Trần Hữu Quang
Bài
này
tóm tắt một số kết quả chính từ cuộc khảo sát do chúng tôi chủ trì,
được
tiến hành tại năm tỉnh thành miền Nam, từ tháng 11 tới tháng 12-2007.*
Mục tiêu của cuộc khảo sát này là nhận diện những vấn đề nổi bật hiện nay ở
cấp độ ngân sách gia đình dành cho việc giáo dục và cấp độ thu nhập của nhà
giáo, nhằm từ đó đặt ra những vấn đề liên quan tới chính sách giáo dục và
ngân sách giáo dục
ở
các
bậc
học phổ thông,
và đề xuất những kiến nghị nhằm góp phần vào công cuộc cải tổ nền giáo dục
phổ thông.
Cuộc
khảo sát này
do nhóm Thời báo Kinh tế Sài Gòn tài trợ.
Các kỹ thuật
điều tra
chủ yếu được sử dụng là hai bản câu hỏi
đối với giáo viên
và hộ
gia đình,
và kỹ thuật phỏng vấn nhóm. Phương pháp chọn mẫu là phương pháp kết hợp giữa
kỹ thuật chọn
mẫu phân tầng (chọn địa bàn
điều tra)
với kỹ thuật ngẫu nhiên thống kê (để
chọn
giáo viên
và hộ
gia đình).
Lực
lượng
điều tra
có
tổng cộng 57 người, chia
làm
năm
tổ điều tra tại năm tỉnh thành, bao gồm
các
chuyên viên
xã hội học,
nhân học
và sử học,
cùng với điều tra
viên là
các sinh
viên đã tốt
nghiệp
cử nhân
hoặc học
năm
cuối ngành
xã hội học
và nhân
học.
Các địa phương
được khảo sát
bao gồm ba tỉnh Nam bộ
là
Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang,
một
tỉnh Tây nguyên
là
Dak Lak, và thành phố Hồ Chí Minh. Tổng
số
có 43
trường phổ thông được khảo sát,
với tổng số mẫu giáo viên được phỏng vấn là 1.027, và 30 xã và phường (tại
10 quận, huyện)
được khảo sát,
với
tổng số mẫu hộ gia đình được phỏng vấn là 1.203. Có
tổng cộng
12
cuộc phỏng vấn nhóm
có ghi âm đã
được
thực hiện, trong đó sáu
cuộc đối với giáo viên,
và sáu
cuộc đối với các
phụ huynh.
1. Đồng
lương của
nhà
giáo
Kết
quả cuộc khảo sát
cuối
năm
2007 cho biết
tổng thu nhập bình quân từ nhà trường của một giáo viên (bao gồm
lương chính, phụ cấp và thù lao dạy tăng tiết, phụ đạo...) xấp xỉ khoảng từ
1,8-2
triệu đồng/tháng
ở
An Giang, Vĩnh Long và Trà Vinh,
2,2 triệu ở Dak Lak, còn ở TPHCM thì khoảng 2,48 triệu
(xem Bảng 1).
Bảng 1. Mức thu nhập
của giáo viên
từ nhà trường
- dưới 1 triệu
1,5%
- 1-1,5 triệu 18,8
- 1,5-2 triệu 32,8
- 2-2,5 triệu 25,2
- 2,5-3 triệu 12,9
- 3-4 triệu 5,5
- 4 triệu trở lên 3,0
So
với
mức sống trung bình
ở
địa phương, số giáo viên có mức thu nhập từ nhà trường thấp hơn mức
này
chiếm tỷ lệ khoảng 15% ở Trà Vinh, 25% ở Vĩnh Long, 40% ở An Giang, 39%
ở Dak Lak, và 39% ở TPHCM.
Số giáo viên có thu nhập từ nhà trường chỉ đáp ứng được dưới
một
nửa chi tiêu ở gia đình mình chiếm 31%
ở
Trà Vinh, 9%
ở
Vĩnh Long, 42% ở An Giang, 50% ở Dak Lak, và lên tới 63% ở TPHCM.
Chính vì đồng lương từ nhà trường không đủ sống nên không
ít người đã phải dạy thêm và làm thêm việc khác để có thêm thu nhập. Trong
mẫu
điều tra, có 30% giáo viên có dạy thêm và làm thêm (trong đó 13% dạy thêm
và 18% làm thêm việc khác). Tỷ lệ này cao hơn hết tại TPHCM (52% có dạy
thêm và làm thêm). Tỷ lệ dạy thêm ở TPHCM cũng đông nhất so với các tỉnh
trong mẫu điều tra: 44% nơi giáo viên cấp tiểu học, 27% cấp trung học cơ
sở (THCS), và 34% cấp trung học phổ thông (THPT) có dạy thêm ở nhà hoặc tại
nơi khác (chưa kể số giáo viên dạy thêm ngay tại trường của mình).
Hầu hết việc làm thêm đều là những việc không liên quan chút gì
với nghề giáo: làm ruộng, trồng mía, trồng hoa màu, nuôi gà, nuôi heo, thợ
may, bán bánh mì, phụ bán tạp hóa, bán hàng ở chợ, phụ bán cơm buổi sáng,
chạy xe, đánh máy, photocopy, chụp hình, làm nhạc công ở quán cà phê, làm
thêm ở nhà hàng vào buổi tối, dạy võ, vẽ tranh, sửa đồ điện gia dụng, v.v.
Mặc dù cố gắng bươn chải để có thêm thu nhập ngoài nhà trường,
nhưng tổng thu nhập hàng tháng của người giáo viên cũng không nhiều nhặn gì.
Được hỏi rằng
“tổng thu nhập từ tất cả các khoản của thầy/cô hiện nay có đủ cho các chi
tiêu trong cuộc sống gia đình của
thầy/cô ?”, 52% giáo viên trong mẫu
điều tra trả lời
là “thiếu thốn”, 42%
nói
là “vừa đủ”, và chỉ có 2% nói
là “có dư để tích lũy”.
Có đến hai phần ba giáo
viên trong mẫu điều tra (66%)
trả lời
là có đi vay mượn trong
năm qua. Tỷ
lệ vay mượn này ở các tỉnh lên tới khoảng ¾ giáo viên, riêng ở TPHCM cũng
lên tới 44%.
Chỉ có 4-5%
giáo viên ở
Trà Vinh và Vĩnh Long có
Internet ở
nhà, con số
này là
8%
ở
An Giang, 12%
ở
Dak Lak, 42%
ở TPHCM.
Số
giáo viên
đọc báo
hàng ngày
chiếm 30-36%
ở
Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, và 77%
ở TPHCM.
Khi trả lời cho câu hỏi về những nguyện vọng và tâm tư bức xúc
nhất, hai phần ba giáo viên trong mẫu điều tra (66%) nêu lên kiến nghị rằng
cần nhanh chóng cải tổ chế độ tiền lương – đây là ý kiến đứng hàng số một và
chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các nguyện vọng mà họ nêu ra.
Theo kết quả cuộc khảo sát, nguyện vọng của giáo viên về một mức
tiền lương “đủ
để lo cho gia đình” bình quân trong mẫu điều
tra là 3,81 triệu đồng một tháng, cụ thể ở từng tỉnh thành như sau:
- Trà Vinh 3,32 triệu đồng/tháng
- Vĩnh Long 3,22
- An Giang 3,33
- Dak Lak 3,99
- TPHCM 5,20
Gần ba phần tư giáo viên trong mẫu điều tra (73%) nói rằng nếu
đạt được mức lương kỳ vọng này, có thể loại bỏ được hiện tượng dạy
thêm để tăng thu nhập, chỉ có 12% nói là không thể.
Như
vậy,
tổng thu nhập của giáo viên từ nhà trường là không đủ sống hay chỉ
đạt mức tối thiểu đối với khá đông giáo viên.
Hệ thống thang bậc lương chính thức của giáo viên không
mang tính công bằng, và không mang tính chất kích thích hay
khuyến khích nâng cao trình độ (xem Bảng 2), mặc dù theo qui chế thì vẫn có
thể tăng bậc lương 3-4 năm một lần, và mặc dù đã
được
hưởng một số khoản phụ cấp.
Bảng 2. Lương chính và các loại phụ cấp bình quân một giáo viên phổ thông,
phân theo thâm niên trong ngành giáo dục
Thâm niên trong ngành giáo dục
|
a. Lương chính
|
b. Phụ cấp
|
c. Dạy tăng tiết, dạy thêm trong trường
|
Tổng thu nhập tại nhà trường
|
0-5 năm
|
1.062.533
|
347.317
|
103.095
|
1.477.137
|
6-10 năm
|
1.246.151
|
481.713
|
117.885
|
1.820.863
|
11-15 năm
|
1.400.985
|
503.743
|
227.412
|
2.120.778
|
16-20 năm
|
1.579.897
|
549.141
|
210.328
|
2.343.273
|
21-30 năm
|
1.821.368
|
540.329
|
248.297
|
2.602.890
|
31-40 nam
|
2.022.796
|
651.818
|
264.087
|
2.954.720
|
Tổng cộng
|
1.421.832
|
483.334
|
176.733
|
2.056.816
|
Nguồn:
Kết quả cuộc điều tra tháng 11-12/2007 của chúng tôi
Kết quả khảo sát cho biết
chỉ có 45% giáo viên trong mẫu điều
tra cho là mức thu nhập
của mình từ
nhà trường “tương xứng” với công sức
mà mình đã bỏ ra, 49% cho là “không
tương xứng”. Tỷ lệ
trả lời “không tương xứng”
ở TPHCM lên
tới 72%,
ở Dak
Lak 51%, An Giang 49%,
Vĩnh Long 45%, và
Trà Vinh 28%.
Xét về mặt nghề nghiệp chuyên môn, tình trạng buộc phải đi dạy
thêm, đi làm thêm quả thực là một sự phí phạm xã hội ghê gớm,
không phải chỉ lãng phí đối với năng lượng của người giáo viên, mà quan
trọng hơn là sự lãng phí lớn lao đối với hiệu quả đáng lý có thể có của
ngành giáo dục. Vì còn phải lo chạy vạy cho nồi cơm của gia đình từ những
nguồn thu khác ngoài nhà trường, nên không ít giáo viên không còn đâu tâm
sức và thời gian tập trung cho lao động chuyên môn của mình và học sinh của
mình nữa.
Xét về mặt luân lý xã hội, tình cảnh éo le mang tính chất
vừa trói buộc vừa lẩn quẩn này là điều kiện và nguyên nhân dẫn tới nhiều hệ
quả bi đát mà công luận than phiền lâu nay: nào là ép học thêm, không công
bằng khi cho điểm những học sinh không học thêm, nào là nạn “phong bì”, quà
cáp lễ tết, cùng đủ mọi dạng tiêu cực từ nhẹ tới nghiêm trọng như mua bằng
bán điểm...
Chính chế độ tiền lương bất hợp lý và không công bằng nói riêng,
và chính sách tài chính trong giáo dục nói chung, đã dẫn đến những hệ quả
xáo trộn trong đời sống nhà giáo (phải vất vả dạy thêm, làm thêm...), những
đảo lộn trong mối quan hệ giữa nhà giáo
với
học sinh, với phụ huynh, cũng như dẫn đến những hệ quả rối rắm trong
việc
thu đủ mọi khoản lắt nhắt đối với phụ huynh.
Vấn đề đặt ra hoàn toàn không phải là cần có chính sách “ưu tiên”
hay “đặc ân” gì với nhà giáo, mà trước hết đây là vấn đề khôi phục sự công
bằng đối với lao động của họ. Chỉ khi có chính sách lương bổng thoả đáng,
xứng đáng và mang tính động viên, thì lúc ấy mới có thể nói tới khả năng
thu hút những người giỏi vào ngành giáo chức. Có thầy cô giỏi thì mới
có học sinh giỏi. Kinh nghiệm ở những nước như Đức, Nhật Bản hay Hàn
Quốc là chính nhờ nhà nước thực sự tôn trọng ngành giáo dục và trả lương cao
cho giáo chức (cao hơn cả những người làm việc cho các đại công ty) ngay từ
những thời kỳ suy tàn và đói khổ sau năm 1945, mà họ mới có được những vốn
liếng học vấn cũng như một tiềm lực xã hội để phát triển kinh tế mạnh mẽ sau
này.
Cần quan niệm rằng trả lương cho nhà giáo thực ra chính là đầu
tư cho tiền đồ của đất nước.
Lương chỉ
sống được
20
ngày
● Một thầy giáo dạy
cấp THCS,
có thâm niên dạy học 23 năm, ở huyện Tân Châu, An Giang:
“Tôi nghĩ là nên xem lại chất lượng cuộc
sống thầy cô giáo để giúp cho bớt đi thành kiến xã hội người ta nhìn
mình. Nhiều khi nghèo quá thì phải đi dạy thêm, mà dạy thêm thì phụ
huynh, học trò nhìn cô thầy cũng không có gì thiện cảm, tôn kính
lắm.” (Cuộc phỏng vấn nhóm
ngày 7-12-2007)
● Một nam giáo viên
THCS ở
huyện Krông Năng, Dak Lak,
dạy môn sinh học, có thâm niên nhà giáo
10 năm, nói như sau: “Lương hiện
nay chỉ đảm bảo 70% chi phí trong một tháng của gia đình.
Lương như vậy không đảm bảo. Hiện nay có tăng lương, nhưng mọi
chi phí giá cả cũng tăng... Với lương hiện nay, giáo viên chỉ
ăn sống được khoảng 20 ngày, còn lại 10 ngày trong tháng đó
phải làm thêm hoặc kiếm các khoản thu nhập khác để bù vào
đó...” (Cuộc phỏng vấn nhóm ngày
10-12-2007)
● Một cô giáo 39 tuổi, dạy
lớp 1 ở huyện Trà Cú, Trà Vinh:
“Giáo viên mà cứ khó khăn kéo dài như thế này, phụ huynh có con học
giỏi, người ta không cho vô nghề giáo viên dạy học đâu. Người ta cho
đi làm nghề khác để kiếm tiền nhiều hơn... Nhà khá giả, có điều
kiện, con học giỏi, nếu người ta không quý nghề giáo, người ta cho
con sang nghề khác, mình rất là tiếc những nhân tài đó.”
(Cuộc phỏng vấn nhóm ngày
29-11-2007)
|
2.
Gánh nặng chi phí
giáo dục
đối với người
dân
Chuyện chi phí cho việc học hành của con cái
hiện nay
quả thực là một gánh nặng đối với các phụ huynh, nhất là
với
những gia đình nghèo, kể cả ở
nông thôn
lẫn thành thị.
a.
Chi phí cho
việc học
hành
của
con cái
Theo
kết quả cuộc điều tra
cuối
năm
2007
của
chúng tôi, tổng chi phí
của các
hộ
gia đình
bình quân cho một
học sinh phổ thông
trong một năm ở Trà Vinh là 525 ngàn đồng/năm, An Giang 499 ngàn, Vĩnh Long 736
ngàn, Dak Lak 1,32 triệu, và
ở
TPHCM
là
2,84 triệu.
Tính chung ba tỉnh miền Tây Nam bộ (Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang),
chi phí
của người
dân cho
một học sinh
tiểu học bình quân là 406 ngàn đồng/năm, trung học cơ sở 504 ngàn đồng/năm, còn
ở cấp trung học phổ thông thì cao hơn hẳn, gần 1,02 triệu đồng/năm.
Riêng
ở
TPHCM, phụ huynh chi cao hơn hẳn so với ba tỉnh Nam bộ nêu trên: cấp tiểu học
là 2,72 triệu đồng/năm, THCS 2,46 triệu, còn ở cấp THPT gần 3,40 triệu.
