận
dụng ngoại lực để tích luỹ nội lực. Nghĩa là trong lúc du nhập FDI, làm
sao đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ và năng lực kinh doanh từ doanh
nghiệp FDI sang doanh nghiệp bản xứ. Việc liên kết (linkages) giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp gốc bản xứ càng hiệu quả, việc chuyển giao
công nghệ và năng lục kinh doanh càng tích cực thì nội lực được tăng
cường. Phần tiếp theo sẽ phân tích điểm này.
2. Chuyển giao công nghệ và nguồn lực kinh doanh: Liên kết giữa ngoại lực và nội lực
Vai trò quan trọng
mà FDI mang lại cho nước đang phát triển là chuyển giao công nghệ và
nguồn lực kinh doanh. Công nghệ và nguồn lực kinh doanh được chuyển giao
không giới hạn trong ngành có FDI triển khai mà còn qua các sự liên kết
hàng dọc (vertical linkages), các nguồn lực nầy có thể chuyển sang các
ngành khác, làm cho các doanh nghiệp ở các ngành đó phát triển có hiệu
suất hơn.
Sự
chuyển giao (transfer) có 3 loại: Chuyển giao trong nội bộ doanh nghiệp
(intra-firm transfer) là hình thái chuyển giao giữa công ty đa quốc gia
(MNC) với công ty con tại nước ngoài tức doanh nghiệp FDI. Để hoạt động
có hiệu quả tại nước ngoài, MNCs thường tích cực chuyển giao công nghệ
và năng lực kinh doanh cho xí nghiệp con (đào tạo lao động bản xứ để có
thể sử dụng máy móc, cấp quản lý cũng được đào tạo và thay thế dần người
nước ngoài để giảm phí tổn sản xuất). Đối với nước tiếp nhận FDI, để
tăng hiệu quả nầy, tốt nhất là không ngừng cải thiện, tăng cường cung
cấp ra thị trường các nguồn nhân lực cần thiết. Chính sách cưỡng bách
doanh nghiệp FDI dùng người bản xứ chỉ làm môi trường đầu tư xấu đi. Một
vấn đề lý thú nữa là hình thái liên doanh hay 100% vốn nước ngoài có
hiệu quả cao trong việc chuyển giao công nghệ và năng lực kinh doanh?
Chuyển giao công nghệ sản xuất thì không có sự khác biệt mấy giữa hai
hình thái. Nhưng để đẩy mạnh chuyển giao năng lực kinh doanh, rõ ràng là
hình thái liên doanh có hiệu quả hơn vì các nhà quản lý, lãnh đạo doanh
nghiệp bản xứ có cơ hội học hỏi trực tiếp kinh nghiệm từ đối tác nước
ngoài
[5].
Hình
thái thứ hai là chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp bản xứ hoạt động trong cùng ngành. Người quản lý bản xứ làm việc
trong doanh nghiệp FDI sau khi học hỏi được nhiều kinh nghiệm có thể mở
công ty riêng cạnh tranh lại với công ty FDI. Đối với doanh nghiệp FDI
đây là một sự tổn thất nhưng đối với kinh tế của nước nhận FDI thì đây
là hiện tượng tốt vì công nghệ được lan truyền sang toàn xã hội góp phần
tăng cường nội lực. Một thí dụ khác của hình thái nầy là xí nghiệp bản
xứ đã có sẳn và hoạt động cạnh tranh trong cùng lãnh vực với doanh
nghiệp FDI có thể quan sát, nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp FDI từ
đó cải thiện hoạt động của mình. Có thể gọi hình thái thứ hai liên quan
đến chuyển giao công nghệ và năng lực kinh doanh là sự chuyển giao hàng
ngang giữa các doanh nghiệp (horizontal inter-firm transfer) vì là sự
chuyển giao giữa các doanh nghiệp độc lập và ở trong cùng một ngành. Tuy
nhiên hình thái nầy có thể hiểu được trên lý luận nhưng khó kiểm chứng
vì không thể thu thập được số liệu khách quan.
Hình
thái thứ ba là chuyển giao hàng dọc giữa các doanh nghiệp (vertical
inter-firm transfer) trong đó doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ và
năng lực kinh doanh sang các doanh nghiệp bản xứ sản xuất sản phẩm trung
gian (điển hình là sản phẩm công nghiệp phụ trợ như phụ tùng, linh kiện
xe máy) cung cấp cho doanh nghiệp FDI, hoặc trường hợp doanh nghiệp bản
xứ dùng sản phẩm của doanh nghiệp FDI để sản xuất ra thành phẩm cuối
cùng (chẳng hạn doanh nghiệp bản xứ dùng nguyên liệu chất dẻo –plastic-
do doanh nghiệp FDI cung cấp để sản xuất các loại đồ dùng trong nhà.
Trong cả hai trường hợp, công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI
sang doanh nghiệp bản xứ, và đây là hiệu quả lan toả (spill-over effect)
lớn nhất, quan trọng nhất nên các nước đang phát triển đặc biệt quan
tâm và đưa ra các chính sách làm tăng hiệu quả nầy (Xem UNCTAD 2001).
II. Đánh giá tổng quát FDI tại Việt Nam:
Từ
đầu thập niên 1990, kinh tế vĩ mô của
Việt Nam được ổn định, tốc độ phát triển kinh tế cũng lên quỹ đạo và ở
mức tương đối cao. Quan hệ với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực
đã bình thường hoá. Nhật đã quyết định viện trợ trở lại (1992) và Hội
nghị các nhà tài trợ giúp
Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng đã được quyết định sẽ tổ chức hằng năm
(bắt đầu năm 1993). Sự chuyển biến thuận lợi nầy cùng với vị trí địa lý
tốt, tình hình chính trị, xã hội ổn định và một nước có dân đông, có
nguồn lao động phong phú đã làm cho
Việt Nam trở thành môi trường đầu tư nhiều tiềm năng. Theo kết quả thăm
dò hằng năm về kế hoạch đầu tư nước ngoài của vài ngàn doanh nghiệp lớn
Nhật Bản do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) thực hiện,
Việt Nam đã sớm trở thành một trong những môi trường mà doanh nghiệp
Nhật chú ý.
Việt Nam xếp thứ 5 trong lần thăm dò năm 1992. Năm 1993 Việt Nam ở vị
trí thứ 4 và trong 2 năm liên tiếp sau đó đã vươn lên vị trí thứ 2. Từ
năm 1996 vị trí của
Việt Nam giảm nhưng hầu như năm nào cũng nằm trong 5 nước được doanh
nghiệp Nhật đánh giá cao về tiềm năng.
Việt Nam tiếp tục được nước ngoài đánh giá cao về tiềm năng nhưng dòng chảy FDI vào
Việt Nam từ nửa sau thập niên 1990 đã giảm nhanh và hiện nay cũng chưa hồi phục (Xem Hình 2)
.
Tuy các yếu tố về kinh tế vĩ mô, về dân
số, lao động, về vị trị địa lý vẫn thuận lợi nhưng chính sách liên quan
đến FDI của
Việt Nam chưa ổn định, thiếu nhất quán, hay thay đổi và chưa có chiến
lược phát triển công nghiệp lâu dài. Đến năm 2000,
Việt Nam mới sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài theo hướng cạnh tranh được
với các nước chung quanh. Hơn nữa, việc vận dụng luật vào việc quản lý
thực tế vẫn chưa có hiệu quả.
Biểu 1 cho thấy vị trí của FDI trong các
chỉ tiêu của kinh tế
Việt Nam. So với kinh nghiệm các nước Á châu khác, vị trí nầy khá cao.
Chẳng hạn tỉ trọng của FDI trong tổng đầu tư của
Việt Nam xấp xỉ với Malaixia và cao hơn Thái Lan nhiều (trong giai đoạn
1988-93, xem Biểu 2). So với Trung Quốc những năm gần đây thì con số của
Việt Nam cũng cao hơn.
Tuy ở mức cao trong tổng đầu tư, FDI ở
Việt Nam vẫn còn ít nếu xét trên một số chỉ tiêu khác. Biểu 3 so sánh
Việt Nam với Trung Quốc nói chung và tỉnh Quảng Đông (một tỉnh có
nhiều điều kiện như dân số, vị trí địa lý giống
Việt Nam) nói riêng. FDI tính trên đầu nguời ở
Việt Nam chỉ bằng 60% của nước Trung Quốc rộng lớn với số dân 1,3 tỉ
và chỉ bằng 13% của tỉnh Quảng Đông. Như Biểu 3 cho thấy, FDI có tương
quan mật thiết với các chỉ tiêu về thành quả phát triển như GDP trên đầu
người và kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Từ nhận xét nầy, có thể
nói tỉ lệ của FDI trong tổng đầu tư ở
Việt Nam cao là vì đầu tư vốn trong nước (nội lực) còn quá ít.
Việt Nam cần huy động vốn trong dân, cải thiện môi trường đầu tư cho
dân doanh hơn nữa để tăng nội lực. Tóm lại, tỉ lệ khá cao của FDI không
có nghĩa là
Việt Nam không cần ngoại lực nhiều hơn mà vấn đề ở đây là cả nội lực
và ngoại lực đều cần tăng cường.
Xét về chất, FDI tại Việt Nam cho đến
nay có các đặc tính chưa mang lại hiệu quả tích cực cho phát triển kinh
tế. Trước hết có thể thấy tỉ trọng của FDI trong sản xuất công nghiệp
khá cao (gần 40% năm 2000) nhưng chỉ chiếm độ 10% trong lao động công
nghiệp (Biểu 1). Dĩ nhiên điều đó cũng có nghĩa là năng suất lao động
của các doanh nghiệp FDI cao hơn các thành phần kinh tế khác. Nhưng FDI
ít tạo ra công ăn việc làm không phải chỉ vì lý do đó mà chủ yếu vì cho
đến nay FDI có khuynh hướng tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu
và ít dùng lao động. Như Biểu 1 cho thấy, vị trí của FDI trong tổng
nhập khẩu cao hơn trong tổng xuất khẩu. Dĩ nhiên các doanh nghiệp FDI
nhập khẩu nhiều nguyên liệu và máy móc để phục vụ cho cả các dự án đầu
tư hướng về xuất khẩu nhưng nếu phần lớn FDI là hướng về xuất khẩu thì
tỉ lệ của FDI trong nhập khẩu sẽ thấp hơn nhiều.
Để
phân tích sâu hơn tính chất của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, ta
thử chia khu vực công nghiệp chế biến (manufacturing sector) thành 23
ngành và tính thử tỉ lệ của tư bản dùng cho mỗi lao động (capital/labor
ratio, viết tắt là K/L) và tỉ lệ xuất khẩu trong tổng doanh số bán ra
(export/sales, viết tắt là E/S) trong từng ngành. Thống kê về tư bản
được tính bằng cách cộng tất cả kim ngạch đầu tư đã thực hiện từ trước
đến thời điểm cuối năm 2002. Thống kê về lao động lấy số liệu vào cuối
năm 2002, kim ngạch xuất khẩu và doanh số bán ra là của năm 2002.
Trong
Hình 3, trục tung đo tỉ lệ E/S và trục hoành đo tỉ lệ K/L. Ta thấy ngay
rằng trừ một vài ngoại lệ, những ngành có hàm lượng lao động cao (tỉ lệ
K/L thấp) là những ngành mà FDI hoạt động chủ yếu là phục vụ xuất khẩu
(tỉ lệ E/S cao), điển hình là may mặc, giày dép, chế biến đồ gỗ,... Điều
này hợp với lý luận cơ bản về kinh tế quốc tế vì
Việt Nam là nước phong phú về lao động nên có lợi thế so sánh trong các
ngành có hàm lượng lao động cao.
Nhưng
cho đến nay những ngành mà kim ngạch FDI chiếm vị trí hàng đầu là những
ngành thay thế nhập khẩu. Bốn ngành có kim ngạch FDI nhiều nhất (kim
thuộc, thực phẩm và đồ uống, ô tô xe máy và hoá chất) chiếm tới 53% tổng
kim ngạch FDI (luỹ kế từ 1988 đến 2002) đều là những ngành có tỉ lệ K/L
cao và tỉ lệ E/S thấp. Những ngành thay thế nhập khẩu nầy thường là
những ngành được bảo hộ bằng hàng rào quan thuế khá
cao [6].
Do được bảo hộ và do kỳ vọng vào sự lớn mạnh của thị trường gần 80
triệu dân, doanh nghiệp nước ngoài có khuynh hướng muốn đầu tư vào các
ngành thay thế nhập khẩu.
Dĩ
nhiên không phải tất cả các dự án FDI có mục đích thay thế nhập khẩu
đều đáng bị chỉ trích như ta thấy ở một số nghiên cứu khác
[7].
Nếu các ngành đó dần dần không cần bảo hộ vẫn cạnh tranh được trên thị
trường thế giới và do đó chuyển từ thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu
trong tương lai thì vẫn đáng được đánh giá cao (xem như là những ngành
non trẻ có thể được bảo hộ trong thời gian nhất định). Một điểm nữa là
nếu các dự án FDI thay thế nhập khẩu đó có hiệu quả lan toả (spill over
effects), tác động tích cực trong việc chuyển giao công nghệ và năng lực
kinh doanh, kích thích phát triển các doanh nghiệp bản xứ và phát triển
các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước thì những phí tổn bảo hộ cho
toàn xã hội sẽ nhỏ đi và các dự án FDI đó cũng đáng được đánh giá tích
cực. Nhưng lịch sử FDI của các ngành nầy còn ngắn chưa có cơ sở để đánh
giá các ngành thay thế nhập khẩu hiện nay thoả mãn các điều kiện của
những ngành công nghiệp non trẻ không. Do đó, ở đ ây ta sẽ chỉ phân tích
hiệu quả lan toả của các dự án FDI kể cả các dự án thay thế nhập khẩu
và hướng về xuất khẩu (xem phần cuối của Tiết III).
III. Đánh giá sự liên kết giữa nội lực và ngoại lực tại Việt Nam
Dựa trên khung
các khái niệm nói ở phần 2 trong Tiết I, ta sẽ đánh giá sự chuyển giao
công nghệ và năng lưc kinh doanh giữa MNCs với doanh nghiệp FDI (chuyển
giao nội bộ doanh nghiệp) và giữa FDI với doanh nghiệp trong nước
(chuyển giao hàng dọc giữa các loại hình doanh nghiệp). Khái niệm
chuyển giao nầy chỉ một hiện tuợng gần như đồng nghĩa với khái niệm liên kết (linkages)
mà Lall (1977) và UNCTAD (2001) dùng để phân tích quan hệ hiệu quả giữa
doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp bản xứ nên dưới đây ta sẽ dùng cả hai
khái niệm nầy. Nhưng truớc khi đi vào vấn đề nầy, cần có cái nhìn về cơ
cấu các loại hình doanh nghiệp đang hoạt động tại
Việt Nam.
1. Các loại hình doanh nghiệp trong nền công nghiệp
Việt Nam:
Trước
đổi mới, kinh tế
Việt Nam có 3 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp quốc doanh (SOEs),
hợp tác xã và các hộ gia đình. Từ khi có đổi mới, các loại hình doanh
nghiệp khác như doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân ra đời. FDI bắt
đầu từ 1988 nhưng thực sự tăng đáng kể từ năm 1994. Doanh nghiệp tư
nhân tăng đáng kể mới từ năm 2000.
Biểu
4 chia khu vực công nghiệp thành 23 ngành kèm theo thống kê về kim
ngạch sản xuất năm 2000 và thị phần của 3 loại hình doanh nghiệp. Nhìn
chung vị trí của FDI khá cao. Đặc biệt doanh nghiệp FDI có vị trí lớn
trong các ngành ô tô, xe máy, đồ điện gia dụng, máy móc dùng ở văn
phòng. Trong một số ngành có hàm lượng lao động cao như may mặc, giày
dép, FDI cũng có vai trò quan trọng. SOEs đặc biệt mạnh trong các ngành
dùng nhiều tư bản như sản xuất thuốc lá, kim thuộc và hoá chất. Công ty
tư nhân và các hộ cá thể thì tương đối mạnh trong các ngành có hàm lượng
lao động cao và chủ yếu dùng nguyên liệu trong nước như chế biến đồ gỗ,
thực phẩm. Biểu 4 cho thấy may mặc là ngành công nghiệp mà cả 3 loại
hình doanh nghiệp đều có vai trò quan trọng. Ngành nầy sẽ được chọn để
khảo sát sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp khác.
Ngành ô tô xe máy FDI có vị trí áp đảo nhưng đây là ngành liên quan mật
thiết với công nghiệp phụ trợ, ta sẽ chọn để xét xem có sự liên kết giữa
FDI với các loại hình doanh nghiệp khác không.
2. Chuyển giao công nghệ và năng lực kinh doanh từ MNC:
Vào
tháng 8 và tháng 9 năm 2003 tôi có thực hiện một cuộc điều tra thực tế
tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Biên Hoà về hoạt động
của các doanh nghiệp FDI trong các ngành dệt vải, may mặc, giày dép, ô
tô và xe máy. Trong mùa hè các năm truớc đó, một số cuộc điều tra nhỏ
hơn cũng đã được thực hiện. Tổng hợp kết quả các cuộc điều tra nầy cho
thấy các doanh nghiệp FDI tích cực chuyển giao công nghệ cho lao động ở
nhà máy và chuyển giao tri thức điều hành, quản lý cho kỹ sư, nhân viên
quản lý các cấp người
Việt Nam. Khi nguời Việt Nam không hoặc chưa thoả mãn các điều kiện về
chuyên môn, doanh nghiệp nước ngoài mới đưa người ở các nước khác đến.
Người nước khác ở đây không nhất thiết là người nước gốc của MNCs mà kể
cả người ở các nước thứ ba. Đặc biệt nhiều công ty FDI gốc Đài Loan hoặc
Hong Kong thường thuê kỹ sư người ở Trung Quốc, công ty FDI Nhật thường
thuê người Đài Loan, v.v... Sau 3-4 năm hoạt động, các doanh nghiệp FDI
dần dần tìm người
Việt Nam thay thế để giảm phí tổn sản xuất. Tiền lưong của một kỹ sư
người
Việt Nam bằng nửa người Trung Quốc và bằng 1/4 người cùng trình độ từ
Đài Loan sang.
Để
tăng hiệu quả chuyển giao công nghệ và tri thức kinh doanh, điều tiên quyết của
Việt Nam là cần tăng cường giáo dục, đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực cần thiết. Chính sách gần đây của
Việt Nam (hạn chế doanh nghiệp FDI chỉ được dùng người nước ngoài trong giới hạn 3% tổng lao động trong công ty)
[8] là không có cơ sở khoa học và chỉ làm môi trường FDI ở
Việt Nam xấu hơn.
Về
việc chuyển giao năng lực kinh doanh, chưa có số liệu đầy đủ để phân
tích có hệ thống nhưng những thông tin liên quan tôi thu thập được trong
mấy năm qua cho thấy là hiệu quả chuyển giao rất yếu vì các lý do sau:
Thứ nhất, phần lớn đối tác phía
Việt Nam trong các liên doanh FDI là doanh nghiệp quốc doanh (SOEs).
Người quản lý, lãnh đạo kinh doanh được gửi tới các liên doanh thường là
cán bộ ở SOEs hoặc ở các bộ chủ quản của SOEs liên quan. Trong số nầy
cũng có nhiều người vốn có tinh thần doanh nghiệp, tinh thần trách nhiệm
và ham học hỏi nên đã làm việc hiệu quả trong các liên doanh, tích cực
hấp thu tri thức và kinh nghiệm từ đồng nghiệp nước ngoài. Nhưng một
phần khá lớn họ là những người hành động như các quan chức và dồn hết
quan tâm về những vấn đề khác, thay vì làm cho liên doanh phát triển.
Thứ hai, nguyên tắc nhất trí 100% thành viên hội đồng quản trị áp dụng
vào việc quyết định các vấn đề kinh doanh trong liên doanh kéo dài quá
lâu, cải thiện quá chậm gây ảnh hưởng hoạt động của doanh nghiệp FDI. Vì
lý do nầy, MNCs đầu tư ở
Việt Nam có khuynh hướng lập doanh nhgiệp 100% vốn nước ngoài thay vì
liên doanh. Các liên doanh trong quá khứ cũng có khuynh hướng xin chuyển
sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Biểu 5 cho thấy tỉ lệ của các liên
doanh trong tổng số các doanh nghiệp FDI giảm nhanh và liên tục trong
thời gian qua. Như đã phân tích ở Tiết I, FDI với 100% vốn nước ngoài
không đưa lại hiệu quả chuyển giao nguồn lực kinh doanh cao như truờng
hợp liên doanh.
3. Liên kết hàng dọc: Hiệu quả lan tỏa mạnh hay yếu?
Như đã đề cập ở
Tiết 1, hiệu quả lan toả từ FDI đến các thành phần khác trong nền kinh
tế càng cao thì nội lực càng được tăng cường. Qua sự liên kết giữa doanh
nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước (SOEs, doanh nghiệp tư nhân,
các đơn vị cá thể,...), công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển
giao từ doanh nghiệp FDI đến các thành phần khác của nền kinh tế. Để
kiểm chứng hiệu quả nầy, cần xét từng ngành cụ thể. Dưới đây sẽ phân
tích hai ngành may mặc và xe máy là những ngành có các quan hệ hàng dọc
với các ngành khác. Ngoài ra, đây là hai trong những ngành có FDI nhiều,
trong đó FDI ngành may mặc hướng vào thị truờng nước ngoài trong khi
ngành xe máy chủ yếu là thay thế nhập khẩu (Xem Biểu 6).
a. Ngành may mặc:
Dệt
vải và may mặc là những ngành công nghiệp quan trọng của
Việt Nam. Năm 2001, hai ngành nầy chiếm độ 11% giá trị tính thêm trong
toàn bộ ngành công nghiệp chế biến.Từ đầu thập niên 1990s, may mặc trở
thành ngành xuất khâủ hàng đầu của
Việt Nam. Vào giữa thập niên 1990, ngành nầy chiếm 15% tổng kim ngạch
xuất khẩu và độ 50% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Với sự lớn
mạnh của ngành da giày và một số ngành xuất khẩu khác, vị trí của ngành
may mặc có giảm nhưng vẫn chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm
2001.
Trước
giai đoạn may mặc (apparel) là các giai đoạn kéo sợi (spinning), dệt
(weaving) và dệt kim (knitting). Theo Biểu 7, số doanh nghiệp FDI hiện
diện khá đông đảo trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt là khá tích cực
trong giai đoạn may mặc. Trong hai ngành may mặc và dệt nầy, các nước,
các nền kinh tế đầu tư tích cực nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và
Hong Kong (Biểu 6). Nhiều công ty Nhật cũng tích cực. Trừ Singapore,
các dự án của các nước nầy có tỉ lệ xuất khẩu rất cao và tỉ lệ K/L thấp.
Điều nầy cho thấy các nước công nghiệp mới ở Á châu và Nhật Bản đã tận
dụng lao động
Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu mặt hàng điển hình có hàm lượng lao
động cao.
Nhưng hoạt động của các
doanh nghiệp FDI trong ngành may mặc có tạo ra một sự liên kết với các
doanh nghiệp trong nước thuộc các giai đoạn kéo sợi và dệt không? Theo
điều tra của Viện quản lý kinh tế Trung Ương, vào năm 2002, vẫn còn tới
hơn 2/3 số doanh nghiệp FDI dùng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng
may
mặc [9].
Điều tra của tôi vào tháng 8 và tháng 9/2003 cho thấy các doanh nghiệp
có vốn 100% nước ngoài thường có khuynh hướng nhập khẩu hầu như toàn bộ
bán thành phẩm và nguyên liệu cần thiết. Chẳng hạn truờng hợp công ty
100% vốn Nhật Bản sản xuất quần áo ở Khu chế xuất Tân Thuận, vào năm
2003, mặc dầu đã sau 7 năm hoật động tại
Việt Nam, vẫn còn có tới 97% nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu từ
nước ngoài.
Những
doanh nghiệp FDI có dùng (mặc dù số lượng chưa nhiều) nguyên liệu và
bán thành phẩm sản xuất trong nước nằm trong 2 trường hợp sau: Một là
các xí nghiệp liên doanh với các đối tác phía
Việt Nam, các đối tác nầy thường là các công ty quốc doanh mà sản xuất
chính của họ là các mặt hàng trung gian đó. Một trong những động cơ hoặc
điều kiện để lập liên doanh với nước ngoài là tiêu thụ bán thành phẩm
hay nguyên liệu họ có sản xuất. Hai là các doanh nghiệp FDI ngành may
mặc mua bán chế phẩm hay nguyên liệu từ những liên doanh FDI khác. Từ
giữa thập niên 1990, FDI vào
Việt Nam để sản xuất các sản phẩm nầy bắt đầu tăng và vào đầu năm 2003
đã có trên dưới 50 doanh nghiệp vốn nước ngoài sản xuất sợi và vải tại
Việt Nam (xem Biểu 7).
Kết
quả khảo sát nầy cho thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp thuần tuý vốn trong nước là rất yếu. Doanh nghiệp FDI có
khuynh hướng dùng nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu hoặc do các
công ty FDI khác sản xuất. Nguyên nhân là vì doanh nghiệp nhà nước trong
ngành không cung cấp các sản phẩm chất lượng cao và/hoặc không đảm các
điều kiện về giao hàng. Doanh nghiệp tư nhân trong nước còn quá yếu.
b. Trường hợp ngành xe máy:
Từ
giữa thập niên 1990, thị truờng xe máy ở
Việt Nam tăng nhanh. Trước năm 1997, nhiều công ty thương mại nhà nước
nhập khẩu xe cũ từ Nhật Bản. Nhưng từ 1997 xe cũ không được phép nhập
nữa và từ năm 1998 nhập khẩu xe mới cũng bị cấm. Chính sách nầy nhằm đẩy
mạnh sản xuất thay thế nhập khẩu tại
Việt Nam.
Từ
đầu thập niên 1990, một số công ty lắp ráp trong nước đã ra đời. Họ
nhập khẩu linh kiện nguyên chiến (CKD) hoặc linh kiện rời (IKD) về lắp
ráp bán tại thị trường trong nước. Công nghệ lắp ráp CKD đơn giản nên
nhà nước chỉ dành cho một số các công ty quốc doanh. Các công ty ngoài
quốc doanh phải theo hình thức IKD. Trong tình hình đó, từ giữa thập
niên 1990, số doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất tăng nhanh. Đến tháng
6/2002 đã có 7 công ty FDI trong số 52 doanh nghiệp lắp ráp xe máy. Số
doanh nghiệp FDI không nhiều nhưng quy mô lớn và có uy tín quốc tế nên
chiếm thị phần không nhỏ. Đặc biệt nổi tiếng nhất là Honda. Nhờ thanh
danh, nhãn hiệu nổi tiếng và thị phần lớn nên giá bán xe máy của Honda
cao và công ty nầy đã có thể có lời từ năm 1999, chỉ 15 tháng tính từ
ngày bắt đầu sản xuất. Nhưng khi thông tin về phí tổn sản xuất và giá
bán của xe máy do Honda lắp ráp tại Thái Lan lan truyền tại
Việt Nam, dư luận xã hội đã chỉ trích Honda về thành quả hoạt động kinh
doanh tại
Việt Nam. Cùng lúc đó, nhiều doanh nghiệp trong nước bắt đầu nhập linh
kiện xe Trung Quốc và sản xuất với giá rẻ. Tuy chủ yếu bán cho giới tiêu
thụ thu nhập thấp, nhất là tại thị truờng nông thôn, các loại xe máy
nầy xâm lấn vào thị trường của Honda. Vào tháng 1/2002 Honda đối phó
bằng chiến lược nhập linh kiện IKD từ Trung Quốc và sản xuất loại xe
mới, giá rẻ, giành lại thị trường
[10].
Xe
máy giá rẻ đã nhanh chóng làm cho thị trường phát triển mạnh nhưng cũng
làm tăng tai nạn giao thông. Năm 2002, chính phủ hạn chế số lượng xe
máy mới lưu thông trên thị trường, chỉ cho phép đăng ký 1,5 triệu chiếc,
bằng 75% năm 2001. Trong số 1,5 triệu chiếc, 900.000 chiếc là hạn ngạch
dành cho doanh nghiệp trong nước và phần còn lại cho doanh nghiệp FDI.
Mặc dù số lượng 600.000 chiếc dành cho doanh nghiệp FDI là khá lớn so
với lượng sản xuất của họ năm 2001, nhưng vì các công ty FDI đã có kế
hoạch đẩy mạnh sản xuất với số lượng cao hơn hạn ngạch được phân phối
nên nhiều công ty đã phải điều chỉnh kế hoạch kinh doanh (Honda tạm
ngừng sản xuất vào tháng 9 năm 2002, một sự kiện được các cơ quan truyền
thông loan báo rộng rãi làm hình ảnh môi trường FDI ở
Việt Nam xấu đi).
Chính
sách của
Việt Nam trong ngành xe máy cũng có một số cơ sở nhất định nhưng vấn đề
là chính phủ không có kế hoạch lâu dài cho ngành nầy và chính sách thay
đổi đột ngột làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh
nghiệp. Môi trường FDI xấu, sản xuất của doanh nghiệp FDI bất ổn định dĩ
nhiên ảnh hưởng đến sự chuyển giao công nghệ và tri thức kinh doanh đến
các doanh nghiệp trong nước vì kế hoạch sản xuất của xe máy không ổn
định thì kế hoạch tạo sự liên kết với các doanh nghiệp cung cấp phụ
kiện, bộ phận cũng bất ổn.
Về
sự liên kết giữa FDI với các công ty trong nước, ít có tư liệu để kiểm
chứng. Sau đây ta xét hoạt động của Honda là truờng hợp tương đối tác
giả thu thập được nhiều thông tin.
Như
Biểu 8 cho thấy, tỉ lệ nội địa hoá của Honda khá cao ngay từ lúc mới
bắt đầu sản xuất và tăng nhanh trong những năm sau đó. Tỉ lệ nầy cao hơn
cả tỉ lệ quy định của chính phủ
Việt Nam. Theo chính sách áp dụng cho ngành xe máy, doanh nghiệp FDI
phải thực hiện tỉ lệ nội địa hoá ít nhất 10% vào lúc bắt đầu sản xuất và
tăng tỉ lệ đó lên ít nhất 60% vào năm thứ sáu. Sự tích cực nội địa hoá
của Honda có thể được giải thích bằng dự tưởng ban đầu của công ty nầy
về khả năng mở rộng sản xuất trong tương lai. Quy mô lắp ráp xe máy càng
được mở rộng, thị trường cho các linh kiện và các sản phẩm trung gian
khác càng lớn và trở thành điều kiện để sản xuất hiệu quả các sản phẩm
trung gian đó. Tăng tỉ lệ nội địa trong truờng hợp như vậy sẽ làm cho
giá thành sản xuất xe máy giảm, lợi nhuận của Honda sẽ tăng hơn.
Năng
lực sản xuất của Honda Việt Nam đầu năm 2001 là 400.000 chiếc nhưng quy
mô sản xuất thực tế của công ty nầy trong năm 2001 chỉ có 170.000 chiếc
vì sức ép cạnh tranh từ xe máy Trung Quốc. Nhưng qua năm 2002, sau khi
đưa loại xe mới (Wave Alpha) vào thị truờng, Honda chiếm lại thị phần đã
mất và dự tưởng thị trường xe máy ở
Việt Nam đương lớn mạnh nên đã tăng năng lực sản xuất lên 600.000 chiếc
(Nhưng do chính sách hạn chế sản xuất và phân bổ hạn ngạch của chính phủ
Việt Nam vào tháng 9/2002, Honda chỉ sản xuất được 390.000 vào năm
2002). Tỉ lệ nội địa hoá khá cao của Honda có thể được hiểu trong bối
cảnh dự tưởng tăng năng lực sản xuất ấy.
Nhưng
quan tâm của chúng ta là tỉ lệ nội địa hoá cao ấy có đi theo liền với
sự liên kết hiệu quả với các doanh nghiệp trong nước không. Nội địa hoá
là dùng linh kiện và các sản phẩm trung gian khác sản xuất tại
Việt Nam theo 3 kênh: (1) Sản xuất trong nội bộ nhà máy lắp ráp
(in-house production) của Honda, (2) mua từ các doanh nghiệp FDI khác,
(3) mua từ các doanh nghiệp thuần tuý bản xứ. Dĩ nhiên sự liên kết giữa
Honda với SOEs hoặc các doanh nghiệp tư nhân của
Việt Nam sẽ càng mạnh nếu kênh thứ (3) càng quan trọng. Rất tiếc là kết
quả điều tra của tôi không cho thấy như vậy: Cho đến nay, Honda chủ yếu
dùng kênh (1) và kênh (2) mặc dù công ty nầy đã cố gắng tìm kiếm các khả
năng để dùng kênh (3) nhiều hơn để giảm phí tổn sản xuất. Như Biểu 8
cho thấy, vào năm 2003, Honda đã mua linh kiện và các sản phẩm trung
gian khác từ 42 doanh nghiệp hoạt động tại
Việt Nam nhưng trong đó chỉ có 13 doanh nghiệp là của vốn trong nước.
Được biết Honda mỗi năm khảo sát hơn 100 doanh nghiệp
Việt Nam, kể cả SOEs và tư nhân, để tìm những công ty có tiềm năng qua
đó sẽ chuyển giao công nghệ để các công ty đó có thể cung cấp linh kiện
và các sản phẩm đầu nhập khác với phẩm chất và giá thành chấp nhận được.
Nhưng lúc đầu chỉ có 5 công ty đáp ứng các điều kiện đó. Con số nầy
cũng chỉ tăng đến 13 công ty năm
2003 [11].
Tóm
lại, cũng như trong truờng hợp của ngành dệt may, sự liên kết hàng dọc
giữa doanh nghiệp FDI và doanh nhgiệp bản xứ trong ngành xe máy cũng quá
yếu. Cần có chính sách tăng cường nội lực bằng cách xây dựng công
nghiệp phụ trợ (supporting industries), tái cấu trúc SOEs và đẩy mạnh
phát triển doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa để ngày càng có nhiều công ty
bản xứ có điều kiện liên kết đuợc với doanh nghiệp FDI.
Kết luận:
Bài viết nầy xem vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh (managerial resources) là những biểu hiện cụ thể của từ lực
trong nội lực và ngoại lực, và đưa các khái niệm đó cùng với các khái
niệm thay thế nguồn lực nước ngoài (catching-up in foreign resources),
liên kết (linkages), chuyển giao công nghệ (technology transfer) vào
trong một khung phân tích. Phân tích về mặt lý luận cho thấy nội lực và
ngoại lực liên quan mật thiết với nhau, ngoại lực có thể làm tăng cường
nội lực, và để xử dụng hiệu quả ngoại lực cần có chính sách lành mạnh
hoá nội lực.
Đánh
giá FDI tại
Việt Nam trên bình diện vĩ mô và phân tích cụ thể hai ngành may mặc và
lắp ráp xe máy cho thấy
Việt Nam còn có khuynh hướng cảnh giác ngoại lực, chưa tận dụng ngoại
lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá và chưa tạo sự liên kết hiệu quả giữa
doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân.
Hàm ý về chính sách ở đây là tạo môi trường thuận lợi để có thể tận dụng
tối đa FDI mà không sợ kinh tế bị các công ty đa quốc gia chi phối, và
việc lành mạnh hoá doanh nghiệp quốc doanh và tạo điều kiện để doanh
nghiệp tư nhân phát triển là những tiền đề cần thiết để dùng ngoại lực
tăng cường nội lực. Các chính sách hạn chế hoạt động của doanh nghiệp
FDI hiện nay đều làm giảm hiệu quả của ngoại lực trong quá trình tăng
cường nội lực.
7/2004
Chú thích:
1
Tại
Việt Nam, trong các văn kiện chính thức của chính phủ và của Đảng Cộng
sản, FDI đuợc xem là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân giống như các
thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, trên thực tế FDI vẫn còn bị xem là
lực lượng đối lập với các thành phần khác. Báo chí và đài truyền hình
thuờng giới thiệu các ý kiến trong dân chúng, đại loại như: Chất xám của
Việt Nam đương chảy sang doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp FDI không
mất một đồng vốn đầu tư xây dựng nguồn nhân lực nhưng lại thu hút hết
người tài giỏi của Việt Nam. Chính phủ cũng có quy định là những lãnh
vực nào doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư thì không cho doanh nghiệp
FDI hoạt động, doanh nhgiệp FDI không được thuê lao động nước ngoài quá
3% tổng số lao động trong doanh nghiệp. Từ phân tích của bài viết nầy
ta sẽ nhận ra được rằng các ý kiến nêu trên đều không đúng và chỉ làm
môi trường đầu tư xấu đi.
2
Nội lực nếu hiểu theo nghĩa rộng có thể bao gồm khả năng của chính phủ
trong việc hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển và khả năng quản
lý, xử dụng vốn nước ngoài. Nhưng ở đây ta không đi xa vào vấn đề nầy.
3
BOT: Thông thường thấy trong trường hợp xây dựng các dự án hạ tầng như
cầu, xa lộ,.. trong đó nước ngoài đưa vốn, công nghệ vào và hoàn toàn
chịu trách nhiệm việc xây dựng và điều hành. Khi kết thúc thời gian hợp
đồng thì chuyển giao lại cho nước sở tại. OEM: Doanh nghiệp nước ngoài
đặt hàng và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp bản xứ, sau đó sẽ mua
hết hàng sản xuất được và bán ra thị truờng thế giới bằng nhãn hiệu của
công ty nước ngoài.
4 Về chi tiết, xem Trần Văn Thọ (1997), tr. 153-157.
5
Kojima (1977) là một trong những nhà kinh tế đầu tiên bàn vấn đề nầy về
mặt lý luận. Tôi đã có dịp phân tích nỗ lực của Hàn Quốc trong việc
tiếp thu công nghệ và tri thức kinh doanh qua hình thái liên doanh (Xem
Trần Văn Thọ 1988). Dĩ nhiên FDI với 100% vốn nước ngoài cũng có thể
được khuyến khích nếu các mục đích khác như xúc tiến xuất khẩu, tạo công
ăn việc làm, v.v.. đang được nhấn mạnh.
6
Vào những năm cuối thập niên 1990, thuế nhập khẩu sản phẩm kim loại là
256%, sản phẩm chất dẻo (plastics) là 185% và sản phẩm giấy là 118%. Xem
World Bank 2000, p. 25.
7 Chẳng hạn Sachs et. al. (1997) chỉ trích FDI ở
Việt Nam chủ yếu là thay thế nhập khẩu nên không phát huy lợi thế so sánh và ít tạo công ăn việc làm.
8 Theo Thời báo kinh tế Saigon, 1/7/2004.
9 Tư liệu tham khảo theo Đặng Thị Đông (2003). Xem thêm Goto (2003).
10
Theo tôi, so sánh với nuớc khác như Thái Lan chẳng hạn, giá xe máy
Honda sản xuất ở
Việt Nam cao vì 3 lý do: Phí tổn khấu hao (depreciation cost) cao (vì
thời gian hoạt động của nhà máy ngắn hơn nhiều), quy mô sản xuất nhỏ, và
điều kiện thị truờng (bảo hộ, có lợi cho công ty có khả năng chi phối
bằng nhãn hiệu nổi tiếng như Honda). Dư luận ở
Việt Nam phê phán Honda bán giá cao nhưng chỉ dựa trên cảm tính (bóc lột
giới tiêu thụ để tăng lợi nhuận) chứ không dựa trên kết quả của các
phân tích khoa học. Yếu tố thứ ba yếu đi khi công ty trong nước được
phép nhập linh kiện rẻ từ Trung Quốc buộc Honda phải có hành động tương
tự để sản xuất loại xe máy rẻ hơn (nhãn hiệu mới là Wave Alpha).
11
Honda Thái Lan sản xuất mỗi năm độ 1 triệu xe máy, khoảng gấp đôi mức
sản xuất của Honda Việt Nam, nhưng tại Thái Lan hiện nay hơn 100 doanh
nghiệp bản xứ cung cấp linh kiện, phụ tùng cho Honda. Dĩ nhiên Honda
Thái Lan có lịch sử dài hơn Honda
Việt Nam nên không thể so sánh một cách máy móc. Nhưng dù có sự khác
biệt đó, vẫn phải ghi nhận là số lượng doanh nghiệp bản xứ có thể tham
gia vào kế hoạch nội địa hoá của Honda đương có một khoảng cách khá xa
giữa hai nước.
Tư liệu có trích dẫn:
Đặng Thị Đông (2003), Công nghiệp dệt may: Giá trị gia tăng và chiến lược phát triển, Chương 2 trong JICA và NEU (2003).
Goto, Kenta (2003),
“Sen-i Hosei Sangyo: Ryutsu Mihattatsu no Kensho (Ngành công nghiệp dệt
may: Kiểm chứng sự chậm phát triển trong lưu thông),” Ch. 5 trong Ohno
and Kawabata, eds. (2003).
JICA and NEU (2003),
Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập, Tập III, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
Lall, Sanjaya (1978), “Transnationals, Domestic Enterprises, and Industrial Structure in Host LDCs: A Survey,” Oxford Economic Paper, Vol 30, No. 2, July.
Kojima Kiyoshi (1977), “Transfer of Technology to Developing Countries: Japanese Type versus American Type,” Hitotsubashi Journal of Economics 17, No.2, pp. 1-14.
Ohno Ken-ichi and Nozomu Kawabata, eds. (2003), Betonamu no Kogyoka- Senryaku (Chiến lược công nghiệp hoá Việt Nam), Nihon Hyoronsha, Tokyo.
Oman, Charles (1984), New Forms of International Investment in Developing Countries, Paris: OECD Development Center Studies.
Sachs et. al. (1997), Development Strategy for Vietnam: Challenges to Prosperity, Harvard Institute for International Development (HIID), Harvard University, September.
Tran Van Tho (1988),
“Foreign Capital and Technology in the Process of Catching-up by the
Developing Countries: The Experience of the Synthetic Fiber Industry in
the Republic of Korea,” The Developing Economies, Vol. XXVI No. 4, December, pp. 386-402.
Trần Văn Thọ (1997), Chiến lược công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại châu Á Thái bình dương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, VAPEC Hồ Chí Minh và Thời báo kinh tế Saigon.
UNCTAD (2001), World Investment Report: Promoting Linkages, United Nations, New York and Geveva.
World Bank (2000), Vietnam 2010: Entering the 21st Century (Vietnam Development Report 2001), the World Bank, Asian Development Bank and United Nations Development Program.
© Thời Đại Mới
Posted in: Kinh Tế
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét