Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014
VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM của HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
09:20
Hoàng Phong Nhã
No comments
Mỗi giáo phận Công Giáo thường có
một cuốn sách sưu tập các bài kinh do giáo hội
soạn sẵn để giáo dân đọc mỗi khi
cầu nguyện tại nhà hoặc đọc chung tại
nhà thờ. Sách sưu tập các bài kinh này được
gọi là Sách Kinh Nguyện (prayer-book). Các sách kinh nguyện
gồm có phần lớn là các bài kinh đọc quanh năm
gọi là Toàn Niên Kinh Nguyện. Một số bài kinh
đặc biệt khác để đọc theo mùa (mùa chay,
mùa Giáng Sinh, tháng Đức Mẹ, tháng Trái Tim Chúa v.v...). Các
sách kinh nguyện được xuất bản và lưu
hành trong mỗi giáo phận luôn luôn phải có phép chuẩn y
của giám mục hay tổng giám mục quản nhiệm.
Sự chuẩn y này thường được ghi
bằng tiếng La tinh (Imprimatur; Imprimi potest; Nihil Obstat)
chẳng hạn như ở trang đầu sách kinh
Nhựt Khóa của Tổng giáo phận Saigon có ghi:
Imprimatur
Saigon, die 19 mensis martu 1971
Paulus NGUYỄN VĂN BÌNH
Archiepiscopus de Saigon
Sách Kinh Nguyện của các địa
phận có thể khác nhau về ngôn ngữ địa
phương hoặc có một số bài kinh được
in trong sách của địa phương này mà không
được in trong sách của địa phận khác,
nhưng về mặt nội dung thì tất cả các sách
kinh nguyện đều đồng nhất. Theo thư
của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn in trong phần
đầu sách toàn niên Kinh nguyện Bùi Chu thì nội dung
của các sách kinh nguyện đã được minh
định là đồng nhất trong cuộc họp
của toàn thể các Giám mục Huế năm 1924.
Để dẫn chứng về trách
nhiệm của hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
chúng tôi đặc biệt chú ý đến sách "Linh
Địa La Vang" của Linh Mục Xitanio Nguyễn
Văn Ngọc, được xuất bản lần
đầu tại Việt Nam với sự chuẩn y
của Tổng Đại Diện Tòa Giám Mục Huế ngày
13.4.1970 và được tái bản năm 1978 tại Hoa
Kỳ do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, thuộc Dòng
Đồng Công ở Missouri (P.O. Box 836 – Carthage MO. 64838). Sách
LĐLV đã được viết ra một cách rất
tự nhiên, bộc lộ nguyên vẹn tim gan sâu kín của
giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam.
Cuốn sách này đã được giới chức có
thẩm quyền theo giáo luật cho phép và đã
được Dòng Đồng Công hải ngoại cho tái
bản. Ngoài việc sách này cho biết thêm chi tiết
về hội đồng san định các kinh nguyện,
nó còn cho chúng ta biết rất nhiều điều đáng
ghi nhận về trách nhiệm của Hội đồng
Giám mục Việt Nam.
Theo sách Linh Địa La Vang (LĐLV), Hội
Đồng sửa kinh đã cùng nhau làm việc trong ba
tuần lễ, từ 28 tháng 4 đến 17 tháng 5 1924. Ngày
19 tháng 5.1924, Hội Đồng Sửa Kinh đã
đến viếng "thánh địa" La Vang bằng
xe hơi của Nguyễn Hữu Bài (Lại-Bộ
Tham-Biện Cơ-Mật tức Bộ trưởng
Nội vụ của chính phủ Nam triều thời Pháp
thuộc) cùng với Giám mục Lemasle cai quản
địa phận Huế thời đó (trang 147).
Năm 1885, triều đình Huế thất
thủ. Năm 1886, Giám mục Sohier ỷ vào thế lực
thực dân Pháp trưng đất của dân làng Thanh
Tấn và Ba Trục thuộc tỉnh Quảng Trị
để mở mang linh địa La Vang (LĐLV trang 48).
Tại đây có một ngôi chùa dưới gốc cây đa
trong rừng Lá Vằng đã được dân làng xây
dựng từ đầu đời vua Minh Mạng. Dân Công
Giáo đến phá chùa để cướp đất và
họ đã làm những bài vè khá dài kể về việc
này. Có điều là họ cho rằng người phá chùa là
Đức Mẹ linh thiêng chứ không phải người
thường. Bài vè này đến nay vẫn được
giáo dân La Vang truyền tụng, Linh Mục Xitanio Nguyễn
Văn Ngọc ghi lại vài vè khá dài (Tr. 39-46), trong đó
nhưng đoạn như sau:
"Rằng Phật rằng Thần lao
đao
Có Bà bên đạo phép cao lạ lùng
Bà vào Bà đánh tứ tung
Bao nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài
Tiếng Bà thật đã linh oai
Lư hương bát đất đền
đài đều hư... (LĐLV tr. 40-41)
Chốn này là chốn Chúa bà
Cho nên thần Phật Quỉ Ma kiêng dè...
(LĐLV, tr. 45).
Ngôi chùa đã được biến thành nhà
thờ Công Giáo từ đó. Đây là thánh đường
đầu tiên tại La Vang nơi chính Đức Mẹ
đã hiện ra . [ Người ta phao tin như thế.]
(Tên cũ Lá Vằng được
đổi thành La Vang có lẽ do các giáo sĩ người
pháp viết như vậy trong các văn kiện nói về
Lá Vằng – Ghi chú của Charlie Nguyễn). Từ khi ở
linh địa La Vang có nhà thờ đầu tiên thì sự
tích Đức Mẹ hiện ra được thông báo
đi khắp nơi bằng giấy mực của giáo
quyền và chính quyền thực dân. Bài vè có ghi chép:
Các người đều lãnh thơ đi
Kẻ thời ra Nghệ, người đi
Kinh thành
Nghe thơ kể việc rành rành
Thảy đểu khen ngợi thanh danh
Đức Bà
Tiếng đồn chóng thổi gần xa
Thông qua biển cả huống là non sông...(LĐLV,
tr. 43-44)
Năm 1939, Đức Khâm Mạng Tòa Thánh
Drapier gửi thông báo cho toàn thể Đông Dương
chọn ngày 30 tháng 6 Dương lịch là ngày lễ hai
thánh Phê-rô và Phao-lô làm lễ cầu an khắp nơi và
sẽ tổ chức một cuộc rước kiệu
thật lớn tại đền thờ Đức Mẹ
La Vang. Phủ Toàn Quyền cũng thông sức khắp
nơi cho các công nhân (viên chức nhà nước) phải
đi lễ vào ngày nói trên (LĐLV, tr. 81). Mọi cuộc
lễ tại La Vang bị tạm ngưng do Thế
chiến 1939-1945. Sau khi Pháp trở lại Việt Nam,
ngày 12.9.1946, lễ kính Đức Mẹ La Vang lại
được cử hành. Hôm đó có bà Vĩnh Thụy
tức Nam Phương Hoàng Hậu đi xe hơi từ
Huế ra tận La Vang để dự lễ cầu an
(LĐLV, tr. 82)
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
(HĐGMVN) được chính thức thành lập do
Sắc chỉ ngày 24.11.1960 của Giáo Hoàng Gioan XXII. Ngày
18.12.1960, HĐGMVN tổ chức đại lễ tạ
ơn Tòa Thánh tại nhà thờ lớn Saigon
với sự tham dự của toàn bộ các giới
chức cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa do Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Chính hôm ấy,
HĐGMVN và chính phủ Diệm đã quyết định
việc dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ (mà đại
diện độc quyền chính thức của Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ trên trái đất
này là Vatican – chú thích của Charlie Nguyễn) đồng
thời khấn hứa sẽ xây dựng một
đền thờ dâng kính Trái Tim Đức Mẹ tại
La Vang. Nhà thờ La Vang sẽ được gọi là
"Đền Thờ Toàn Quốc dâng kính Trái Tim Vô
Nhiễm Đức Mẹ" và "Linh Địa" La
Vang sẽ được gọi là "Trung Tâm Thánh Mẫu
Toàn Quốc". Ngày 8.8.1961, HĐGMVN họp tại Đà
Lạt đã quyết định như sau:
- Bàn thờ chính tại nhà thờ Lavang
sẽ được gọi là "Bàn thờ dâng hiến
giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam,
cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và 3 bàn thờ
phụ để dâng kính Các Thành Tử Đạo của 3
miền Việt Nam.
Các bàn thờ đều được làm bằng đá
cẩm thạch lấy từ vùng núi Non Nước (Ngũ
Hành Sơn) để tượng trưng cho Non
Nước Việt nam.
- Một công trường rộng lớn,
ở giữa lễ đài được xây dựng
kiểu Đài Nam Giao của triều đình Huế
để dùng vào những ngày lễ hội (tương
tự như lễ hội tế Nam Giao của các vua nhà
Nguyễn).
Ngày 20.7.1961, TGM Ngô Đình Thục viết
lời phi lộ trên tờ Nguyệt San Đức Mẹ
La Vang số 1 nhấn mạnh: "La Vang là của chung toàn
thể quốc dân Việt Nam, cả lương lẫn
giáo". Ngày 1.6.1961, TGM Ngô Đình Thục thay mặt
HĐGMVN gửi hiệu triệu đi toàn quốc như
sau: "Ta vui mừng ban phép và dạy tổ chức
Đại Hội kính Đức Mẹ La Vang năm
1961". Nha Chiến Tranh Tâm Lý của chính phủ VNCH
được lệnh quyên tiền của đồng bào
từ Nam
chí Bắc không phân biệt lương giáo. Linh Địa
La Vang, tr. 103-109).
Danh tiếng Linh Địa La Vang còn
được tung ra khắp năm châu nhờ cuộc phát
hành Bưu Hoa Đức Mẹ La Vang. Lần đầu
tiên trong lịch sử Bưu Chính Việt Nam,
một con tem với đề tài tôn giáo Đức Mẹ
La Vang được Phát hành ngày song thất 7.7.1962.
Trước đây, giới sưu tập đã có dịp
thưởng thức những loại tem thắng cảnh
như nhà thờ chính tòa Phủ Cam Huế (1958), tháp Thiên
Mụ (1959), qua năm 1964, tem Giáo Sĩ Đắc Lộ.
Hôm nay họ lại có dịp sưu tập những cánh tem
Bưu Chính mang chân dung Mẹ từ ái của Việt Nam:
Đức Mẹ La Vang.
Phóng viên Nhật Báo Viễn Đông Journal
d’Extrême Orient mô tả sự tấp nập tại công
thự Bưu điện Saigon trong buổi phát hành tem
thơ Đức Mẹ La Vang: Sáng nay, 7.7.1962, ngay từ khi
mới mở các ghi-sê, hàng ngàn người thuộc
đủ quốc tịch đã tràn ngập bưu sảnh
Saigon, những linh mục, chủng sinh, sinh viên, học
sinh, để mua những con tem mới dâng kính đức
Mẹ La Vang do sở Bưu điện phát hành. Tổng
Hội Những Người Công Giáo Ái Mộ Tem Thơ
(Association Catholique des Amis du Timbre) đã cho biết rằng
họ rất yêu mến loại tem Đức Mẹ La Vang
của Việt Nam vì tính các lịch sử cũng như
công trình ấn loát của loại tem ấy...Tem thơ
Đức Mẹ La Vang mang chân dung Đức Mẹ
đặt Chúa Hài Đồng trên địa cầu, phía sau
là mấy bụi trúc tốt tươi nằm bên cạnh
Mẹ, đó là quốc huy của nước Việt Nam
Công Hòa" (Linh Địa La Vang 133-134 - Điều này
ngụ ý thế quyền Việt Nam Cộng Hòa phải
phục tòng thần quyền là HĐGMVN – chú thích của
Charlie Nguyễn).
Đức Hồng y giáo chủ Hoa kỳ
Francis Spellman đã đến thăm Linh địa La Vang
ngày 7.1.1955 và làm lễ nơi bàn thờ Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố "Tôi cầu nguyện và tôi tin chắc
Đức Mẹ La Vang sẽ thắng" không nói rõ
"ai thắng ai" – LĐLV, tr. 138). Hồng y Agagianian,
Đặc sứ Toàn quyền Tòa Thánh đến thăm La
Vang ngày 21.2.1959, Ngài tuyên bố: "Tôi khẩn khoản nài
xin lòng nhân lành Thiên Chúa sẽ đổ xuống như
mưa trên trời cho giáo hội và dân tộc Việt Nam
để vinh danh Chúa Ki-tô Vua, để sáng danh giáo hội
Công Giáo là Mẹ lành, hầu nên một đoàn chiên
dưới sự điều khiển của một
chủ chiên" (LĐLV, 139-140: Từ ngữ Công Giáo
"nên một đoàn chiên" có nghĩa là cả
nước VN sẽ trở thành toàn tòng Công Giáo – Ch. N).
Hơn một thế kỷ qua kể từ
khi Đức Mẹ "hiện ra" tại La Vang, linh
địa La Vang vẫn khiêm tốn nằm giữa
cảnh rừng hoang núi vắng không mấy ai
được biết. Trong thời gian lâu dài trên, đoàn
con của Đức Mẹ sống quằn quại
giữa những kỳ cấm đạo liên tiếp và bao
biến cố chính trị xáo trộn. Vì thế, các
Đức Giám mục Bề trên của địa phận
Huế lúc bấy giờ như Đức Cha Labarielle,
Đức Cha Tabert, Đức Cha Á Thánh Cuénot, Đức
Cha Pellerin, Đức Cha Sohier và Đức Cha Ponviane
phải im hơi lặng tiếng đối với Linh
Địa La Vang.
Trái lại, trong thời gian việc
đạo được bằng an phồn thịnh
từ 1886 đến 1963, La Vang được lớn
hơn, được đẹp hơn và được
sùng mộ hơn. Trước tiên là do sự lo lắng
của các Đức Cha Địa phận như
Đức Cha Gaspar, Đức Cha Allys, Đức Cha Chobanon,
Đức Cha Lemasle, Đức Cha Urritia và Đức
Tổng Giám mục Ngô Đình Thục... Các đấng vì
lòng thành kính Đức Mẹ La Vang đã nỗ lực tô
điểm La Vang bằng tinh thần và bằng vật
chất để Linh địa La Vang trở thành giáo
đô của một dân tộc. Các Đức Giám Mục
gốc Bình Trị Thiên rất sùng kính Đức Mẹ La
Vang như Đức Cha Đominico Hồ Ngọc Cẩn,
Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục, Đức Cha Anselmo
Lê Hữu Từ, Đức Cha Simon Hòa Hiền và
Đức Cha Phancixô Xavie Nguyễn Văn Thuận...
(LĐLV 143-144 – xin lưu ý danh từ "Giáo Đô" Ch.
N.)
Cụ Ngô Đình Diệm sinh ngày 3.01.1901
tại Huế, trong gia dình Công Giáo kỳ cựu. Nguyên quán
làng Đại Phong (Quảng Bình). Trú quán tại làng
Phương Quả (Thừa Thiên). Đến 20 tuổi
đã vào trường Hành chánh làm tri phủ Hải Lăng
nơi có thánh địa La Vang, ở gần nhà thờ La
Vang một thời gian thì ông phải xa nhà Đức
Mẹ mà đi làm Tổng đốc Bình Thuận, rồi
ông lại trở về Huế giữ chức
Thượng thư Bộ Lại... Đến ngày 27.1.1955,
cụ Ngô trở về nước với chức thủ
tướng chính phủ... Từ khi lên làm Tổng thống
(10.1955), cụ Ngô mỗi năm đều ra Quảng
Trị, việc đầu tiên là cụ tới La Vang
để cầu khẩn Đức Mẹ. Chẳng
hạn như ngày 18.6.1961, sau lễ Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời, cụ đến viếng đền Mẹ
La Vang với một cử chỉ đạo đức
tỏ lòng thành kính Đức Mẹ đặc biệt.
Đoàn xe dừng lại ở đầu đường
trải nhựa, cụ xuống xe, cởi giầy từ
đó đi chân không đến cửa để thờ...
(LĐLV, 134-135).
Ngày 8.8.1961, HĐGMVN quyết định
tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc
kéo dài ba năm. Lễ Bế Mạc trọng thể dự
tính sẽ được tổ chức vào tháng 8.1964
dưới sự chủ tọa của một Đức
Hồng Y đại diện Tòa Thánh. Đức Cha Ngô
Đình Thục được HĐGM đề cử
đứng ra khẩn xin Tòa Thánh chấp thuận
đề nghị cử Đức Hồng Y Agaginian,
bộ trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo sang Việt Nam
chủ tọa đại lễ này. Nhưng Công
Đồng Vatican II họp tại La Mã tháng 10.1963 đã bác
bỏ đề nghị của TGM Ngô Đình Thục và ra
lệnh hoãn Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc
tại La Vang vô thời hạn (LĐLV, tr. 124-125)"
Mấy trang sách nói trên cũng cho chúng ta
nhận thức được vai trò hết sức quan
trọng của HĐGMVN đối với vận mệnh
đất nước như thế nào. Vai trò của
HĐGM lại càng trở nên quan yếu hơn nữa trong
một quốc gia có chính quyền nằm trong tay
người Công Giáo. Những trang sách này cũng là những
bằng cớ lịch sử không thể chối cãi
chứng tỏ HĐGMVN và chế độ Diệm đã
có quyết tâm biến Công Giáo thành quốc giáo. Đó là
ước mơ sâu kín và mãnh liệt nhất của hàng
giáo phẩm và giáo dân cuồng tín Việt Nam.
Ước mơ thấy được thể hiện
thường xuyên trong các lời kinh cầu nguyện. Xin
quý độc giả cứ lật mấy cuốn sách kinh
nguyện Công Giáo Việt ngữ ra đọc sẽ thấy
nhan nhản những bằng cớ cụ thể. Trong
suốt thời gian Pháp thuộc, các giáo sĩ Tây
Phương vẫn cố gieo vào đầu óc các tu sĩ
và giáo dân Việt Nam một "châm ngôn nô lệ"
nổi tiếng: "Nước Pháp là trưởng nữ
Hội Thánh và là Mẹ Việt Nam" (France, fille ainée de l’Eglise,
mère du Việt Nam). Nhiều tài liệu lịch sử đã
chứng minh TGM Ngô Đình Thục rất trung thành với
thực dân Pháp. Tổng giám mục Ngô Đình Thục và
HĐGMVN đã cố gắng hết sức mình để
thực hiện "châm ngôn nô lệ" nói trên trong
suốt thời gian Ngô Đình Diệm làm tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa.
Sự thật lịch sử là Giáo quyền
Công Giáo do HĐGMVN đứng đầu và Thế
quyền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam,
do Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã phối hợp
chặt chẽ với nhau trong âm mưu hiến dâng tổ
quốc Việt Nam
cho bọn thực dân đế quốc. Nếu không có
chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, nếu
không có cuộc đảo chánh thành công của phe cấp
tiến tại Vatican trong Tháng Mười năm 1962 (Công Đồng
Vatican II khai mạc vào tháng Mười năm 1962 là một
cuộc đảo chánh thành công của phe Công Giáo Cấp
Tiến Âu Châu loại trừ phe bảo thủ của giáo
hội do Pio XII và Spellman lãnh đạo. Phe bảo thủ
Công Giáo này chính là siêu quyền lực quốc tế cũ
đã đưa Kennedy gốc Công Giáo Ái Nhĩ Lan và thầy
tu Diệm lên nắm chính quyền tại Mỹ và Việt Nam).
Nhất là nếu không có cuộc Cách Mạng 1.11.1963 thì
Tổ Quốc Việt Nam
có thể đã bị xóa bỏ vĩnh viễn. Lịch
sử thế giới đã chứng minh không có một
chế độ độc tài nào khủng khiếp và nham
hiểm cho bằng độc tài Công Giáo. Một khi Công Giáo
đã trở thành quốc giáo thì "châm ngôn nô lệ" nói
trên sẽ thành hiện thực. Bọn thực dân
đế quốc chỉ mong đợi Việt Nam
trở thành toàn tòng Công Giáo thì nước pháp sẽ chính
thức là mẹ của Việt Nam,
tất nhiên Vatican sẽ là bà ngoại
của dân tộc ta! Các tôn giáo khác nhất định
sẽ bị tiêu diệt và mọi truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc sẽ không
còn. Một khi Văn Hóa truyền thông bị tiêu diệt thì
dân tộc ta chỉ còn là cái xác không hồn. Có nhận
thức được điều này mới thấy rõ
Công Giáo là đại họa khủng khiếp nhất
của dân tộc ta từ trước đến nay.
Trong "Vatican Thú Tội và Xin Lỗi"
giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang đã
viết: "Giáo hội La Mã đã liên kết chặt
chẽ với các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Pháp, Phát xít Ý, Đức Quốc Xã trong việc đánh
chiếm các đất đai tại lục địa Phi,
Mỹ và Á Châu để củng cố quyền lực và
thực thi chính sách bất khoan dung "diệt tận
gốc rễ" tất cả các tôn giáo và văn hóa khác
mà Giáo Hội đã quyết tâm theo đuổi từ ngàn
xưa. Tất cả những sự kiện trên
đều cho chúng ta thấy rằng Vatican
là một đế quốc thực dân xâm lược thâm
độc nhất, gian ác nhất, bạo ngược
nhất và dã man nhất trong lịch sử nhân loại
từ thời thượng cổ cho đến ngày
nay" (Sdc. tr. 270-271).
"Riêng về tội ác mưu toan hủy
diệt các tôn giáo khác và nền văn hóa cổ truyền
của dân tộc Việt Nam, sách sử ghi rõ: Kế
hoạch Puginier nhằm xé nhỏ nước Việt Nam ra
thành nhiều mảnh biến thành những tiểu quốc
theo biên giới sắc tộc và địa lý, rồi
hủy diệt tất cả ảnh hưởng của
nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt
Nam. Kế hoạch này được Tiến sĩ Cao Huy
Thuần trình bày rõ ràng trong cuốn "Đạo Thiên Chúa
Và Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp tại Việt Nam"
(Sdc, tr. 270-271). Tội ác của những Việt gian
đội lốt tôn giáo là không thể tha thứ.
Càng nghiên cứu về lịch sử bành
trướng của đạo Công Giáo, chúng ta càng ngạc
nhiên và không khỏi rùng mình ghê sợ trước những
núi tội ác của nó vì mức độ khủng
khiếp đã vượt quá sức tưởng
tượng của mọi người bình thường
chúng ta. Có nhận thức được điều này
chúng ta mới cảm thấy hú hồn hú vía vì dân tộc
Việt Nam
ta quả đã được cứu thoát khỏi
đại họa diệt vong trong đường tơ
kẻ tóc vào ngày 1 tháng 11 năm 1963! Đây là một vấn
đề thuộc lịch sử mà phần đông chúng ta
chưa nhận thức đúng giá trị của nó. Tuy nhiên,
chúng tôi cũng không dám lạm bàn rộng thêm tại đây
và xin để Lịch sử Việt nam sau này sẽ làm
sáng tỏ.
Bài viết này chỉ giới hạn trong
việc đề cập đến các sách Kinh nguyện
Công Giáo bằng Việt ngữ mà thôi. Chúng tôi thiết
nghĩ HĐGMVN là cơ quan lãnh đạo cao cấp
nhất của giáo hội Công Giáo Việt Nam
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
của các kinh sách nguyện Công Giáo trên phương diện
luật pháp quốc gia. Ngoài ra, chúng tôi đòi hỏi
HĐGMVN phải trả lời trước tòa án
lương tâm và lương tri của dân tộc Việt Nam,
về những tác hại tinh thần và văn hóa mà các sách
kinh nguyện Công Giáo đã gây ra cho dân tộc từ
trước đến nay.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
hiện do Hồng Y Phạm Đình Tụng làm chủ
tịch, trụ sở đặt tại số 40, Phố
Nhà Chung, Hà nội. Hồng Y Phạm Đình Tụng sinh quán
tại Phát Diệm, quê hương lừng danh của Cha
Việt gian Phê-rô Maria Phạm Ngọc Chi và LM Mafia Hoàng Quỳnh.
Nếu Hồng Y Phạm Đình Tụng không phải là
hậu duệ xuất sắc bén gót của các tiền
bối khét tiếng bán nước hại dân như
Trần Lục, Lê Hữu Từ thì ông đã long trọng
lên tiếng xưng thú các núi tội lỗi của giáo
hội Công Giáo Việt Nam trước quốc dân và đã
làm lễ sám hối trước bàn thờ Tổ Quốc
Việt Nam từ lâu rồi.
Trong tác phẩm "The Next Pope – An A to Z of Holy
See", một cuốn sách chính trị bán chạy nhất
trong năm 1995 tại Mỹ (One of the Year’s Political
Blockbuster, Harper Collins Publisher – 1995), ký giả Peter Hebblethwaite
viết: "Không có một cuộc bầu cử nào thu hút
sự tập trung chú ý của Giáo hội Công Giáo và toàn
thế giới cho bằng cuộc bầu cử Giáo Hoàng. Bởi
vì đằng sau những bức tường của
Vatican, lịch sử thế giới đang
được hình thành" (Behind those walls, history is being
made); "Có sáu nước Cộng Sản hoặc cựu
Cộng Sản sẽ lái Hội đồng Hồng y
của Vatican về phía bảo thủ cực hữu. Phaolô
Giuse Phạm Đình Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội,
75 tuổi, và Jaime Luca Ortega Alamino, Tổng Giám Mục Havana,
Cuba, sinh ngày 18.10.1936, có triển vọng là những kẻ
chủ chốt trong quá trình tan rã chế độ CS
của họ" (There are six from Communist or ex-Communist
countries who will swing the college of cardinals to the right. Paul Joseph
Pham Đinh Tung, arbishop of Hanoi,
seventy five, and Jaime Luca Ortege Alamino, arbishop of Havana
– Cuba, born
October 1936, will expect to preside over the disintegration of their regimes –
page 170).
Trong bối cảnh thế giới hiện
nay đang diễn ra một cuộc cách mạng tâm linh, tên
tội phạm lớn nhất của lịch sử nhân
loại là Vatican cũng đã phải long trọng làm
lễ xưng thú hàng núi tội ác chống loài người
của nó trong 17 thế kỷ qua. Hầu hết các giáo hội
Công Giáo Tây phương cũng đã có những hành vi thú
tội tương tự từ lâu. Dân tộc Việt nam
đã kiên nhẫn chờ đời sự thú tội
muộn màng của HĐGMVN, nhưng đến nay chúng ta
đã phải thở dài thất vọng. Sự im lặng
hoàn toàn của Giáo hội Công Giáo Việt Nam
trước các vấn đề lương tâm là một
hành vi cực kỳ ngoan cố và không thể chấp
nhận được. Chúng tôi thiết nghĩ nay đã đến
lúc các tội ác phản quốc của Công Giáo Việt Nam
cần phải được dân tộc Việt Nam
đem ra tra vấn. Do đó, chúng tôi xin đặt vấn
đề trách nhiệm của HĐGMVN trước công tâm
phán xét của toàn thể đồng bào trong cũng như
ngoài nước, nhất là trách nhiệm của HĐGMVN
về những tác hại của các sách Kinh Nguyện Công
Giáo.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét