Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA KINH NGUYỆN & KINH THÁNH


Ai cũng biết các sách Kinh Thánh (Books of the Bible) là cái gốc của các đạo độc-thần và được các tín đồ coi là cuốn sách cao quý nhất trên hết các sách ở trên đời, nhưng trong thực tế hầu như tuyệt đại đa số giáo dân không đọc Kinh Thánh bao giờ. Các sách Kinh Thánh thường rất dày như những cuốn tự điển, in trên giấy mỏng đặc biệt (biblical paper) chữ in nhỏ với lối văn dịch nhiều chỗ ngô nghê và khó hiểu. Trước đây, sách Kinh Thánh thường được những người Công Giáo lớn tuổi gọi là Sách Sấm Truyền, ngày nay người ta thường gọi Kinh Thánh là Sách Phúc Âm hay sách Tin Mừng (do tiếng Hy Lạp Gospels có nghĩa là Good News). Thông thường vào mỗi buổi lễ ngày Chủ nhật, các cha cố thường trích một đoạn nào đó trong Thánh Kinh để thuyết giảng cho giáo dân nghe sau khi đã chọn lọc và nghiên cứu kỹ càng. Do đó giáo dân có ảo tưởng Thánh Kinh gồm toàn những lời hay ý đẹp cả. Trong các lễ ngày Chủ nhật hiện nay, một vài giáo dân được đề cử để đọc một vài đoạn Thánh Kinh nào đó. Sau khi đoạn sách được đọc xong, người đọc nâng cao sách Thánh Kinh lên rồi kính cẩn nói: "Đó là Lời Chúa" và mọi người trong nhà thờ cùng đáp: "Tạ ơn Chúa!".
Sự thật trong cái gọi là Thánh Kinh không thiếu gì những điều nhảm nhí và vô luân. Ngược lại, có nhiều điều rất hợp lý và bổ ích nhưng các cha cố đã cố tình tránh né không dám mang ra giảng cho giáo dân nghe vì những điều này có hại cho nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn như lời của Jesus dạy về sự bình đẳng: "Mỗi người trong anh em đều là Thầy của nhau. Tất cả đều là anh chị em của nhau" (For one is your Master and all ye are brethen – Matt.23: 4-10). Lời của giáo chủ dạy về sự bình đẳng rõ ràng như thế nhưng các tu sĩ Công Giáo chẳng bao giờ coi giáo dân là những người bình đẳng với họ. Họ luôn luôn cao ngạo tự xưng mình là CHA thiên hạ, các đấng Bề Trên, Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh Cha... Các giáo chủ lập đạo là nhữung tâm hồn yêu thương toàn nhân loại và quý trọng giá trị của mọi người dù bé nhỏ đến đâu. Các vị đó chỉ muốn giúp đỡ phục vụ con người chứ không lên mặt làm Thầy của bất cứ ai. Trái lại, tu sĩ Công Giáo đa số rất tự phụ, cao ngạo, ích kỷ, tham lam và đạo đức giả. Bởi lẽ trí óc của họ rất hẹp hòi và trình độ tâm linh rất thấp kém nên họ đã không hiểu đạo. Các giáo chủ càng đạo đức và khiêm tốn bao nhiêu thì đệ tử của các ngài lại càng hư đốn và kiêu căng láo xược bấy nhiêu.
Phúc âm Tông đồ Công Vụ dạy rằng: "Thánh Linh Thiên Chúa không ngự trong các đền thờ được xây dựng bởi bàn tay con người" và "Anh em là đền thờ của Chúa, Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh em" (The Holy Spirit of God no longer dwelt in temples made with men’s hands – Act.17:24 – Ye are the temples of God, the Spirit of God dwelt in you – Corinth 3:16). Chúa cũng như Phật đều xác nhận tâm linh con người mới đích thực là các đền thờ thật. Đức Phật dạy "Phật tại tâm" chứ không hề dạy "Phật tại Chùa" bao giờ. Nhưng nhiều tu sĩ của các tôn giáo đã biến các nơi thờ tự thành những nơi buôn thần bán thánh, làm hủy hoại chân lý của các giáo chủ. Chính chúng đã làm cho các vị giáo chủ mất hết chỗ đứng trong những ngôi đền thật là tâm hồn của mọi người. Một sự thật hiển nhiên là các tu sĩ chỉ lo xây dựng những ngôi đền giả vì nhữntg động lực ích kỷ thấp hèn của chúng và chúng ra sức phá hủy các ngôi đền thật quý giá vô cùng là lòng người. Thay vì dùng tôn giáo để giải phóng con người, các tu sĩ đã biến các tôn giáo thành những nhà tù tư tưởng để giam hãm đồng loại và biến đồng loại thành nô lệ phục vụ cho quyền lợi ích kỷ của chúng. Bởi vậy chúng chỉ trích dẫn từ Kinh Thánh những gì có lợi cho chúng mà thôi, những điều tốt lành nhưng bất lợi cho chúng thì chúng hoàn toàn dấu nhẹm!
Kinh Thánh là một bộ sách rất phức tạp gồm nhiều cuốn sách do nhiều người viết trong những thời đại khác nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm của Công Giáo La Mã thì Thánh Kinh gồm có hai phần: Các sách Kinh Thánh của đạo Do Thái được người Công Giáo công nhận là Cựu Ước gồm có 46 cuốn được viết bằng tiếng Hebrew trong khoảng thời gian từ 1000 TCN đến 400 TCN. Các chuyện kể trong những sách này đều là những chuyện dân gian truyền khẩu được góp nhặt lại, trong đó có rất nhiều chuyện thần thoại được sáng tác ở Babylon từ nhiều thế kỷ trước đó. Các giáo phái Tin lành chỉ công nhận 39 cuốn trong tổng số 46 sách Cựu Ước nói trên mà thôi. Sáu cuốn khác, trong đó có cuốn Wisdom of Salomon, bị họ coi là những chuyện bịa đặt nhảm nhí!
Các sách kể chuyện về cuộc đời hoạt động của Jesus và các môn đệ gọi là Tân Ước gồm 27 cuốn do nhiều người viết bằng tiếng Hy Lạp trong 60 năm (từ năm 40 đến cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên). Chúng ta cần chú ý một số điểm là cả Jesus và đồng bạn đều là người Do Thái nhưng không nói tiếng Do Thái (Hebrew) mà nói tiếng Aramaic là ngôn ngữ của người Syria. Không một cuốn sách Tân Ước nào được viết bằng tiếng Aramaic là tiếng mẹ đẻ của Jesus. Ông giảng đạo và chết tại Do Thái vào khoảng năm 29 sau Công Nguyên, tới 11 năm sau mới có cuốn sách đầu tiên kể chuyện về ông và người ta tiếp tục viết cái gọi là Thánh Kinh Tân Ước tại Hy Lạp dài dài cho tới hơn 70 năm sau để làm chứng cho những phép lạ mà Jesus đã làm tại một nơi xa xôi là Jerusalem!
Vào đầu thế kỷ thứ 7, tại thành phố Mecca thuộc xứ Ả Rập Seoudite, một thương gia giàu có là Mahomet đã lập ra đạo Hồi với sự cộng tác của Zayd là một tín đồ Do Thái Giáo và của Waraqua là một tín đồ Ki-tô Giáo. Do đó, đạo Hồi là một sự tổng hợp của hai đạo nói trên. Đạo Hồi công nhận một phần Thánh Kinh Cựu Ước và một phần Thánh Kinh Tân Ước. Họ tin tổ tông loài người là Adam và Eva, họ nhận Baraham là tổ phụ và là người sáng lập Đạo Thiên Chúa (Monotheism). Người Hồi Giáo thù ghét Do Thái Giáo và Ki-tô Giáo vì họ cho đó là những tà đạo phỉ báng Thiên Chúa (blasphemous). Họ hết sức khinh bỉ giáo lý "Thiên Chúa Ba Ngôi" của Ki-tô Giáo. Nhưng họ lại rất tôn trọng các tiên tri Do Thái từ Abraham, Isaac, Jacob, Moses, Isaiah cho đến Jesus. Đối với người Hồi Giáo chỉ có Mahomet là tiên tri cuối cùng và cao hơn hết thảy. Kinh Thánh Coran do Mahomet viết liên tục trong 23 năm là sách Thánh Kinh đúng đắn nhất. CORAN (tiếng Ả Rập là Quran) có nghĩa là Sự Thuật Lại (Recitation) vì Mahomet không nhận mình là tác giả mà chỉ nhận là người ghi chép lại những điều thiên thần Gabriel đọc cho ông ta viết mà thôi. Mahomet viết: "Abraham là tín đồ Hồi Giáo đầu tiên biết tuân phục Đức Chúa Trời. Đức tin của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin Thiên Chúa và những điều đã được Ngài truyền cho Abraham, Isaac, Jacob, Ismael và dòng dõi của các vị đó. Chúng ta tin vào những điều đã được làm chứng bởi Moses và Jesus" (Abraham had been the first Muslim to surrender to God. Ours is the creed on Abraham. We believe in God and in that which has been bestowed upon Abraham, Isaac, Jacob, Ismael and their descendants and that which has been vouched to Moses and Jesus – Koran 2:135-136).
Nói tóm lại, các đạo thờ Chúa gồm có Do Thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo gọi chung là Thiên Chúa Giáo hay Độc Thần Giáo (Monotheism) đều coi Thánh Kinh là bộ sách quan trọng nhất. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo có những quan niệm riêng về thành phần của Bộ Thánh Kinh: Do Thái Giáo chỉ công nhận Cựu Ước. Ki-tô Giáo công nhận phần lớn các sách Cựu Ước nhưng Tân Ước là chủ yếu. Đạo Hồi công nhận một phần các sách trên nhưng kinh Coran là chủ yếu. Chỉ vì những chi tiết khác biệt nhỏ nhặt mà ba tôn giáo thờ cùng một Chúa và có chung các thánh tổ phụ đã chém giết nhau trong nhiều thế kỷ làm thiệt mạng hàng trăm triệu người! Đó là hậu quả của nền văn hóa du mục bắt nguồn từ Babylon. Chính Kinh Thánh Khải Huyền cũng phải công nhận: "Huyền thoại Babylon vĩ đại là mẹ của những con điếm và những chuyện khủng khiếp trên thế giới!" (Mystery Babylon the Great, mother of harlots and abominations of the earth. Rev.17:1-6).
Nội dung của các Sách Kinh Nguyện Công Giáo (Catholic prayer-books) trên nguyên tắc phải phù hợp với nội dung của các sách Kinh Thánh bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Trong thực tế có nhiều bài kinh nguyện (prayers) đã phản lại tinh thần Thánh Kinh (antiscriptural) hoặc không có căn bản Thánh Kinh (Unscriptural). Theo Thánh Kinh Cựu Ước thì mọi người chỉ có thể cầu nguyện với Thiên Chúa mà thôi chứ không được cầu nguyện với bất cứ ai khác vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Việc cầu nguyện các thánh bị coi là nói chuyện với những người đã chết bị Cựu Ước lên án (All attempts to communicate with the dead are condemned – Isaiah 8:19-20). Trong các sách kinh nguyện Công Giáo có rất nhiều bài kinh dùng để cầu nguyện với các thánh đã chết, như vậy là đã chống lại Thánh Kinh.
Những bài kinh dùng để lần chuỗi Mân Côi được người cầu kinh lặp đi lặp lại nhiều lần là trái với lời dạy của Jesus: "Khi anh em cầu nguyện đừng lặp đi lặp lại như những kẻ ngoại vì họ lầm tưởng rằng cứ nói nhiều thì sẽ được nghe nhiều". (When ye pray, use not vain repititions as the heathen do for they think that they shall be heard for their much speaking -–Matt. 6:7-13).
Những bài kinh ca ngợi Đức Mẹ Đồng Trinh là trái với Cựu Ước vì Cựu Ước chỉ nói rằng Chúa Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ "Trẻ" chứ không phải là "Đồng Trinh". Sách của Matthew là sách duy nhất trong bộ Tân Ước nói Đức bà Maria đồng trinh bằng cách trích dẫn sách của Isaiah trong Cựu Ước, nhưng các nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã phát giác ra sự ngụy tạo của Matthew vì Isaiah dùng chữ Hebrew "ALMAH" có nghĩa là trẻ (young) chứ không hề có nghĩa là Đồng Trinh (virgin). Ngoài ra còn rất nhiều điều ngụy tạo trong bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng La Tinh của Jerôme (Vulgate) so với chính bản Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp hoặc những điều ngụy tạo trong các bài kinh nguyện so với Thánh Kinh sẽ được trình bày ở những đọan sau.
Các bài kinh nguyện (prayer) phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau và xuất hiện trong nhiều thời điểm khác nhau nhưng nói chung các bài kinh này đều đã phải trải qua sự kiểm duyệt kỹ càng của Vatican. Căn cứ vào Thánh kinh và lịch sử giáo hội Công Giáo, ta có thể biết được nguồn gốc của một số kinh nguyện như sau:
1. Kinh Mười Điều Răn xuất phát từ đạo Do Thái.
Theo Thánh Kinh Cựu Ước Exodus thì khoảng năm 1200 TCN, Moses (tức thánh Mai-sen) một mình leo lên núi Sinai ở phía Bắc Hồng Hải (hiện thuộc lãnh thổ Ai Cập) để gặp và nói chuyện mặt đối mặt với Thiên Chúa Jehovah. Moses nhận hai phiến đá ghi 10 điều răn, tức 10 điều luật, từ tay Thiên Chúa Jehovah trực tiếp trao cho. Sau đó Moses xuống núi công bố cho dân Do Thái biết rằng Jehovah là Thiên Chúa của Israel và chính là thần EL của các tổ Phụ Abraham, Issac và Jacob. Chúa phán cùng Moses rằng: "Ta là Thiên Chúa của tổ phụ ngươi, Thiên Chúa của Abraham, của Issac và Jacob"(I am the God of your father, the God of Abraham, the God of Issac and the God of Jacob – Exodus 3:5-6). Tuy xác nhận Jehovah chính là thần bò EL (còn gọi là Elohim) nhưng Moses lại cấm dân chúng thờ ảnh tượng bò thần. Moses ra lệnh giết liền một lúc trên 3000 người bất tuân lệnh. Y ra lệnh cho những người Levy là đồng bọn của y nấu chảy tượng thần bò đúc bằng vàng rồi lấy vàng nóng chảy đổ vào tai, mắt, miệng của những người đã đúc ra nó để xử tử họ.
Điều thứ nhất cấm không ai được thờ thần nào khác ngoài Jehovah. Điều thứ hai cấm thờ ảnh tượng. Điều thứ ba cấm mọi người làm việc trong ngày thứ bảy (Sabbath). Có nhiều người lên rừng kiếm củi để nấu bếp vào ngày Sabbath bị Maisen bắt đem đi xử tử. Điều thứ tư khuyên mọi người phải thảo kính cha mẹ. Điều thứ năm cấm giết người nhưng trong thực tế Moses giết người như ngóe!... Tóm lại, Kinh Mười Điều Răn chỉ là bản tóm tắt các luật lệ của đạo Do Thái, Kinh Thánh Cựu Ước Pentateuch mới là văn bản luật pháp chi tiết khai triển 10 điều răn thành 613 điều luật (mitzvot). Tuy điều thứ tư có dạy người ta phải thảo kính cha mẹ, nhưng trong Luật Pentateuch lại có những điều khuyên mọi tín đồ không được thương xót cha mẹ vợ con anh em mà phải giết họ nếu họ tuyên truyền đạo khác. Nhiều điều luật chi tiết buộc tín đồ phải cung cấp cho các tu sĩ những nông sản đầu mùa, rượu ngon và lông cừu để họ làm áo (Exodus 22:20 – Pentateuch 5:12-15), buộc tín đồ phải diệt hết các đạo của kẻ ngoại, đập tan đền thờ và đốt trụi hết các tượng thần của chúng, treo cổ các tu sĩ của những đạo đó để làm nguôi cơn thịnh nộ của "đức" Jehovah... (Pentateuch 12:2-3). Chẳng khác gì giáo dân La Vang nghe lời xúi giục của bọn cố Tây đi cướp phá chùa Phật Giáo để xây nhà thờ kính Đức Mẹ Maria của họ vào cuối thế kỷ 19!
Mong rằng sẽ có nhiều người Công Giáo biết chịu khó lấy Kinh thánh Cựu Ước ra mà đọc để tận mắt nhìn thấy Thiên Chúa Jehovah của họ độc ác và mất dạy như thế nào. Nếu thấy Kinh Thánh dầy quá hoặc khó đọc thì xin hãy tìm đọc cuốn "Lòng Tin Âu Mỹ Đấy!" do Đồng Thanh xuất bản năm 1996, Văn Nghệ phát hành. Sách có hai phần: Phần đầu là tác phẩm Tín Ngưỡng Tây Phương (144 trang) của tác giả Trần Quý và phần sau là tác phẩm The Age of Reason của Thomas Paine viết vào cuối thế kỷ 18, Trần Quý dịch ra Việt Ngữ dưới tựa đề "Thời Đại Lý Trí" (156 trang). Khi đọc sách này, xin quý vị đừng vội nghĩ rằng các tác giả thù ghét Công Giáo nên viết bậy bạ để bêu xấu. Thật sự không phải đến ngày nay người ta mới nhận thức được Thiên Chúa Jehovah (tức Đức Chúa Cha của Công Giáo) thực chất là một con quỷ mà nhiều giáo phái Ki-tô Giáo nguyên thủy trong 3 thế kỷ đầu Công Nguyên, tức trước khi Ki-tô Giáo bị Constantine diệt vào đầu thế kỳ 4 để lập ra đạo Công Giáo, cũng đã nói rất rõ những điều này trong các sách giáo lý của họ:
- Giáo Phái Ngộ Đạo (Gnosticism) là một giáo phái Ki-tô nguyên thủy thịnh hành tại Ai Cập và vùng Tiểu Á trong hơn 3 thế kỷ đầu, chủ trương tôn thờ Thượng Đế và phủ nhận Jehovah của đạo Do Thái. Đối với họ, con rắn ở vườn Địa Đàng là một vị thần khôn ngoan muốn giúp tổ tiên loài người là Adam và Eve trở nên khôn ngoan sáng suốt bằng cách ăn trái của Cây Hiểu Biết (The Tree of Knowledge). Vì lẽ đó, con rắn không phải là quỷ mà là một đại ân nhân của loài người. Điều không may là Adam và Eva quá sợ ác thần Jehovah nên đã không ăn trái cây này nên loài người đã chìm đắm trong sự ngu dốt và đau khổ triền miên vì không thoát ra được sự ức chế của con qủy Jehovah!. Con quỷ Jehovah biết rất rõ rằng sự hiểu biết sẽ giúp con người thoát ra khỏi sự thống trị ác độc của nó nên nó đã cấm tổ tiên loài người không được ăn Trái Cây Hiểu Biết, vì vậy trái cây này được gọi là trái cấm!
- Giáo phái Marcionism do tín đồ Ki-tô tên Marcion ở Rome sáng lập năn 160 rất thịnh hành tại Tây Âu cho đến khi bị Constantine tiêu diệt. Giáo phái này kêu gọi tín đồ Ki-tô tẩy chay Thiên Chúa Jehovah vì Jehovah là một ác thần vô cùng dữ tợn, thiên vị, nông nổi và vô đạo đức, Jehovah chẳng những rất thấp kém về đạo đức mà còn ngu hơn cả người thường nữa cho nên nó không đáng được tôn xưng là Thiên Chúa và không đáng được tôn thờ. Theo họ, Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của tình thương yêu và sự tha thứ (The Real God is a God of Love and Mercy) chứ không thể là Thiên Chúa Jehovah mô tả trong Cựu Ước của đạo Do Thái được. Vì vậy, ai thờ Thiên Chúa Jehovah thực chất là thờ quỷ! Công Giáo thực chất là đạo thờ quỷ Satan vì đạo này đã tôn vinh con quỉ Jehovah lên thành Đức Chúa Cha!
2. Hai bài kinh được viết theo những lời giảng của Jesus là Kinh Lạy Cha và Kinh Phúc Thật Tám Mối.
Theo Phúc âm của Luca (11:2-4) một hôm sau khi thấy Jesus vừa cầu nguyện xong, một môn đệ xin Jesus dạy cách cầu nguyện. Jesus đã dạy: "Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến...". Qua kinh Lạy Cha, ta thấy rõ ý định của Jesus muốn mọi người nhận biết một Đấng Thiên Chúa là Cha Chung và mọi người phải biết thương yêu nhau vì tất cả là anh chị em cùng Cha. Điều đáng ghi nhận là Jesus đã biến Thiên chúa hung ác Jehovah của đạo Do Thái thành một người cha nhân từ và biến đổi các tín đồ từ những ngưòi sợ Chúa (God fearers) thành những người yêu Chúa (God lovers). Nếu so sánh với đạo Do Thái thì những lời dạy này của Jesus là những điều mới lạ và rất tiến bộ. Tuy nhiên, những kẻ lập đạo Công Giáo đã không quan tâm đến những điều này. Họ đã biến Jehovah thành Chúa Cha, Jesus thành Chúa Con. Điều điên khùng nhất là họ đã biến Jesus thành Đấng Tạo Hóa sáng tạo ra vũ trụ vạn vật (Creator)! Tất cả những điều này đều do người ta ngụy tạo và cố tình gán ghép cho Jesus, sự thật Jesus không bao giờ giám lộng ngôn tự xưng mình là Thiên Chúa. Trong các sách Tân Ước, ta thấy Jesus luôn luôn tự xưng mình là Con của Người (Son of Man) chứ chẳng bao giờ Jesus dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Son of God).
Kinh Phúc Thật Tám Mối là bản tóm tắt các bài giảng của Jesus ở trên núi (The Sermons on the Mount). Nội dung của những bài giảng này thật ra không phải của Jesus mà là những chủ trương của giáo phái Essene do Jean Baptist lãnh đạo. Vào thời của Jesus, đạo Do Thái chia ra làm ba giáo phái: Giáo phái Pharisees đông tín đồ nhất, chiếm giữ Đền Thánh Jerusalem. Gia đình của Jesus theo giáo phái Pharisees nên năm lên 12 tuổi, Jesus được cha mẹ dẫn đến Đền Thánh để học đạo. Giáo phái bảo thủ cuồng tín cực đoan là Sadducees chủ trương tuân hành triệt để luật Mai-sen, Phêrô và Giu-đa theo phái này nên cả hai được gọi là kẻ cuồng tín (The Zealots – Mark 3:18). Giáo phái thứ ba là Essense cấp tiến nhất vì họ đứng về phía người nghèo và sống tập thể với nhau theo chế độ cộng đồng tài sản. Jean Baptist, tức Gio-an Bao-ti-xi-ta, là tu sĩ khổ tu cao cấp của giáo phái Essenes, trụ sở đặt tại vùng Qumran ở gần Biển Chết. Quanh năm suốt tháng ông chỉ khoác trên người một tấm da cừu mà thôi. Jean Baptist là con trai của bà Elizabeth (tức bà thánh I-xa-ve) lúc đó bà dì này đang mang thai Jean Baptist được 6 tháng. Như vậy Jean Baptist là cậu họ của Jesus và lớn hơn Jesus 6 tháng tuổi. Đến khi trưởng thành, Jesus đã theo Jean Baptist để học đạo. Jean Baptist làm lễ rửa tội cho Jesus trên sông Jordan để chính thức thâu nhận Jesus làm đệ tử. Cũng từ đó, Jesus được phép mặc áo dài trắng là đồng phục của các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes.
Vào năm 25 sau Công Nguyên, Jean Baptist bị vua Herode bắt giam về tội xúi giục dân làm loạn. Trong lúc còn đang bị giam, Jean Baptist viết thư và nhờ một người lính gác ngục tốt bụng chuyển cho Jesus. Ông gọi Jesus là "Người đến sau rốt" (the coming One after all – Mark 1;14-15). Sau khi Jean Baptist bị vua Herode chém đầu vào khoảng năm 26, Jesus bắt đầu đi giảng đạo thay sư phụ. Jesus tiếp tục đi theo con đường của Jean Baptist nên tự biết sớm muộn cũng bị Herode bắt giết. Hơn nữa, Jesus thừa hiểu đạo Do Thái đã định nghĩa Messiah (Ki-tô) là Vua Do Thái, cho nên khi tự xưng mình là Messiah, đương nhiên Jesus tự biết mình đã phạm tội chính trị. Đó chính là quan điểm của chính quyền Do Thái và đế quốc La Mã đã nhìn Jesus trên khía cạnh chính trị của truyền thuyết Ki-tô (The Political view of Messiah). Nói tóm lại, đường lối chính trị và tôn giáo của Jesus là sự nối nghiệp rập khuôn theo sư phụ Jean Baptist thuộc giáo phái Essenes mà thôi.
Các học giả nghiên cứu tôn giáo Tây phương gọi Jeam Baptist và Jesus là những tiên tri chuyên về ngày tận thế (apocalyptic prophets) chủ trương khôi phục vương quốc Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã bằng cách tuyên truyền ngày tận thế sắp đến để kích động tâm lý quần chúng nổi loạn chống đế quốc. Judas Escariot thuộc giáo phái bảo thủ Sadducees và cũng là một du kích quân Zealot chủ trương phải phản công đế quốc La Mã bằng quân sự nên đã hợp tác với các tu sĩ Sadducees bắt Jesus để giao cho chính quyền. Sau khi xử tử Jesus, quân lính La Mã đã ghim trên thập giá một tấm bảng nhỏ ghi hàng chữ La Tinh: Jesus Nazarenus Rex Judaeorum (Jesus người làng Nazarenus là vua nước Do Thái). Trên các tượng thánh giá ngày nay, hàng chữ La Tinh này được ghi tắt là "JNRJ". Điều đó đủ cho ta thấy ý nghĩa chính trị trong cái chết của Jesus.
Năm 1947, các nhà khảo cổ đã tìm thấy cả một kho sách vĩ đại của giáo phái Essenes tại Qumran ở gần Biển Chết, chỉ cách nơi Jean Baptist làm phép rửa tội cho Jesus xưa kia 5 cây số. Kho tàng này gồm có hàng trăm cuốn sách viết trên những cuộn da lừa, trên những thanh đồng hoặc những thanh gỗ được gọi chung là "The Dead Sea Scrolls". Ngày nay, các sách này đã được dịch giả Tây phương kết luận: Giáo phái Essenes là tiền thân của Ki-tô giáo hoặc có thể gọi "Ki-tô Giáo trước Jesus". (Chrisanity before Christ – Xin đọc thêm Newsweek số đặc biệt về Phục sinh ra ngày 8.4.1996). Tóm lại, Kinh Phúc Thật Tám Mối là bản tóm lược giáo lý của giáo phái Essenes chứ không phải là của Jesus. Trong thực tế, Jesus không phải là người tài giỏi siêu phàm như người ta tưởng! Jesus của sự thờ phượng hoàn toàn không phải là Jesus thật (the cultic Jesus is not the real Jesus)!.
3. Kinh Tin Kính (The Creed) là kết quả của Công đồng Nicaea do hoàng đế La Mã Constantine triệu tập năm 325.
Tác giả bài kinh này là Irenaeus, gốc Ả Rập, làm giám mục tại Lyon (Pháp) vào cuối thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản cuốn sách "Against the Heretics" kết tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism và Marconism là các tà giáo vì họ dám gọi Jehovah là quỷ và ca ngợi con rắn đã cám đỗ Adam-Eva ăn trái cây hiểu biết (the tree of Knowledge) là vị thần khôn ngoan muốn cứu loài người thoát khỏi sự ức chế của con quỷ Jehovah. Giám mục Irenaeus chủ trương tôn Jehovah của đạo Do Thái lên thành Đức Chúa Cha và tôn Jesus lên thành Đức Chúa Con. Điều quan trọng là Irenaeus viết bản dự thảo "Đức tin của các thánh tông đồ" The Creed of Apostles): ‘Tôi tin Đức Chúa Cha toàn năng. Chúa Jesus là Con một Thiên Chúa sinh bởi bà Maria đồng trinh, ngài xuống thế chịu chết để chuộc tội thiên hạ, ba ngày sau lại lên trời và sẽ tái lâm để phán xét mọi người sống và mọi người chết. Tôi tin Chúa Thánh Thần và sự sống lại của kẻ chết". Các bài viết này của Irenaeus đã lót đường cho sự hình thành đạo Công Giáo La Mã.
Vào mùa hè năm 325, hoàng đế La Mã Constantine triệu tập Công đồng tại thành phố Nicaea thuộc Thổ Nhĩ Kỳ qui tụ trên 300 giám mục trong toàn đế quốc để thành lập đạo mới của đế quốc bằng cách thống nhất mọi giáo phái Ki-tô thành một tổ chức duy nhất dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đế quốc. Năm 340, đế quốc La Mã chính thức đặt tên cho tôn giáo do họ thành lập là Đạo Công Giáo (Cattolica) có nghĩa là đạo của toàn cầu (universal). Công đồng Necaea đã thông qua bản văn "Đức tin của các tông đồ" do Irenaeus soạn thảo sau khi thêm vào một số điều: Đức Chúa Cha dựng nên trời đất muôn vật. Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha mà ra như ánh sáng bởi ánh sáng và cùng với chúa Cha tạo thành vạn vật. Đức Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra". Từ đó văn bản của Irenaeus và các điều đước viết thêm vào tại Công đồng Nicaea đã chính thức trở thành Kinh Tin Kính của giáo hội Công Giáo ngày nay.
Năm 1054, các giáo hội Đông phương gồm có Nga, Hy lạp và một số nước Đông Âu qui trách La Mã có tham vọng lãnh thổ nên tách rời khỏi Công Giáo La Mã để thành lập Chính Thống Giáo (Orthodox Church). Đầu thế kỷ 13, Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo cãi nhau về điều liên quan đến Chúa Con (Filioque clause). Giáo lý Công Giáo quyết đoán rằng Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Phía Chính Thống Giáo không chấp nhận điều đó và quả quyết rằng Chúa Con sinh ra bởi Chúa Thánh Thần và bà Maria đồng trinh thì không thể nói Chúa Thánh thần bởi Chúa Con mà ra được. Cuộc cãi vã về giáo lý này đã dẫn đến cuộc thánh chiến thảm khốc. Năm 1204, giáo hoàng La Mã kéo Thập tự quân tới tàn phá bình địa thủ đô của Chính Thống Giáo là thành phố Constantinople, nay là Istambul của Thổ Nhĩ Kỳ, giết chết nhiều người và cướp đi rất nhiều tài sản đưa về Rome, trong số đó có tượng bốn con ngựa bằng đồng đen trên khải hoàn môn ở Constantinople. Hiện những con ngựa đồng đen này đang đứng trên nóc nhà thờ lớn ở Venice, nước Ý. Tóm lại, Kinh Tin Kính là bản tuyên ngôn lập đạo Công Giáo theo chủ trương của đế quốc La Mã, chủ trương này hoàn toàn trái ngược với giáo lý của Ki-tô Giáo nguyên thủy. Nó cũng là đầu mối gây chia rẽ và tạo ra nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai giáo hội Ki-tô Đông và Tây Âu Châu từ thế kỷ 11 cho tới ngày nay. (xin đọc thêm ĐỨC TIN CÔNG GIÁO của Trần Chung Ngọc, Giao điểm xuất bản năm 2000. Tác giả dành riêng chương II dài 112 trang trình bày hết sức đầy đủ về Kinh Tin Kính).
4. Kinh KÍNH MỪNG và phép lần hạt Mân Côi được đặt ra từ năm 1050.
Tự điển Bách Khoa Britanica (vol.14, p.999, article: Mary) cho biết Ki-tô Giáo trong những thế kỷ đầu Công Nguyên không thờ bà Maria cho đến khi Công đồng Chalcedon (Hy Lạp) năm 451 công nhận bà Maria "trọn đời đồng trinh" (perpitual virginity). Khi tín điều này được công bố, nhiều nhà thần học thời đó đã phản đối vì theo Thánh Kinh, bà Maria có 8 người con gồm 5 trai 3 gái. Jesus là người con trưởng chứ không phải là người con trai duy nhất của bà. (Jesus is Mary’s firstborn son – Matt. 1:25). Ba em gái của Jesus không được nêu tên, nhưng bốn em trai của ngài được nêu tên đầy đủ trong Thánh Kinh là: James, Joses, Simon, Judas (không phải là Judas Escariot – Matt. 13:55). Cũng theo Thánh Kinh thì Jesus không phải là con của Joseph, nhưng tên Jesus là do chính Joseph đặt cho (Joseph knew her not till she had brought forth her firstborn son and he called him Jesus. Matt. 1:25). Như vậy, bảy người anh chị em kia chỉ là những anh chị em cùng mẹ khác cha với Jesus mà thôi.
Vấn đề đặt ra: Ai là cha ruột của Jesus? Có hai câu trả lời:
a. Theo sách Talmud, một cổ thư của các tu sĩ Do Thái Giáo, thì Jesus là một đứa con hoang. Vào năm bà Maria lên 16 tuổi, trong dịp đến nhà ông cậu là Gioakim để săn sóc bà vợ của ông ta là I-sa-ve (Elizabeth) lúc đó đang mang bầu Gioan – Baotixita được 6 tháng thì bà Maria đã bị một người lính La Mã tên là Panthera hiếp dâm. Tên này gốc người Sidon (tức Li Băng ngày nay (đi lính lê dương cho đế quốc La Mã và được giữ chức xạ thủ. Y chết tại Đức, lúc đó cũng là thuộc địa của La Mã, vào năm 62 tuổi và được chôn tại Bingerbruck. Hiện nay người ta đã tìm thấy bia mộ của tên lính này, trên đó có khắc hình một người lính La Mã với tên là Panthera. Tấm bia mộ hiện được lưu trữ tại bảo tàng viện Bad Kreuzenach, Đức quốc. Trường Đại học của Dòng Tên tại Trung Tây Hoa Kỳ hiện dùng các tài liệu này để giảng dạy "giáo lý mới" về gia phả của Jesus.
b. theo giáo lý Công Giáo, bà Maria thụ thai và sinh ra Jesus là do Đức Chúa Thánh Thần. Sách Phúc Âm của Luca chép lời của thiên thần Gabriel truyền tin cho bà Maria rằng "Đức Chúa Thánh Thần sẽ đến cùng bà, Thánh linh thiên chúa sẽ phủ bà, cho nên đứa con sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (The Holy Ghost shall come upon thee and the Power of the Highest shall overshadow thee, therefore this holy thing which shall be born of thee shall be called the Son of God – Luke chap.1).
Nếu người Công Giáo tin rằng Ba Ngôi là một Thiên chúa thì đương nhiên phải chấp nhận là Jesus đã phủ [ Ăn nằm ]
mẹ mình vì Jesus cũng chính là đức Chúa Thánh Thần! Chẳng lẽ Jesus lại là đứa con khốn nạn loạn luân với mẹ ruột như vậy sao? Nhưng nếu không tin Jesus là một đứa khốn nạn phạm tội loạn luân với mẹ của y thì cũng không thể tin y là Thiên Chúa được vì y không phải là Chúa Thánh Thần. Tôi thách thức các nhà thần học Công Giáo, nhất là các tiến sĩ Thánh Mẫu Học (Mariologists) thuộc Dòng Đồng Công phản bác lại những điều trình bày trên. Nếu các ông không phản bác nổi thì hãy tự biết liêm sĩ của một người mang tiếng là trí thức. Các ông hãy lấy mảnh bằng tiến sĩ thần học của các ông cho giáo dân lau bàn rồi đắp lên mặt các ông. Các ông chỉ bịp được đám giáo dân kém trí tuệ của các ông thôi. Cả cái Dòng Đồng Công ở Carthage Missouri chỉ là một tổ chức bịp bợm lường gạt đồng bào.
Về việc đọc kinh Kính Mừng (the Hail Mary), Tự Điển Bách Khoa chính thức của Giáo hội Công Giáo cho biết: "Không có bằng cớ chứng tỏ bài kinh Kính Mừng được công nhận như một công thức của lòng sùng kính Đức Mẹ trước năm 1050". (There is little or no trace of the Hail Mary as an accepted devotional formula before about 1050 – The Catholic Encyclopedia Vol.7, p.11 article: Hail Mary). Kinh này được đọc đi đọc lại nhiều lần với chuỗi hạt gọi là chuỗi hạt Mân Côi (the Rosary-beads). Mân Côi có nghĩa là hoa hồng vì mỗi một bài kinh Kính Mừng được coi như một bông hồng dâng lên Đức Mẹ. Việc tôn thờ bà Maria với chuỗi hạt Mân Côi và hình tượng Mẹ bồng con hoàn toàn rập khuôn theo đạo cổ truyền của Ai Cập đã có từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên. Khi giảng đạo tại Jerusalem, chính Jesus đã ngăn cấm sự bắt chước ngoại giáo bằng cách lần chuỗi đếm những bài kinh được lặp đi lặp lại nhiều lần (Matt.6:7-13). Việc lần chuỗi này đã biến đổi Công Giáo từ đạo thờ Chúa thành đạo thờ bà Maria. Đây là điều khác biệt rõ nét nhất giữa Công Giáo và Tin lành. Người ta tính ra mỗi ngày giáo dân Công Giáo trên khắp thế giới kêu tên Đức Mẹ nhiều hơn kêu tên Chúa gấp 6 lần và Đức Mẹ phải nghe tới 46.296 bài kinh Kính Mừng bằng đủ thứ tiếng trong một giây đồng hồ! (Babylon Mystery Religion, p.18).
5. Kinh Cầu Hồn và ngày Lễ Các Linh Hồn xuất hiện do sự phát minh ra Luyện Ngục của giáo hoàng Gregory the Great năm 600.
Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước chỉ nói tới Thiên đàng và Hỏa ngục chứ không hề nói tới một nơi thứ ba để tạm giam giữa các linh hồn. Vào năm 600, Giáo hoàng Gregory I the Great công bố giáo lý mới là có một nơi thứ ba giam giữ các linh hồn để thanh tẩy hết mọi tội nhẹ trước khi vào thiên đàng, nơi đó giáo hoàng gọi là Luyện Ngục (Purgatory). Năm 1459, công đồng Florence đã biến phát minh nầy thành tín điều hiện hành buộc mọi tín đồ phải tin (an actual dogma). Nhờ có tín điều này, giáo hội Công Giáo đã trở thành giáo hội giàu nhất thế giới do tiền của giáo dân nộp cho cha cố nhà thờ để xin lễ cầu hồn cho các thân nhân quá cố. Ngoài ra, trong thời Trung cổ, Vatican còn tổ chức nhiều đại lý ở khắp nơi để rao bán ơn đại xá của tòa Thánh (indulgence sales) đã thu về Rome những nguồn tài sản kếch sù gồm đủ thứ vàng bạc nữ trang và báu vật. Nhờ vào những nguồn lợi lớn lao này, giáo hoàng và tu sĩ cao cấp ở Vatican đã có một lối sống hết sức xa hoa tội lỗi. Chính điều này đã là động lực trực tiếp thúc đẩy Martin Luther từ bỏ Công Giáo để lập ra đạo Tin Lành. Ông nói: Những kẻ bán ơn tha tội là những kẻ phạm tối lớn nhất. (Those who sold indulgences to sinners were great sinners themselves).
Việc thu tiền lễ cầu hồn là một thủ đoạn làm tiền trắng trợn của cha cố lưu manh. Tại Ái Nhĩ Lan là nước toàn tòng Công Giáo có câu ca dao nổi tiếng như sau: "High money high Mass; low money low Mass; no money no Mass" (Nhiều tiền lễ lớn, ít tiền lễ nhỏ, không tiền không lễ!". Thành thử chỉ những linh hồn có thân nhân giàu có mới hy vọng được vào nước thiên đàng của Chúa mà thôi. Trải qua nhiều thế kỷ bị bọn cường quyền cấu kết với tu sĩ lưu manh áp lực bóc lột và lừa bịp, đám dân nghèo ở Âu Châu vào đầu thế kỷ 19 đã lên tiếng đòi hỏi giáo hội phải tổ chức một ngày lễ cầu hồn miễn phí chung cho những người thiếu may mắn vì không có thân nhân bỏ tiền ra xin lễ. Họ gọi những linh hồn này là những linh hồn bị bỏ quên ở luyện ngục (the forgotten souls in Purgatory). Năm 1856, Vatican đã đáp ứng lời yêu cầu của đám giáo dân nghèo bằng cách lập ra ngày Lễ Các Linh Hồn (All Soul’s Day) vào ngày 2 tháng 11 hàng năm, tương tự như lễ cúng các cô hồn vào rằm tháng Bảy của ta. Vì vậy, một số các bài kinh cầu hồn đã được sáng tác để đáp ứng nhu cầu này. Quả thật sự phát minh ra Luyện ngục của GH Gregory, tiếp theo là các lễ cầu hồn, đã biến Núi Sọ (Golgotha) của Chúa thành Núi Vàng (Golconda) của giáo hội Công Giáo La Mã!
6. Kinh Ngắm Đàng Thánh Giá (Way of the Cross).
Theo sách The Essential Catholic Prayer Book (Liguory Missouri – 1999, p.67) thì trong những thế kỷ đầu Công Nguyên cho tới thời Trung cổ, giáo dân Âu châu thường tổ chức những cuộc hành hương viếng thăm thánh địa Jerusalem. Họ đi theo lộ trình khổ nạn của Jesus (Via Dolorosa) khởi đầu từ Praetorium là nơi Jesus bị xử án đến núi Golgotha là nơi Jesus bị đóng đinh. Tới mỗi nơi đặc biệt trong lộ trình này họ dừng lại để suy niệm và cầu nguyện. Trong thời Trung cổ, do việc thánh điạ Jerusalem bị quân đội Hồi Giáo chiếm đóng nên các cuộc hành hương nói trên bị chấm đứt. Từ thế kỷ 16, Vatican ra lệnh cho toàn giáo hội phải trang trí chung quanh phía trong của các nhà thờ 14 ảnh hoặc tượng mô tả 14 nơi đặc biệt trong lộ trình khổ nạn của Jesus (14 stations of the Cross). Tuy việc lập ra nghi lễ ngắm (meditating) Đàng Thánh Giá phát sinh từ cuộc thánh chiến do Vatican phát động kéo dài nhiều thế kỷ chống Hồi Giáo nhưng nội dung của 14 bài kinh cho 14 nơi của Đàng Thánh giá lại chứa đầy những sự xuyên tạc lịch sử nhằm mục đích diệt chủng Do Thái bằng cách trắng trợn đổ tội giết Jesus cho Do Thái. Vấn đề này sẽ được trình bày ở đoạn sau.
7. Các kinh do tu sĩ Việt gian sáng tác và được Vatican khuyến khích:
Đó là các kinh "Dâng Nước Việt Nam"; "Dâng Cõi Đông Dương" nói là dâng cho Chúa và Đức Mẹ nhưng thực chất là dâng cho Vatican. Ngoài ra, họ còn sáng tác nhiều bài kinh khác như Kinh Bản (Kinh Bổn) dùng để đầu độc tinh thần trẻ thơ. Các kinh "Cầu cho dân nước Việt Nam đặng trở lại đạo thánh", "Kinh cầu cho kẻ ngoại" và nhất là "Kinh Cầu Ông Thánh Phan-xi-cô-Xa-vi-e" đều có nội dung nhục mạ những người ngoại giáo, nhục mạ quê hương tổ quốc Việt Nam và mạ lỵ Phật Giáo hết sức nặng nề. Tôi lần lượt trình bày trong những đoạn sau.
Qua phần mở đầu bài viết này, quý độc giả cũng đã thấy rõ tham vọng của HĐGM Việt Nam dưới thời bạo quyền Ngô Đình Diệm muốn biến Công Giáo thành quốc giáo của nước Việt Nam và muốn đưa "thánh địa" LA-VANG lên hàng với "thánh địa" Lộ Đức (Lourdes) của giáo hội Công Giáo Pháp. Sự việc này đã giúp chúng ta nhận rõ chân tướng cướp nước của thực dân Pháp, đế quốc Vatican và những Việt gian bán nước núp dưới nhãn hiệu tôn giáo.
9. Các kinh do giáo dân sáng tác và được giám mục giáo phận phê chuẩn:
Trong vài thế kỷ trước đây, tại nước ta có một số giáo dân xuất thân từ giới nho sĩ rất giỏi Hán văn đã sáng tác những bài kinh bằng chữ Hán và được giám mục địa phận chấp nhận. Các bài kinh này được phổ biến rộng rãi trong giáo dân ở miền quê thuộc các địa phận Đàng Ngoài (miền Bắc Việt Nam). Trong số các kinh thuộc loại này có kinh Phục Dĩ, còn gọi là kinh Cảm Tạ Cầu Hồn, do cụ Phan Tự Thiện sáng tác (không rõ năm nào). Cụ Thiện quê ở xứ Cốc Thành, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, đậu cử nhân không rõ thuộc triều đại nào. Cụ viết Kinh Phục Dĩ theo lối văn giống như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Đa số giáo dân ở Bùi Chu, Phát Diệm và Thái Bình thuộc bài kinh này để cầu hồn cho thân nhân quá cố trong các dịp giỗ chạp: "Chí tôn chân Chúa cửu trùng cao ngự chi thiên. Khả tiểu phá phu vạn vật hữu sinh chi địa. Thần Chúa Gia-tô thục tội thi ân chi đại. Nhân từ Thánh mẫu vì kỳ xá quá chi đa..."

0 nhận xét:

Đăng nhận xét