Chi phí của người dân cho việc học hành của con cái ở Việt Nam hiện
nay
không
nặng
về mặt học
phí, nhưng lại bao gồm rất nhiều khoản thu khác mà phụ huynh phải chi trả trong
nhà trường cũng như bên ngoài nhà trường. Riêng trong
nhà trường,
ở TPHCM chẳng hạn, tính đến năm 2004, Sở GD-ĐT qui định có 14 khoản thu chính
thức ở nhà trường ; hay
ở Huế,
thậm chí
có đến 45 khoản thu khác nhau
(Sài
Gòn Giải phóng,
12-12-2007, tr. 1).
Qua
cuộc khảo sát này,
chúng tôi thống kê
được tổng cộng
42 khoản thu, 16 loại quĩ, và 6 khoản
khác nữa
mà phụ huynh
phải
đóng tại
nhà trường.
Được hỏi rằng “Trong vòng một năm qua, có khi nào đến hạn đóng học phí
hoặc những khoản đóng góp khác mà gia đình ông/bà không có sẵn đủ tiền để đóng
hay không ?”, có 13% phụ huynh trong mẫu điều tra trả lời là thường xuyên, 5%
không thường xuyên, và 36% đôi khi. Tỷ
lệ
ít
nhiều không
có sẵn
tiền lên
tới 57%
ở
Trà Vinh, 59%
ở
Vĩnh Long, 65%
ở
An Giang, 50%
ở
Dak Lak, và 38%
ở TPHCM.
Tỷ
lệ này
đạt mức cao
nhất
(73%)
ở nhóm
hộ
gia đình
nghèo
nhất
(tức
nhóm
1, theo
phương pháp
phân tổ ngũ phân
đối với
mức chi tiêu
của gia đình),
65% nơi
nhóm
2, và 52% nơi
nhóm
3.
Có 31% phụ huynh trong
mẫu
điều tra
trả lời
là
phải
“đi
vay mượn để đóng học phí”, 14% “xin hoãn
với nhà trường”. Điều đáng
chú ý là tỷ
lệ phụ huynh
ở TPHCM phải đi vay mượn để đóng
học phí không thấp hơn bao nhiêu so với các
tỉnh. Nơi hai
nhóm
hộ nghèo
nhất
(nhóm
1 và
nhóm
2),
tỷ lệ phải
đi vay mượn
là
39%, và xin hoãn
với nhà trường là
20-22%.
Có tới
56% phụ huynh đánh giá các khoản chi cho
việc học
hành của con em mình
hiện nay
là “nặng”, trong đó 38% cho là “tương
đối nặng”, và 18% phụ huynh cho
là “quá nặng”.
Dựa trên
các
số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) và Tổng cục Thống kê, theo kết quả
tính toán của chúng tôi, phần chi của người dân cho giáo dục vào năm 2006 chiếm
41% trong tổng chi phí xã hội cho giáo dục, còn
phần
chi
của ngân sách nhà nước
chiếm 59%. Một số liệu nghiên cứu quốc tế khác công bố vào năm 2004 cho biết
mức chi phí cho giáo dục của người dân ở Việt Nam lên tới 44% trong tổng chi
phí xã hội cho giáo dục, mức cao nhất ở các nước Á châu, chỉ thua Campuchia (1)
(4) (xem Biều đồ 1).
Theo tính toán
của
Vũ Quang Việt, tổng chi phí xã hội cho giáo dục (tức bao gồm cả
phần
chi
của nhà nước
và
người
dân) ở Việt Nam năm 2006 đạt mức 8,4% tổng sản phẩm nội địa (GDP), và năm 2007
lên tới 9,2%,
một tỷ lệ
rất cao so
với các nước trên
thế giới, kể cả Mỹ (17) (19).
Biểu đồ 1. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục tiểu học của các gia đình người dân và của
chính quyền tại một số quốc gia Á châu
(ĐVT:%)
Nguồn:
Raja Bentaouet Kattan, Nicholas Burnett, User Fees in Primary
Education, World Bank,
7-2004,
tr.
14.
b.
Bất bình đẳng
về điều kiện
và cơ hội học tập
Kết quả khảo sát cho thấy có tình trạng bất bình đẳng rõ rệt về
điều kiện
cũng như cơ hội giáo dục. Ngoài sự cách biệt hiển nhiên giữa nông thôn và thành
thị, giữa các thành phố lớn như TPHCM với các tỉnh, thì sự bất bình đẳng trong
giáo dục còn được thể hiện qua những mặt sau đây.
Trước hết là sự chênh lệch về chi phí giáo dục giữa các tầng
lớp dân cư. Chi phí bình quân cho một học sinh phổ thông trong một năm nơi nhóm
1 (tức nhóm hộ nghèo nhất) chỉ bằng 15% (380 ngàn đồng), và nơi nhóm 2 chỉ bằng
29% (710 ngàn) so với mức chi của một gia đình khá giả (nhóm
5: 2,45 triệu). Với một khoản tiền eo hẹp, lẽ tất nhiên con em gia đình nghèo
có điều kiện học tập kém hơn, mua sắm sách vở và dụng cụ học tập ít hơn, đi học
thêm ít hơn… Từ đó, kết quả học tập có nhiều khả năng thua sút so với con em nhà
khá giả.
Kế đến là sự chênh lệch về tỷ lệ chi cho giáo dục giữa các tầng
lớp dân cư. Kết quả điều tra cho biết những nhóm hộ càng nghèo thì tỷ lệ chi cho
giáo dục càng cao hơn, tính trong tổng chi tiêu của gia đình, mặc dù con số
tuyệt đối chi cho giáo dục của những hộ này thấp hơn nhiều so với các hộ khá
giả. Tình hình này đặc biệt rõ rệt ở ba tỉnh Nam bộ là Trà Vinh, Vĩnh Long và An
Giang (xem Bảng 3). Nói cách khác, càng nghèo thì
việc
chi cho giáo dục càng
là
gánh nặng.
Bảng 3. Tỷ lệ chi cho giáo dục tình trong tổng chi tiêu cho
đời sống của
các hộ
gia đình,
phân tổ theo
nhóm
ngũ phân (nhóm
1: nghèo
nhất,
nhóm
5: khá giả
nhất)
(ĐVT:%)
Năm nhóm chi tiêu
|
Trà Vinh
|
Vĩnh Long
|
An Giang
|
Dak Lak
|
TPHCM
|
Nhóm 1
|
3,96
|
6,83
|
4,57
|
8,02
|
5,33
|
Nhóm 2
|
3,72
|
6,39
|
4,20
|
11,72
|
12,45
|
Nhóm 3
|
4,19
|
6,80
|
4,85
|
8,93
|
12,13
|
Nhóm 4
|
3,58
|
5,46
|
4,62
|
7,74
|
9,72
|
Nhóm 5
|
2,01
|
3,03
|
3,24
|
6,73
|
8,42
|
Tổng cộng
|
3,60
|
5,66
|
4,33
|
7,41
|
8,99
|
Nguồn:
Kết quả cuộc điều tra tháng 11-12/2007 của chúng tôi
Thứ ba là mức chênh lệch về chi phí giữa các cấp học. Chi phí
một năm cho một học sinh THPT cao hơn hẳn so với một học sinh tiểu học hay THCS.
Điều này làm cho các hộ nghèo có tỷ lệ chi cho con em học cấp 3 cao hơn nhiều so
với tỷ lệ này nơi những hộ khá giả, mặc dù số tiền chi phí của hộ nghèo vẫn thấp
hơn. Nói cách khác, đối với những hộ nghèo, càng học lên lớp cao thì cái gánh
chi phí lại càng nặng một cách tương đối.
Mặt
khác,
lên lớp học càng cao, thì tỷ lệ học sinh đi học nơi gia đình khá giả, so với tỷ
lệ này nơi gia đình nghèo, ngày càng chênh lệch. Theo
kết quả cuộc
khảo sát, nơi nhóm 15-17 tuổi, tức nhóm tuổi học THPT, nơi hai nhóm hộ nghèo
nhất
(nhóm 1 và nhóm 2), chỉ có 54% và 67% đi học, trong khi tỷ lệ
này
nơi hai nhóm hộ khá giả
nhất
(nhóm 4 và nhóm 5) lên tới 87% và 90%.
Trong khi đó, chúng ta biết rằng mức chi phí
nhà nước
đầu tư vào giáo dục tính trên đầu học sinh tương đối ít ở các lớp thấp (cấp tiểu
học và THCS), và tương đối nhiều hơn ở các lớp cao hơn (cấp THPT). Như vậy, tình
hình này có nghĩa là các hộ gia đình nghèo trong
thực tế
được thụ hưởng dịch vụ giáo dục ở cấp THPT ít hơn nhiều hơn so với con em gia
đình khá giả !
Như vậy, trong lĩnh vực giáo dục phổ thông hiện nay, đang tồn tại một
tình trạng bất bình đẳng rõ rệt về chi phí giáo dục, cũng như về
điều kiện,
cơ hội và mức độ thụ hưởng dịch vụ giáo dục. Và chính ngân sách công đã mặc
nhiên góp phần duy trì và củng cố xu hướng phân hóa
xã hội.
Nền giáo dục, trong trường hợp này, thay vì là một nhân tố thúc đẩy sự công
bằng và sự bình đẳng như mọi người kỳ vọng, thì lại biến thành một nhân tố góp
phần vào quá trình tái sản xuất một cấu trúc xã hội bất bình đẳng.
Theo phân tích của chúng tôi, chính chế độ thu học phí và đủ mọi khoản
thu ở nhà trường công lập phổ thông hiện nay đã trực tiếp tạo ra tình trạng bất
bình đẳng này, không chỉ ở cấp THPT mà kể cả từ cấp tiểu học. Chế độ thu phí ở
nhà trường Việt Nam hiện nay đã và đang tạo ra một rào cản lớn lao đối với các
gia đình người dân, nhất là đối với những tầng lớp xã hội thấp kém và thiệt
thòi, và do vậy đi ngược lại với lý tưởng của một nền giáo dục cho mọi người,
một nền giáo dục phổ cập mà nhà nước luôn luôn tuyên bố và đề cao trên
nguyên tắc.
Gánh không nổi !
● Một nông dân trồng cà phê, 48 tuổi,
huyện Krông Năng, Dak Lak, kể lại như sau: “Hiện nay tôi có đứa học
cấp 3, đứa cấp 2... Ở cấp 3, những khoản đóng [tại
nhà trường]
như xây dựng, học phí, quỹ phụ huynh, v.v. thì một năm một đứa là
500.000 đồng, mức này cũng không cao lắm đâu, nhưng đó là với mức
sống những nhà bình thường... Còn so với điều kiện kinh tế của mình
thì yếu quá đi. Riêng bản thân tôi, hai đứa cùng một chiếc xe đạp,
đứa đi buổi sáng, đứa đi buổi chiều. Tôi chỉ sắm hai bộ đồ, một để
đi học, một để ở nhà, đồ đi học cứ về mai đi tiếp, đến thứ bảy giặt
giũ để thứ hai đi chào cờ, còn người ta khá thì sắm cho con hai ba
bộ đồ.” (Cuộc phỏng vấn nhóm của chúng tôi vào ngày 9-12-2007)
● Một
nông dân 51 tuổi, có hai con
học tiểu học, ở huyện Tân
Châu, An Giang, nói:
“Với tiền học phí này kia, cần nói ngay là nghiên cứu làm sao giảm,
vì đa số người dân của mình ở đây nông dân là nghèo nhất... Ví dụ
như mình có việc gì nhỏ mình làm có thu nhập hàng ngày thì được, còn
đằng này mình làm mướn bữa có, bữa không, mức thu nhập đâu có đủ.
Bởi vậy, nguyện vọng ai cũng vậy, ai cũng muốn lo cho con học tới
nơi tới chốn... nhưng mà nhìn lại cái gánh của mình là mình gánh
không nổi. Gánh không nổi. Bây giờ một tháng bổ đồng chi phí tiền
học, chưa tính tiền đau ốm, đó là cũng 300.000 đồng, trong khi một
tháng mà mình không có làm được cái gì thì lấy đâu ra.” (Cuộc
phỏng vấn
nhóm
ngày 6-12-2007)
●
Một giáo viên
về hưu, 61
tuổi,
ở
huyện Châu
Thành, Trà Vinh,
liệt kê các khoản chi phí cho một
học sinh như
sau: “Quỹ xây dựng
20.000
đồng,
tiền điện 10.000, bảo hiểm Bảo Việt 35.000, tiền giấy thi 6.000, học
phụ đạo 17.000, sách giáo khoa 125.000, tập viết một cuốn 3.000, 20
cuốn là 60.000. Áo dài hai bộ, một áo dài 75.000, một cái quần nữa,
hai bộ là 210.000, một bộ quần áo thể dục... Tôi thấy cái này cũng
hơi mệt rồi. Đối với tụi tui mần ruộng, hết lúa rồi... Nếu so chi
phí mấy đứa nhỏ tới sơ cấp tiểu học thì còn đỡ, lên trên thí dụ lớp
7, lớp 8 hay lớp 10 nội thấy cái áo dài cũng tiền, rồi chiếc xe
đạp... Mà áo dài một cái không được, ướt mưa thì sao, phải hai cái.
Nội cái chi phí đó cũng là cả triệu. Còn tiền sách, tiền vở, tiền
ăn, tiền học, rồi không giúp được cho nhà. Trong khi có những nhà
nhiều khi có những người đi làm hồ rất khó khăn...”
(Cuộc
phỏng vấn
nhóm
ngày 3-12-2007)
● Một
nông dân, 48 tuổi, ở huyện Krông Năng, Dak Lak: “Thực tế ở đây, hộ
nghèo rất nhiều. Tôi cũng là hộ nghèo. Nhưng mà ngại xác nhận hộ
nghèo, sợ con cái đến trường xấu hổ, tự ái vì mình là hộ nghèo, nên
tôi phải khắc phục chuyện đó. Tôi có sổ hộ nghèo đường hoàng, nhưng
tôi không xin miễn giảm vì sợ con cái mặc cảm, không học được. Nó
lớn rồi, nó suy nghĩ, nên tôi không tham gia vào việc đó.” (Cuộc
phỏng vấn nhóm ngày 9-12-2007)
|
3.
Những áp lực trong
nhà trường
Một
trong
những hiện tượng
nổi cộm trong
đời sống nhà trường
mà
cuộc khảo sát của
chúng tôi
vào
cuối
năm
2007 ghi nhận
được,
đó
là những
áp lực
đối với
cả
giáo viên
lẫn
học sinh phổ thông.
a.
Áp lực
đối với giáo viên
Trước
hết,
xét
về công việc
giảng dạy, thì
có thể nhận xét
ngay rằng số tiết lên
lớp hiện nay không phải là điều
gây áp lực lên
trên giáo viên.
Theo
kết quả điều tra
tại
năm tỉnh
thành miền Nam, tổng số tiết đang dạy hàng tuần bình quân
mỗi giáo viên
là 22,6 tiết, trong đó 17,5 tiết thực dạy, 2,2 tiết dạy thêm hoặc phụ đạo tại
trường, và 3,0 tiết qui đổi
(chủ nhiệm lớp, phụ trách đoàn thể...).
Giáo viên tiểu học có số
tiết dạy hàng
tuần nhiều
nhất (26,6
tiết), so với giáo viên trung
học
cơ
sở (18,5 tiết) và giáo viên trung
học
phổ thông
(21,7 tiết).
Giáo viên ở TPHCM dạy nhiều tiết nhất (25,5 tiết), so với các tỉnh Trà
Vinh (19,8 tiết), Vĩnh Long (21,8 tiết), An Giang (22,3 tiết), và Dak Lak (23,3
tiết). Riêng ở TPHCM, giáo viên THPT trong mẫu điều tra dạy mỗi tuần bình quân
tới 34,1 tiết, do có số giờ dạy tăng tiết cao nhất (9,5 tiết mỗi tuần).
Phần lớn giáo viên (70%) nhận thấy số giờ dạy như vậy là “vừa phải”,
24% cho là “nhiều”, và chỉ có 4% cho là “ít”.
Tuy nhiên, ngoài nhiệm vụ giảng dạy, các giáo viên còn phải đảm đương
thêm không ít nhiệm vụ khác. Trong số đó, nhiều nhất là làm giáo viên chủ nhiệm
(chiếm 66% giáo viên), làm đồ dùng dạy học (49%), làm
các loại sổ sách (45%), làm công tác đoàn thể
(32%), thu tiền học phí hoặc các khoản thu khác (20%)… (xem Bảng 4).
Bảng 4. Những nhiệm vụ mà giáo viên phải đảm nhiệm ngoài việc giảng
dạy, phân theo cấp học đang dạy (ĐVT:%)
|
Tiểu học
|
Trung học cơ sở
|
Trung học phổ thông
|
Tổng
cộng
|
|
Thu
tiền
|
25,1
|
20,0
|
10,4
|
19,8
|
|
Làm vệ sinh trường/lớp
|
28,4
|
6,9
|
0,8
|
14,1
|
|
Làm các loại sổ sách
|
57,5
|
45,6
|
25,0
|
45,4
|
|
Làm đồ dùng dạy học
|
63,4
|
47,5
|
26,7
|
48,9
|
|
Làm chủ nhiệm lớp
|
81,8
|
55,0
|
57,1
|
66,3
|
|
Công tác đoàn thể
|
34,3
|
31,9
|
27,5
|
31,8
|
|
Việc khác
|
12,4
|
16,7
|
18,3
|
15,4
|
|
Không trả
lời
|
2,7
|
5,6
|
3,8
|
4,0
|
Tổng cộng
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
Nguồn:
Kết quả cuộc điều tra tháng 11-12/2007 của chúng tôi.
Bảng 4 cho
thấy
kiêm nhiệm
nhiều công việc
nhất là giáo viên tiểu học, kế đó là giáo viên THCS. Giáo viên
ở năm
tỉnh thành trong mẫu điều tra đều có những tỷ lệ phải kiêm nhiệm những công việc
này tương đương nhau.
Được
hỏi rằng
“Để có đủ điều kiện chu toàn nhiệm vụ giảng dạy của mình, thầy/cô
mong muốn nhà trường cần làm những việc gì trong số những việc sau
đây ?”,
có tới 48%
giáo viên
cho rằng cần
“giảm
những công việc ngoài chuyên môn (như
làm sổ
sách, thu tiền…)”,
đứng hàng thứ ba trong số
các
nguyện vọng
của giáo viên
(xem Bảng 5).
Điều
đáng
nói là,
ngoài các loại
công việc
phải kiêm nhiệm như trên, người giáo viên còn phải gánh chịu nhiều áp lực ngay
trong lao động chuyên môn của mình, như: chương trình quá tải, sách giáo khoa
có nhiều nội dung nặng nề và không thích hợp, cách ra đề thi
nhiều
khi bất hợp lý, áp lực hoàn thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục ở địa phương, áp lực
của các phong trào thi đua, áp lực của các đợt thanh tra, kiểm tra và dự giờ...
Khi được hỏi rằng “đâu là những vấn đề mấu chốt dẫn tới tình
trạng giảm sút chất lượng dạy và học hiện nay trong nhà trường ?”, có
29% giáo viên trong mẫu điều tra trả lời là do “áp lực của chỉ tiêu thi
đua”, nằm trong số
năm
nguyên nhân mà giáo viên cho là mấu chốt nhất. Còn khi được hỏi
về
nguyện vọng, có
32% giáo viên
cho rằng cần “loại bỏ các chỉ tiêu thi đua trong nhà trường”
(xem Bảng 5).
Bảng 5.
“Để có đủ điều kiện chu toàn nhiệm vụ giảng dạy của mình, thầy/cô
mong muốn nhà trường cần làm những việc gì trong số những việc sau
đây?”
(có thể chọn nhiều ý)
- Có chế độ
lương bổng thích hợp để đảm bảo cuộc sống
- Cải thiện
các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy
- Giảm những
công việc ngoài chuyên môn (làm
sổ sách, thu tiền..)
- Được tự chủ
trong hoạt động giảng dạy
- Giảm bớt nội
dung trong chương trình giảng dạy
- Loại bỏ các
chỉ tiêu thi đua trong nhà trường
- Soạn lại sách
giáo khoa
- Việc
khác
|
92,7%
58,9
47,6
37,3
36,7
31,81
9,6
5,2 |
Nguồn:
Kết quả cuộc điều tra tháng 11-12/2007 của chúng tôi.
Phần lớn giáo viên (79%) cảm thấy “bị áp lực về chỉ tiêu, thành tích trong hoạt
động giảng dạy”, trong đó 6% cảm thấy điều này “rất thường xuyên”, 19%
“thường xuyên”, và 54% “thỉnh thoảng”.
Bệnh thành tích, vốn luôn đi đôi với bệnh hình thức và bệnh phong
trào, là một trong những áp lực nặng nề đối với giáo viên hiện nay. Chúng ta hãy
xem một số
ý kiến trả lời cuộc điều tra
như sau. “Hiện nay ngành giáo dục đang chống bệnh thành tích, nhưng thực chất
hiện tại vẫn còn xét vấn đề này trong thi đua, và
là
phần lớn quyết định kết quả thi đua của mỗi giáo viên. Không nên phân loại giáo
viên. Hồ sơ sổ sách còn quá nặng nề” (giáo viên mã số 39). “Thành tích vẫn còn
bị xem trọng trong cơ chế nhà trường” (GV 980). “Chịu nhiều áp lực nên khó giáo
dục đạo đức cho học sinh. Chịu nhiều áp lực chỉ tiêu thi đua từ trên đưa xuống”
(GV 354). Có nguyện vọng “không phải chạy theo chỉ tiêu, bệnh thành tích và bệnh
hình thức” (GV 896). “Áp lực chỉ tiêu thi đua (học sinh lên lớp cuối năm) khiến
giáo viên chưa mạnh dạn để học sinh kém kiến thức ở lại lớp. Hậu quả là không ít
học sinh ‘ngồi nhầm lớp’, giáo viên giảng dạy rất vất vả. Theo tôi, nên giảm bớt
chỉ tiêu học sinh lên lớp cuối năm (thành chỉ tiêu phụ), nếu cần cũng nên mạnh
dạn để các học sinh yếu kém kiến thức rèn luyện lại ; giảm bớt áp lực cho giáo
viên, mà học sinh cũng tránh được tâm lý ỷ lại ‘học không bao giờ có chuyện ở
lại lớp’“ (GV 218). “Không nên áp đặt chỉ tiêu cho giáo viên trong việc xét thi
đua. Bức xúc về vấn đề như sau: nếu giáo viên thực hiện theo 2 không và 4 nội
dung thì chất lượng thấp, dẫn đến kết quả là không xét thi đua cuối năm, dẫn đến
kết quả là có thể không được đứng lớp ; còn đối với giáo viên chạy theo thành
tích không thực hiện theo 2 không và 4 nội dung thì cuối năm được khen thưởng và
được đứng lớp tiếp. Vậy thì nên thực hiện hay không ? Thật sự vấn đề này là
chuyện rất bức xúc của giáo viên” (GV 40).
Tựu trung,
các
chỉ tiêu và phong trào đều là những chỉ đạo từ “bên trên” (ban giám hiệu, phòng,
sở và bộ giáo dục) áp đặt xuống mà người gánh chịu cuối cùng là giáo viên. Chúng
ta cần
nói
rõ rằng “chủ nghĩa thành tích”
hoàn toàn không phải là
bệnh
của giáo viên,
càng
không phải của học sinh
hay phụ huynh, mà cần thẳng thắn nhìn nhận rằng
đây
chính
là
bệnh
của
bộ máy,
của
quan chức, và tất nhiên
không
chỉ
là
bệnh
của
ngành
giáo dục
mà thôi (9) (11) (14). Hệ quả
của
căn bệnh
này
là
làm
mỏi mòn tâm huyết và lãng phí năng lượng
của giáo viên,
ràng buộc và trói tay người giáo viên, buộc họ
phải
có
thái độ
“cam chịu” một cách chẳng đặng đừng, không
những không
tạo điều kiện cho nhà giáo phát huy tính chủ động của mình trong lớp học mà còn
ảnh hưởng nặng nề tới mối quan hệ sư phạm giữa nhà giáo với học trò.
Các nhà quản
lý hay đổ lỗi cho giáo viên, nhưng suy
cho cùng, nhà giáo
cũng
chỉ
là
nạn nhân
của
lối tư duy
quản lý
máy móc dựa
trên
chỉ tiêu và thành tích.
b.
Áp lực
đối với học sinh
Áp lực
nặng nề không phải chỉ xảy ra đối với
người giáo viên, mà kể cả với người học trò,
khi phải đối phó với một chương
trình bất hợp lý, những bộ sách giáo khoa quá tải, và phải liên tục đi học thêm
mà không còn thời gian nghỉ ngơi hay vui chơi.
Mặc
dù Bộ GD-ĐT đã ra những qui định nhằm hạn chế tình
trạng dạy thêm, học thêm, nhưng cho đến tận hôm
nay, dường như căn bệnh này không hề thuyên giảm. Kết quả cuộc khảo sát của
chúng tôi cho biết có tới 48% học sinh trong mẫu điều tra ở năm tỉnh thành có
đi học thêm, trong đó 22% học thêm ngay tại trường, và 26% học thêm tại nhà
thầy cô. Tỷ lệ đi học thêm cao nhất là ở cấp THPT: 65%, trong khi ở cấp THCS
là 51%, và tiểu học 35%. So sánh giữa các tỉnh thành trong mẫu khảo sát, TPHCM
là nơi có tỷ lệ đi học thêm cao nhất: 75%, trong khi ở Trà Vinh và Vĩnh Long
là 35%, An Giang 21%, và Dak Lak 66%.
Một
phụ huynh ở Quận 3, TPHCM, trong cuộc phỏng vấn nhóm do chúng tôi
tổ chức vào
ngày 19-12-2007, nhận xét: “Bây
giờ, tôi thấy các cháu đến trường không yêu trường như xưa. Đấy là nó phải đến,
nó phải học, nhưng mà nó rất sợ. Sợ nhiều vấn đề lắm. Sợ nhiều vấn đề khắt khe
quá… Thiếu cái tình cảm giữa cô giáo,
thầy giáo với các cháu như cha mẹ với con cái…”
Tình hình những năm gần đây trở
nên thực sự nghiêm trọng đến mức mà có phụ huynh nói một cách có phần hơi cực
đoan rằng hình ảnh nhà trường giống như một thứ “nhà tù” (xem Tuổi trẻ,
26-1-2005, tr. 10), hay thậm chí
một “trại lính” (Tuổi trẻ, 20-5-2005, tr. 10).
Xét về mặt nào đó, những hậu quả do nền giáo dục hiện nay gây ra đối
với học sinh cần được
khảo sát
và mổ xẻ một cách có
hệ thống để
xem đấy có phải là những dạng “bạo hành” đối với các lứa tuổi trẻ em hay không,
có vi phạm những nguyên tắc sư phạm và
những
quyền lợi căn bản của trẻ em mà Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã minh
định hay không.
“Chỉ tiêu” như vậy thì đòi chất lượng sao được!
● Một
thầy giáo tiểu học
37 tuổi, người Khmer, dạy
lớp 4
ở huyện Trà Cú, Trà Vinh,
nói: “Nếu
mà ‘chỉ tiêu’ như vậy thì đòi chất lượng sao được ! Một phần học trò
cũng yếu, mà bắt buộc [đạt] chất lượng và [đạt] chỉ tiêu chín mươi
mấy phần trăm hàng năm phải được lên lớp. Mình không đủ, mình phải
quơ nó lên, đẩy nó lên, lên lớp 2 thì nó lại chạy theo thành tích…
Nó không có thì phải kiếm cho nó có… Từ đó rất ảnh hưởng tới chất
lượng, tới uy tín và vị trí của giáo viên… Rồi bây giờ lại cấm chạy
theo thành tích thì… làm sao bồi dưỡng cho học sinh... Tôi đang nghĩ
kết luận học theo hồi xưa, được [bao] nhiêu, chất lượng [bao] nhiêu,
thì cho lên [bấy] nhiêu, và các giáo viên cũng hết sức nhiệt tình
dạy...” (Cuộc
phỏng vấn nhóm
ngày 29-11-2007)
●
Một cô giáo
tiểu học ở quận
Bình Thạnh, TPHCM: “Tôi
nói thật, cả một lớp mà đạt ‘vở sạch, chữ đẹp’ thực sự là cả một quá
trình rất dài. Có khi tôi còn biết được rằng không phải là trọn một
lớp đâu. Nó được ‘phù phép’ để có được thành tích, chứ không phải là
một lớp hẳn hoi. Cho nên tôi nói ở đây, nếu đưa ra một vấn đề thi
đua, tôi nói thật, càng thi đua nhiều, bệnh thành tích càng cao,
những cái đối phó càng nhiều…” (Cuộc
phỏng vấn
nhóm
ngày 8-12-2007)
●
Một cô giáo
tiểu học ở quận
Bình Thạnh, TPHCM:
“[Chuyện] thanh tra… kéo dài thành một án treo mà giáo viên
phải
hao tổn tinh thần. Về mặt đó, vừa nơm nớp lo, vừa phải chuẩn bị một
tiết dạy cho tốt... Nếu chúng ta dạy [riêng] đối với học sinh...
không có ai dự giờ thì thoải mái trao đổi, học sinh cũng không có
rụt rè… tiết học đó đạt được hiệu quả. [Đến luc dự giờ], hiệu trưởng
vô, hiệu phó vô, rồi thầy cô vô nhiều quá, năm bẩy người, tôi bảo
đảm học sinh hôm đó không giơ tay trả lời. Chúng nó cũng bị cái áp
lực như là giáo viên... Tôi thấy cứ một năm, thứ nhất thao giảng
cụm, thứ hai thao giảng quận, một tiết dạy để thao giảng như thế để
trình làng, phải nói là trình làng... Nhưng mà hỏi rằng… tổ chức như
vậy có tác dụng không ? Đó chỉ là hình thức…”
(cuộc
phỏng vấn
nhóm
ngày 8-12-2007)
|
4. Cần
cải tổ
chính sách tài chính giáo dục
và
phương thức quản lý giáo dục
trong nền giáo dục phổ thông
Dưới đây là một số kiến nghị chính rút ra từ
những nhận định
qua kết quả cuộc khảo sát
này.
a.
Miễn hoàn toàn học phí và tất cả các khoản thu ở nhà trường công lập đối với
cấp tiểu học và trung học cơ sở
Kết
quả cuộc khảo sát
cho biết chi phí cho
việc học
hành
của
con cái
ở các bậc
phổ thông hiện nay
thực
sự là
gánh nặng
đối với nhiều gia đình,
nhất là những gia đình
nghèo. Phần chi của
ngân sách nhà nước
chiếm 59% trong tổng chi phí xã hội cho giáo dục
trên
cả
nước
vào năm 2006, còn
phần
chi
của
người dân chiếm tới 41%,
một
trong
những tỷ lệ
cao
nhất
vùng Đông Á (4) (19).
Không phải
nhà
nào cũng
có sẵn
tiền
để đóng
tiền trường
cho con khi tới hạn.
Có
31% phụ huynh trong
mẫu
điều tra
trả lời
là
phải
“đi
vay mượn để đóng học phí”, 14% “xin hoãn
với nhà trường”.
Mặt
khác,
kết quả phân tích cũng
nêu rõ
một
tình trạng đáng báo
động,
đó
là sự
bất bình đẳng
về
điều kiện
cũng như về cơ hội học tập. Chính chế độ thu học phí và đủ mọi khoản thu ở nhà
trường công lập phổ thông hiện nay đang tạo ra một rào cản lớn lao đối với con
em vùng
nông thôn
và con em
gia đình
nghèo thành thị trong
việc tiếp cận
và thụ hưởng
dịch vụ giáo dục phổ thông
mà
trên nguyên tắc phải
dành cho mọi trẻ em (15).
Chế độ thu phí này, dựa
trên
quan điểm “thu đủ bù chi” hay thu “theo
khả năng thu
nhập”, thực chất là biểu hiện của một chính sách dựa trên lôgic kinh tế tư
nhân hóa. Nếu quan niệm rằng chủ trương “xã hội hóa” chủ yếu chỉ là
thu hút sự đóng góp tài chính của người dân, thì đây là một cách hiểu sai
lạc và tai hại. Việc tìm cách gia tăng nguồn chi tiêu của người dân (vốn đã hết
sức cao) vào nền giáo dục công lập thực chất là “một hình thức tư nhân hóa
được che đậy” (1).
Thực ra, chúng ta cần nhớ lại rằng chủ trương thu phí trong trường
công đã ra
đời
trong bối cảnh khủng hoảng
của thời
bao cấp, kể từ khi
nhà nước
cho phép thu “quĩ bảo trợ nhà trường”
vào năm
1981, và chính thức gọi
là
“học
phí” từ
năm
1989. Bây giờ, đã đến lúc chúng ta cần xem xét lại và sửa đổi chủ trương
này.
Chúng tôi kiến nghị nhà nước cần sớm miễn phí hoàn toàn ở cấp
tiểu học và cấp trung học cơ sở theo đúng như tinh thần phổ cập
giáo dục
ghi trong Hiến pháp và Luật
giáo dục.
Việc miễn hoàn toàn học phí và các khoản thu trong trường công lập thực chất là
nỗ lực bảo đảm nguyên tắc công bằng
xã hội,
và xác lập lại trách nhiệm của nhà nước đối với nền giáo dục quốc gia,
chứ không hề là một yêu sách xuất phát từ “tâm lý ỷ lại của thời bao cấp” như có
ý kiến đã nêu (5).
Khi Hiến pháp nói công dân có quyền và nghĩa vụ học tập,
thì điều này không phải chỉ vì lợi ích của cá nhân và gia đình, mà còn vì và
trước hết vì lợi ích của cả quốc gia. Lợi ích của sự đầu tư giáo dục
không chỉ mang tính chất nội tác, tức có lợi cho chính người đi học, mà
còn mang tính chất ngoại tác, tức đem lại nhiều lợi ích khác cho cả xã
hội (13). Tình trạng bỏ học hay thất học không chỉ gây ra thiệt thòi cho trẻ em
và gia đình, mà chắc chắn còn ảnh hưởng tới số phận của cả quốc gia. Một nền
giáo dục yếu kém hiện tại sẽ để lại những hậu quả khó lường cho tương lai kinh
tế-xã hội vài chục năm sau. Chính vì thế, người ta thường coi giáo dục là một
thứ lợi ích công, và sản phẩm của nó như một thứ tài sản công.
Về ngân sách
nhà nước
đầu tư cho giáo dục,
nếu quả thực ngân sách còn eo hẹp
và chưa thể đảm đương nổi hết cấp trung học phổ thông (THPT), thì nhà nước cần
thiết kế lại
cách
phân bổ
ngân sách,
làm
sao
để có thể
tập trung ngân sách vào hai bậc học căn bản là tiểu học và THCS. Học sinh phải
được hoàn toàn miễn phí ở hai cấp này. Và nhà giáo
trường
công lập
phải
sống được bằng đồng lương một cách xứng đáng, chứ không thể
tiếp tục
duy trì
tình trạng lương không
đủ
sống
và buộc
phải
đi dạy thêm,
làm
thêm như
hiện nay
nơi khá đông nhà
giáo.
Ở cấp THPT, nhất là tại một số thành phố lớn, nhà nước có thể mạnh dạn, chẳng
hạn, chuyển những cơ sở mà ngân sách chưa đủ sức gánh vác thành những trường bán
công hoặc tư thục. Trường THPT nào vẫn được giữ lại làm trường công, thì cũng
phải miễn hoàn toàn học phí và tất cả các khoản thu. Ai muốn vào học, phải qua
thi tuyển. Như vậy, con em gia đình nghèo vẫn có cơ may được vào học trường
công, nếu học giỏi và thi vào đậu, chứ không phải chỉ học sinh có tiền mới được
vào học.
Đây là một bước lùi, quả thực là một bước lùi đau xót, nhưng cần
thiết, đối với hệ thống giáo dục phổ thông công lập hiện nay, nhằm khôi phục
nguyên tắc “công ra công, tư ra tư”. Bảo vệ nguyên tắc
này không phải là
chuyện mang tính hình thức, mà là
nhằm
khôi phục vị thế và
tính chất
đúng đắn của trường công.
Đối với nguyện vọng chính đáng của những gia đình khá giả mong muốn
con em mình được hưởng dịch vụ giáo dục tốt hơn, nhà nước nên khuyến khích mở
những trường bán công hoặc tư thục chất lượng cao, có thu học phí cao, chứ không
nên
để
cho
trường
công lập tự mình đứng ra đáp ứng nhu cầu này. Mô hình “trường công lập tự chủ
tài chính” đang thử nghiệm
hiện nay,
theo chúng tôi, là một mô hình bất hợp lý vì thực chất đang tuân theo lôgic kinh
doanh
tư nhân
hóa, và mâu thuẫn với bản chất công bằng của trường công.
b.
Cải tổ
phương thức quản lý giáo dục,
và khôi phục quyền tự chủ sư phạm cho nhà giáo
Để
những
kiến nghị
trên đây về học
phí
cũng
như
về tiền lương giáo viên có thể trở thành
khả thi, hiển nhiên
là nhà nước
cần tính toán
một cuộc
cải tổ sâu rộng
về chính sách tài chính đối với giáo dục
(19).
Thực ra, thu nhập của giáo viên hiện nay không phải chỉ xuất phát từ
ngân sách nhà nước, mà một phần
lớn
còn từ học phí và các khoản thu khác tại nhà trường. Nói
cách
khác,
thu nhập thực của giáo viên không phụ thuộc vào thang bậc lương thống nhất của
nhà nước, mà phụ thuộc vào điều kiện thực tế của từng địa phương và thậm chí
từng trường. Chính chế độ tiền lương bất hợp lý nói riêng, và chính sách tài
chính trong giáo dục nói chung, đã dẫn đến những hệ quả xáo trộn trong đời sống
nhà giáo (phải vất vả dạy thêm, làm thêm...), những đảo lộn trong mối quan hệ
giữa nhà giáo
với
học sinh,
cũng
như những hệ quả phức tạp
của
chế độ thu
các
loại phí
ở nhà trường,
không khác
gì bao nhiêu so
với tình trạng
“ba
lợi ích”
hay “xí
nghiệp đời sống”
trong
nền công nghiệp thời
bao cấp !
Tình cảnh
này không
thể
không
ảnh hưởng tới
sự
an tâm
của
nhà
giáo.
Khi được hỏi rằng “thầy/cô có yên tâm công tác với mức thu nhập” tại nhà
trường hay
không,
chỉ có 35% nói mình “yên tâm”, và có tới 60% nói là mình “không yên tâm”. Còn
khi được hỏi rằng “nếu được lựa chọn lại, thầy/cô có chọn theo nghề
giáo không ?”, 76%
giáo viên
trong
mẫu điều tra
trả lời “vẫn chọn”, 13% nói sẽ “không chọn”, 8% nói “không biết”. “Nếu có
một công việc khác có thu nhập cao hơn, thầy/cô có chấp nhận bỏ nghề
giáo không ?”, chỉ có 8% trả lời là “chấp nhận bỏ”, 67% nói “vẫn theo nghề
giáo”, nhưng có tới 21% nói là “chưa biết” – tức biểu hiện
một thái độ
phân vân hay bất an
nào đó.
Nhưng nhà
giáo hiện nay không
chỉ bị áp lực bởi
đồng lương.
Theo kết quả khảo sát, phần lớn giáo viên đều ít nhiều cảm thấy bị áp lực về chỉ
tiêu
và
thành tích trong hoạt động giảng dạy.
Xu hướng chạy
theo thành tích thực sự đã trở thành một căn bệnh đang làm tê liệt
cả thầy lẫn trò.
Chúng
tôi kiến nghị nhà nước cần bãi bỏ ngay
việc đề ra các chỉ tiêu buộc
giáo viên phải hoàn thành, giã từ
“chủ nghĩa thành tích”, và giải thể những
phong trào vô bổ, hình
thức, vì lối tư duy thành tích
này không
những làm
lãng phí ghê gớm tâm sức sư phạm
của
nhà giáo,
mà còn trực tiếp hay gián
tiếp đẻ ra
những
căn bệnh gian dối và suy thoái
về
mặt đạo
đức
xã hội (3)
(11).
Đồng
thời, cần mạnh dạn cải tổ
phương thức quản lý giáo dục cũng như
mô hình quản trị
nhà trường theo một lộ
trình thích hợp để thực sự
trao trả lại quyền
tự chủ sư phạm cho
nhà giáo (10).
Đối với
nhiệm vụ
giảng dạy của người giáo viên
phổ thông,
Bộ GD-ĐT chỉ cần quản lý khâu mấu chốt, đó là chương trình. Còn
về cách phân phối chương trình và sách giáo
khoa, cần trả lại cho quyền chủ
động của nhà giáo.
Cần sớm cải tổ lại nội dung chương trình giáo
dục hiện hành một cách căn bản, và làm sao “cởi trói” để những giáo
viên giỏi có thể tham gia biên soạn và xuất bản sách giáo khoa, chấm
dứt sự
độc
quyền của
nhà nước.
Quyền lựa chọn dạy theo sách giáo khoa nào
phải
thuộc về
nhà trường và nhà giáo, chứ không phải thuộc về Bộ GD-ĐT (8) (7).
Định
chế giáo dục là một
định chế
thuộc
xã hội dân sự, chứ không phải
là một
định chế chính trị như
chính phủ, quốc hội, ủy ban nhân dân... Nhà
trường không phải
là một cơ quan
hành chính,
mà là nơi dạy học. Trường công lập hoạt
động dựa trên
ngân sách
nhà nước, nhưng chủ thể của hoạt động
giáo dục chính là
nhà giáo,
là
nhà trường, chứ không
phải nhà
nước. Chính căn bệnh “nhà nước
hóa” nhà trường là một nguyên
nhân sâu xa dẫn tới
những hiện tượng tiêu cực và đảo lộn trong đời sống giáo dục (12).
Chúng tôi cho rằng có thực sự thay đổi quan điểm về
triết lý giáo dục,
về
chính sách
quản lý
giáo dục cũng như tài chính giáo dục, thì may ra mới có khả năng khởi sự quá
trình khôi phục lại chất lượng giảng dạy và học hành đúng đắn trong một môi
trường sư phạm lành mạnh mà đất nước đang kỳ vọng.
Trần Hữu Quang
13-4-2008
* Phần lớn nội dung bài
này
đã
được
đăng trên
Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
trong các
số ra ngày
24-4-2008,
1-5-2008,
8-5-2008 và 15-5-2008.
Tài liệu tham khảo
(1) Mark
Bray, Counting the Full Cost.
Parental and Community Financing of Education in East Asia, Washington D.C.,
World Bank, United Nations Children's Fund, 1996.
(2)
Fabien
Fenouillet, “La motivation à
l’école”, bài trong trang web Apprendre autrement
aujourd’hui,
www.cite-sciences.fr.
(3) GS Hoàng Tụy
và một số nhà giáo, nhà khoa học, Bản kiến nghị
về
việc chấn hưng, cải cách và
hiện đại hóa giáo
dục,
Tuổi trẻ Online, 3-9-2004.
(4) Raja Bentaouet
Kattan, Nicholas Burnett, User
Fees in Primary Education, World Bank, 7-2004.
(5)
Kim
Dung, “Học phí mới – Bài toán đang tìm lời giải”, kỳ III, “‘Quả bóng’ học phí
đại học được đẩy về Bộ”, Nhân dân, 21-12-2007, tr. 5.
(6)
Lưu Thủy, bài phỏng vấn GS
Hoàng Tụy, “Chấn hưng giáo dục
trong tình hình mới”, tạp chí Tia sáng, số 15, tháng 8-2006, tr.
30.
(7) Mai Lan, “Tư
duy quản lý giáo dục đang 'bó tay' người thầy”, Sài Gòn Giải phóng,
2-2-2004.
(8) Nguyễn Ngọc
Đào (bài phỏng vấn), “Dân sự hóa giáo dục: Bộ không nên ‘ôm’ nữa !”,
Pháp luật TPHCM, 16-5-2005.
(9)
Trần Hữu Quang,
“Cần bãi bỏ ngay các ‘chỉ tiêu’ trong giáo dục”, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, 6-11-2003, tr. 38-39.
(10)
Trần Hữu Quang,
“Tính tự chủ sư phạm”, tạp chí Tia sáng, số 14, 20-10-2005, tr. 52-54.
(11)
Trần Hữu Quang,
“Chuyện ‘thi đua’ trong
giáo dục”,
tạp chí Tia sáng, số 18, 20-9-2006, tr. 42-44.
(12) Trần
Hữu Quang,
“Thử bàn
về
triết lý
giáo dục”,
Diễn đàn (Forum), 25-2-2008.
(13) Trần Nam Bình,
“Đổi mới giáo dục tại Việt Nam: Một vài
nhận định từ
quan điểm
chính sách
kinh tế”, tạp chí Thời đại mới, số
6, tháng 11-2005.
(14)
Trần
Thượng Tuấn, “ ‘Tư duy’ chỉ tiêu”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
7-9-2006, tr. 22.
(15) UNESCO, “The
World Declaration on Education for All. Meeting Basic Learning Needs”, Jomtien,
Thailand (5-9 March 1990).
(16) Vụ Kế
hoạch-tài chính, Bộ GD-ĐT, “Giáo dục Việt Nam: đầu tư và cơ cấu tài chính. Số
liệu từ năm 2000 đến 2006”, Hà Nội, 10-2007.
(17) Vũ Quang Việt,
“Chi tiêu cho giáo dục:
Những con số 'giật mình'!”, VietNamNet, 13-2-2006.
(18) Vũ Quang Việt,
“Giáo dục tư hay công nhìn từ góc độ lý thuyết kinh tế”, Seminar về cải cách
giáo dục, 2005.
(19) Vũ Quang Việt, “Phát
triển giáo dục, vai trò của học
phí, trách nhiệm và
khả năng
ngân sách
nhà nước”, 4-2008.
© Thời Đại Mới
Posted in: Chính Trị
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét