Lê
Minh Nghĩa
Cố Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ
LỜI TÒA SOẠN: Đây là báo
cáo của tác giả Lê Minh Nghĩa tại Hội Thảo mùa Hè về
“Phát triển khu vực châu Á Thái Bình Dương và tranh
chấp Biển Đông” tổ chức tại New York City gần mười
năm trước, vào ngày 15 và 16 tháng 7, 1998. Dủ có
nhiều chi tiết (nhất là liên quan đến các nước ASEAN) cần
được cập nhật, để tôn trọng tác giả (đã qua đời năm 2004),
Thời Đại Mới xin đăng lại nguyên bản, không sửa đổi.
Cũng xin lưu ý rằng khi trình bày báo cáo này, tác giả đã về
hưu, không còn giữ một chức vụ nào trong Chính phủ Việt Nam.
Chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc. Trong đó
lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình
với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa
nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia.
Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ
lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một nước là hợp
pháp. Nhưng ngay sau chiến tranh thế gìới thứ haì, Hiến chương Liên Hợp
Quốc được thông qua năm 1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ
của một Quốc gia. Cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ và quyết liệt của các
dân tộc thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ hai mà dân tộc ta là một
đội ngũ tiên phong với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ đã dẫn tới nghị
quyết cụ thể và đầy đủ hơn của Liên Hợp Quốc về vấn đề này.
Nghị
quyết 1514 ngày 14/12/1960 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về việc trao trả
nền độc lập cho các nước và các đân tộc thuộc địa đã viết: "Mọi hành động
vũ trang và mọi biện pháp đàn áp, bất kể thuộc loại nào, chống lạỉ các dân
tộc phụ thuộc sẽ phải được chấm dứt để các dân tộc đó có thể thực
hiện quyền của họ về độc lập hoàn toàn một cách hoà bình và tự do, và toàn
vẹn lãnh thổ của họ sẽ được tôn trọng".
Nghị quyết 26/25 năm 1970 của Liên
Hợp Quốc lại viết: "Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc
dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên gỉới quốc tế hiện có của một quốc
gia khác
hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp
về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia".
"Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ
hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp".
Theo những tài liệu hiện có thì triều đình
Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới - lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ
10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần
thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ đó.
Theo Tống sử, Tông Cảo sứ giả nhà Tống được
phái sang nước ta năm 990 sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai năm 981
đã báo cáo rằng khi họ đến "hải giới Giao Chỉ" thì Lê Hoàn (Vua Lê Đại
Hành) đã phái 9 chiến thuyền và 300 quân lên đón và dẫn họ đến địa điểm
quy định. Trong cuốn Lĩnh ngoại đại đáp (1178), Chu Khứ Phi một
viên quan nhà Tống ở Quảng Đông, Quảng Tây đã viết rằng: dòng nước Thiên
Phân Dao là định giới giữa 'bíển Giao Chỉ" và biển Quỳnh - Liêm (tức vùng
biển Quỳnh Châu, Liêm Châu của Trung Quốc).
Như vậy là ngay từ thế kỷ thứ 10 và 12 , sứ
thần Trung Quốc và quan lại Trung Quốc đã biết đâu là vùng biển Giao Chỉ
(tức Việt Nam), đâu là vùng biển Trung Quốc.
Trong thế kỷ 11 đã diễn ra một số cuộc đàm
phán biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc để đòi lại những vùng đất mà
Trung Quốc còn chiếm, sau khi phải rút quân trong cuộc chiến tranh xâm
lược năm 1076-1077, cuộc chiến tranh đã xuất hiện 4 câu thơ của Lý Thường
Kiệt mà hai câu đầu khẳng định chủ quyền lãnh thổ:
Nam Quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời).
Trong các cuộc đàm phán đó có cuộc đàm phán
về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084
do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Trong thư gửi cho vua nhà
Tống đòi đất, vua Lý Nhân Tông viết: "Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng
vẫn khiến lòng tôi đau sót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng."
Ngoài việc dùng quân sự đánh úp, giải phóng
Châu Quang Lang, ngay sau khi đại quân Tống rút lui, đấu tranh kiên trì
của triều đình kết hợp với đấu tranh của nhân dân: bắn lén, bỏ thuốc độc
cộng thêm khí hậu khắc nghiệt, khiến cho, theo Tống sử, đội quân đồn trú
của nhà Tống mỗi năm tổn thất 70%-80% và năm 1079 mặc dầu đã đổi tên Châu
Quảng Nguyên thành Thuận Châu vẫn đành coi là vùng "Đất độc" và trả lại
cho ta và năm 1084 trả lại cho ta vùng Bảo Lạc, Túc Tang. Khi đi đàm phán
biên giới, sứ thần ta đã tặng cho nhà Tống 5 thớt voi khiến cho, theo
Đại việt sử ký toàn thư, người Tống có thơ rằng "Nhân tham Giao Chỉ
tượng, khước thất Quảng Nguyên kim" nghĩa là vì tham voi của Giao Chỉ mà
bỏ mất vàng của Quảng Nguyên (họ đã đánh giá sai nguyên nhân dẫn đến việc
trả lại đất).
Trong Lịch triều Hiến chương Loại Chí
viết năm 1821, Phan Huy Chú nhận xét là trong đàm phán về biên gìới đời Lý
có hai mặt mạnh: một là có "oai thắng trận", hai là "sứ thần bàn bạc, lời
lẽ thung dung, khôn khéo".
Nhà Trần đã bố trí các trọng thần phụ trách
các hướng biên giới: Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ phụ trách hướng Lạng
Sơn, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phụ trách hướng Hà Giang, Nhân Huệ
Vương Trần Khánh Dư phụ trách hướng Đông Bắc (Người thay Nhân Huệ Vương là
con Hưng Đạo Đại Vương, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng).
Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách
núi đá ở Hoà Bình để nhắc con cháu:
"Biên phòng hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tư kế cửu an"
(Tạm dịch: việc biên phòng cần có phương lược
phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài).
Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những
người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh "Chớ để họ lấn dần, nếu
các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi
cho giặc thì tội phải tru di".
Năm 1466 khi quân Minh cướp bóc vùng Thông
Nông, Bảo Lạc thuộc tỉnh Cao Bằng, một mặt nhà vua phản kháng đòi nhà Minh
phải bồi thường, mặt khác ra lệnh đầy 2 người chỉ huy ở Cao Bằng đi xa về
tội phòng giữ biên giới không cẩn mật và ra sắc dụ cho các tỉnh biên giới:
"Người bầy tôi giữ đất đai của triều đình, chức phận là phải bảo toàn cảnh
thổ, yên uỷ nhân dân, bẻ gẫy những mũi nhọn tiến công, chống lại những kẻ
khinh rẻ nước mình"
Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản
74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau: "Những người bán ruộng đất ở
biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém"; Quan phường xã biết mà
không phát giác cũng bị tội; "Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải
thì bị xử tội đồ" (đồ là đầy đi làm khổ sai).
Chính nhờ cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ,
thông minh, khôn khéo của các thế hệ Việt Nam nối tiếp, mặc dầu trong tình
hình so sánh lực lượng rất chênh lệch, phong kiến phương Bắc luôn luôn có
ý đồ thôn tính, lấn chiếm nhưng biên cương phía Bắc nước ta vẫn hình thành
rõ rệt và ổn định về cơ bản từ ngàn năm nay.
Tạp chí Géographer của Vụ tình báo
và nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29/10/1964 thừa nhận: "Sau hơn
10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và
thành lập vương quốc Đại Cồ Việt ... Nhà nước mới này đã bảo vệ được nền
độc lập của mình ... Một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như
đã tồn tại giữa hai quốc gia" cách đây 10 thế kỷ.
Trong bài "Tổng Tụ long và đường biên giới
Trung Quốc - Bắc Kỳ" năm 1924, Bonifacy, tư lệnh đạo quan binh Hà Giang
đầu thế kỷ 20 viết: "Đường biên giới lịch sừ giữa Việt Nam và Trung Quốc
đã được xác định một cách hoàn hảo (parfaitement défini). Khi cần người
Việt Nam biết bảo vệ các quyền của họ, mặc dầu người Trung Quốc cho rằng
không thể có đường biên giới giữa Việt Nam và Thiên Triều".
Điều mà con cháu ngày nay vô cùng cảm kích,
khâm phục, biết ơn là ông cha ta chẳng những chăm lo bảo vệ vững chắc biên
cương đất liền mà còn rất quan tâm xác lập và bảo vệ chủ quyền Việt Nam
trên vùng biển.
Tiếp theo hành động buộc sứ thần Trung Quốc
phải thừa nhận "hải giới" Việt Nam cuối thế kỷ thứ 10, nhà Lý đã thành lập
trang Vân Đồn để quản lý vùng biển Đông Bắc; nhà Trần nâng trang Vân Đồn
thành trấn Vân Đồn trực thuộc triều đình; Nhà Lê đặt tuần kiểm ở các cửa
biển để quản lý biển, thu thuế các tầu thuyền nước ngoài. Do vậy chủ quyền
Việt Nam trên các đảo vùng biển Đông Bắc được xác lập sớm. Đến thế kỷ 19,
khi Pháp yà nhà Thanh đàm phán về vùng biển trong Vịnh Bắc bộ thì không có
tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo ở vùng này, nhà Thanh phải thừa
nhận tất cả các đảo ở phía Tây đường kình tuyến Paris 105o43' Đ
là thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Năm 1171, 1172, vua Lý Anh Tông đích thân đi
"tuần tra các hải đảo ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam, Bắc, tìm
hiểu đường đí, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật".
Ở phía Nam, các chúa Nguyễn sau khi xác lập
chủ quyền Việt Nam đối với các đảo dọc bờ biển miền Trung và miền Nam: Cồn
Cỏ, Ly Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, đầu thế kỷ 18 đã xác lập chủ quyền Việt Nam
trên các đảo trong Vịnh Thái Lan. Khi đặt ách thống trị trên Nam Kỳ và
Campuchia, các quan chức Pháp đã tiến hành khảo sát vùng biển giữa hai
nước Việt Nam, Campuchia và đứng trước tình hình tất cả các đảo trên vùng
biển này về mặt hành chính đều thuộc tỉnh Hà Tiên của Việt Nam. Ngày
25/3/1873 chuẩn đô đốc thống đốc Nam Kỳ Krantz đã thừa nhận thực tế đó
trong nghị định quy định đảo Phú Quốc và tất cả các đảo trên vùng biển
giữa Nam Kỳ và Campuchia được tách khỏi tỉnh Hà Tiên, lập thành một quận
trực thuộc thống đốc Nam Kỳ.
Đối với các đảo xa bờ, theo chính sử Việt Nam
và theo nhiều nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với.
danh nghĩa Nhà nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra
khai thác và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc
củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh
Mạng liên tiếp phái thuỷ quân ra Hoàng Sa - Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ
bản đồ, lập miếu, dựng bia. Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong
3 năm: 1833, 1835, 1836 vua Minh Mạng liên tiếp có chi thị về Hoàng Sa.
Không chỉ chăm lo khai thác hai quần đảo, nhà
vua Việt Nam còn lo bảo đảm an toàn cho tàu thuyền Việt Nam và các nước
qua lại vùng biển xung quanh hai quần đảo, năm 1833 vua Minh Mạng đã chỉ
thị cho Bộ Công rằng: "Trong hải phận Quảng Nghĩa, có một dải Hoàng Sa, xa
trông trời nước một mầu; không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây thuyền
buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm phái người tới
đó trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối xanh tốt, người dễ nhận biết, có
thể tránh được nạn mắc cạn".[1]
Trong một tài liệu viết năm 1768, đô đốc Pháp
D'Estaing, người nhận nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch tiến công vào Việt Nam
đã viết rằng: "Việc đi lại giữa quần đảo đá Paracel (tức Hoàng Sa) và đất
liền còn khó khăn hơn việc đi lại ngoài biển khơi. Thế mà các thuyền nhỏ
của xứ này thường qua lại vùng quần đảo". D'Estaing đánh giá các
thủy thủ Việt Nam là "những người quen sông nước và là các thuỷ thủ giỏí".
Trong một tài liệu khác viết vào cuối năm 1758 đầu năm 1759, D'Estaing
còn nói ở Huế có tới 400 khẩu pháo hầu hết là của Bồ Đào Nha thu lượm từ
các xác tầu đắm ở Paracel[2].
Trong cuốn "Chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa" xuất ở Paris năm 1996, giáo sư Monique
Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật gia Châu Âu đã vìết; "Khi có Hiệp ước bảo hộ
của Pháp năm 1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng
gần hai thế kỷ, một quyền (un droit) đối với các quần đảo (Hoàng Sa,
Trường Sa), theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó".[3]
Từ 1884, Chính quyền Pháp ở Đông Dương đã
tiếp tục thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: tiến
hành khảo sát khoa học, dựng bia chủ quyền, dựng đèn biển, lập trạm khí
tượng, đài vô tuyến điện, đưa quân ra đồn trú, thành lập đơn vị hành chính
trên quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa thiên và sát nhập quần đảo Trường
Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Sau thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, nước
Việt Nam giành lại được độc lập thống nhất hoàn toàn, vấn đề bảo vệ biên
giới, bảo vệ lãnh thổ toàn vẹn của tổ quốc mới lại hoàn toàn thuộc về
trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam.
Năm 1954, Bác Hồ nói ở đền Vua Hùng "Các Vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" và năm
1961, mặc dầu mới có một nửa nước được giái phóng, Bác Hồ đã nóì: "Ngày
trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ
biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó". Bác Hồ đã chỉ thị cho
chúng ta phải nhận thức rõ tình hình mới, phải chăm lo bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Sau này, tưân theo chỉ thị của Bác Hồ, hiến pháp
Việt Nam năm 1992 đã khẳng định lãnh thổ Việt Nam "bao gồm đất liền, các
hải đảo, vùng biển và vùng trời" và 'Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất
khả xâm phạm".
Trong bối cảnh địa lý và chính trị của nước
ta sau năm 1975 , trước sự phát trtển của luật pháp quốc tế về biển, nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải giải quyết một loạt vấn đề biên
giới - lãnh thổ với các nước láng giềng:
1. Giữa Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một
đường biên giới có giá trị pháp lý quốc tế do các nhà nước có thẩm quyền
ký kết, tạo ra cơ sở vững chắc để xây dựng một đường biên giới hữu nghị
lâu dài giữa ba dân tộc.
2. Việt Nam cần xác định ranh giới vùng đặc
quyền về kinh tế và thềm lục địa với Indonesia, Thái Lan, Malaysia; vì
theo các quy định mới của luật biển quốc tế thì vùng đặc quyền về kinh tế
và thềm lục địa của nước ta và các nước đó chồng lên nhau.
3. Việt Nam cần giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ trên biển với Philippin, Malaysia vì hai nước này có yêu sách về
chủ quyền đối với một phần hoặc đại bộ phận quần đảo Trường Sa.
4. Với Trung Quốc, Việt Nam phải giải quyết
các vấn đề sau:
- Đường biên giới trên đất liền;
- Đường biên giới trong Vịnh Bắc bộ;
- Các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và thềm lục
địa trên Biển Đông: từ năm 1909 Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần đảo
Hoàng Sa và từ những năm 1930 bắt đầu có hành động tranh chấp quần đảo
Trường Sa (sẽ trình bày cụ thể ở dưới).
- Vấn đề ranh giới vùng thông báo bay (FIR)
ngoài khơi Trung bộ - Việt Nam, Trung Quốc đưa ra đề nghị lập FIR Sanya
lấn vào phần phía Bắc FIR Hồ Chí Minh mà Hàng không dân dụng quốc tế giao
cho Hong Kong tạm thời quản lý năm 1975 chủ yếu là họ muốn quản lý toàn bộ
vùng trời trên quần đảo Hoàng Sa và lấn vào phần phía Đông FIR Hà Nội trên
Vịnh Bắc Bộ.
Với chủ trương nhất quán là giải quyết mọi
tranh chấp về biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng bằng thương lượng
hoà bình, Việt Nam đã và đang giải quyết các vấn đề được đặt ra như sau:
1. Với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Tháng 2/1976, lãnh đạo hai nước đã cho ý kiến
về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Đường biên giới
giữa Việt Nam và Lào là đường bỉên giới trên bản đồ của Sở Địa dư Đông
Dương năm 1945 tỷ lệ 1/100 000 (năm 1945 là thời điểm hai nước tuyên bố
độc lập).
Như vậy là lãnh đạo Việt Nam và Lào đã cho
nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới hai nước theo nguyên tắc
Uti-possidétis (anh hãy làm chủ cái anh đang có), một nguyên tắc đã được
áp dụng ở Châu Mỹ la tinh trong thời kỳ phi thực dân hoá và đã được Tổ
chức thống nhất Châu Phi chấp nhận với nội dung "tôn trọng các đường biên
giới tồn tại vào lúc mà các nước Châu Phi giành được độc lập".
Dựa trên nguyên tắc Uti possidétis, qua 4 đợt
đàm phán trong Uỷ ban liên hợp Việt - Lào về hoạch định biên giới, ngày
18/7/1977 hai nước ký Hiệp ước Hoạch định biên giới. Việc phân giới cắm
mốc đường biên giới dài 2067 km bắt đầu tiến hành ngày 25/7/1978 và đến
24/8/1984 thì kết thúc.
Ngày 24/1/1986 hai nước ký Hiệp ước bổ sung
ghi nhận những điểm điều chỉnh đường biên giới đã hoạch định năm 1977, ký
nghị định thư ghi nhận kết quả phân gìới cắm mốc. Ngày 1/3/1990 hai nước
ký Hiệp định quy chế biên giới. Thi hành Hiệp định này, hàng năm có cuộc
họp giữa Đoàn đại biểu biên giới hai nước với sự có mặt của đại diện các
Bộ, ngành liên quan và các tỉnh biên giới của hai nước để kiểm điểm việc
thi hành Hiệp định quy chế biên giới.
2. Với Campuchia
Trước năm 1964, quan điểm cơ bản của phía
Campuchia về biên giới lãnh thổ giữa hai nước là đòi Việt Nam trả lại cho
Campuchia 6 tỉnh Nam Kỳ và đảo Phú Quốc.
Từ năm 1964 - 1967, Chính phủ Vương quốc
Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu chính thức đề nghị Việt
Nam công nhận Campuchia trong đường biên giới hỉện tại, cụ thể là đường
biên giới trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng
trước năm 1954 với 9 điểm sửa đổi, tổng diện tích khoảng 100 km2.
Trên biển, phía Campuchia đề nghị các đảo phía Bắc đường do Toàn quyền
Brévié vạch năm 1939 là thuộc Campuchia, cộng thêm quần đảo Thổ Chu và
nhóm phía Nam quần đảo Hải Tặc.
Trong năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã chính thức công nhận và
cam kết tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia trong đường biên giôi
hiện tại (công hàm của Việt Nam không nói tới vấn đề chủ quyền đối với các
đảo trên biển và 9 điểm mà Campuchia đề nghị sửa đổi về đường biên giới
trên bộ).
Ngày 27/12/1985 Việt Nam và Cộng hoà nhân dân
Campuchia đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trên cơ sở thoả
thuận năm 1967. Thi hành Hiệp ước, hai bên đã tiến hành phân giới trên
thực địa và cắm mốc quốc giới từ tháng 4/1986 đến tháng 12/1988 được 207
km/1137 km, tháng 1/1989 theo đề nghị của phía Campuchia, hai bên tạm dừng
việc phân giới cắm mốc.
Trên biển, ngày 7/7/1982 hai Chính phủ ký
Hiệp định thiết lập vùng nước lịch sử chung giữa hai nước và thỏa thuận:
sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới trên
biển, lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra năm 1939 với tính chất là
đường hành chính và cảnh sát làm đường phân chia đảo giữa hai nước.
Với Chính phủ Campuchia thành lập sau khi ký
Hiệp ước hoà bình về Campuchia năm 1993 , năm 1994, 1995 Thủ tướng Chính
phủ hai nước đã thoả thuận thành lập một nhóm làm việc cấp chuyên viên để
thảo luận và giải quyết vấn đề phân giới giữa hai nước và thảo luận những
biện pháp cần thiết để duy trì an ninh và ổn định trong khu vực biên giới
nhằm xây dựng một đường biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai
nước. Hai bên thoả thuận trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn
đọng về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay.
Thực hiện thoả thuận giữa Thủ tướng Chính phủ
hai nước nhân dịp Thủ tướng Ung Huốt sang thăm Việt Nam đầu tháng 6/1998,
nhóm chuyên viên liên hơp về biên giới Việt Nam - CPC đã họp tại Phnom
Pênh từ ngày 16 - 20/6/1998. Trong cuộc họp này hai bên đã trao đổl về
việc tiếp tục thực hiện các Hiệp ước, Hiệp định về biên giới giữa hai nước
đã ký trong những năm 1982, 1983, 1985. Hai bên đã dành nhiều thời gian
thảo luận một số vấn đề về quan điểm của hai bên liên quan đến biên giới
biển và biên giớl trên bộ với mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai
nước trở thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài.
Hai bên đã thống nhất kìến nghị lên Chính phủ
hai nước tiến hành thành lập Uỷ ban liên hơp với những nhiệm vụ:
- Soạn thảo Hiệp ước về hoạch định biên giới
biển và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trình lên
chính phủ hai nước.
- Chỉ đạo việc phân giới trên thực địa và cắm
mốc quốc giới.
- Giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc
thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới giữa hai nước.
Qua trao đổi về đường biên giới biển, phía
Campuchia kiên trì quan điểm muốn lấy đường do Toàn quyền Brévié vạch ra tháng
1/1939 làm đường biên giới biển của hai nước.
Ta đã nói rõ là ta không chấp nhận đường
Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì:
1. Đường Brévié không phải là
một văn bản pháp
quy, chỉ là một bức thư (lettre) gửi cho Thống đốc Nam Kỳ đồng gửi cho
Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Văn bản đó chỉ có mục đích giải quyết vấn đề phân định
quyền hành chính và cảnh sát đối với các đảo, không giải quyết vấn đề quy
thuộc lãnh thổ;
2. Cả hai bên không có bản đồ đính kèm theo
văn bản Brévié vì vậy hiện nay ít nhất lưu hành 4 cách thể hiện đường
Brévté khác nhau: Đường của Pôn Pốt, đường của Chính quyền miền Nam Việt
Nam, đường của ông Sarin Chhak trong luận án tiến sỹ bảo vệ ở Paris sau đó
được xuất bản với lời tựa của Quốc trưởng Norodom Sihanouk, đường của các
học giả Hoa Kỳ.
3 . Nếu chuyển đường Brévié thành đường biên
giới biển thì không phù hợp với luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế, quá
bất lợi cho Việt Nam và nên lưu ý là vào năm 1939 theo luật pháp quốc tế
lãnh hải chỉ là 3 hải lý, chưa có quy định về vùng đặc quyền về kinh tế và
thềm lục địa thì đường Brévié làm sao có thể giải quyết vấn đề phân định
lãnh hải theo quan điểm hiện nay và phân định vùng đặc quyền về kinh tế và
thềm lục địa.
Phía Việt Nam đã đề nghị hai bên thoả thuận:
áp dụng luật biển quốc tế, tham khảo thực tiển quốc tế, tính đến mọi hoàn
cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến một giải pháp công bằng
trong việc phân định vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của hai nước.
3. Với Indonesia
Việt Nam và Indonesia cách nhau 250 hải lý
vùng biển tính từ Côn Đảo và Natuna Bắc là hai đảo xa nhất của hai nước
đối diện nhau do đó trước kia không có vấn đề biên giới giữa hai nước (nếu
tính từ bờ biển Việt Nam và bờ biển Bornéo thì cách nhau trên 400
hải lý). Đến nay do sự phát tnển của luật pháp quốc tế về biển, hai bên
phải phân định ranh giới vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
Năm 1972, Indonesia và chính quyền Sài Gòn
đàm phán 1 vòng, quan điểm của Indonesia là phân định theo trung tuyến
giữa các đảo xa nhất của hai bên, quan điểm của Sài gòn là trung tuyến
Giữa bờ biển Việt Nam và Bornéo, hai quan điểm tạo nên vùng chồng lấn rộng
khoảng 37.000 km2. (Đảo Natuna Bắc là đảo xa nhất của Indonesia
đối diện với miền Nam Việt Nam cách Bornéo 320 km; Côn Đảo, đảo đối diện
với Natuna bắc chỉ cách đất liền 90 km).
Từ năm 1978 CHXHCN Việt Nam và Indonesia bắt
đầu đàm phán. Indonesia giữ quan điểm cũ, quan điểm của ta dựa vào định
nghĩa thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lục địa, do đó ranh giới nên
theo đường rãnh ngầm ngăn cách sự kéo dài tự nhiên của hai thềm lục địa,
hai quan điểm tạo ra vùng tranh chấp lúc đầu rộng khoảng 92.000 km2.
Qua 10 vòng đàm phán hai bên đã dần dần thu
hẹp được vùng tranh chấp xuống còn khoảng 4.500 km2 nhưng đầu
năm 1993 Indonesia đề nghị huỷ bỏ toàn bộ kết quả đàm phán từ 1978 dến
1992 và đàm phán lại từ đầu.
Cho đến nay, qua 5 vòng trao đổi không chính
thức, hai bên chưa đi đến thoả thuận nối lại đàm phán.
4. Với Malaysia
Giữa Việt Nam và Malaysia có một vùng chống
lấn vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng 2.800km2. Vùng này
hình thành bởi đường ranh giới thềrn lục địa do chính quyền Sài Gòn công
bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa do Malaysia công bố năm 1979.
Sở dĩ có sự khác nhau đó là do Sài Gòn có tính đến đảo Hòn Khoai cách đất
liền 6,5 hải lý còn Malaysia đã bỏ qua đảo Hòn Khoai.
Tháng 5/1992 Việt Nam và Malaysia đã ký thoả
thuận hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn, giao cho các công ty
dầu lửa của hai bên ký các dàn xếp thương mại và tiến hành hợp tác thăm
dò, khai thác rồi phân chia sản phẩm; việc phân định vùng chồng lấn sẽ
giải quyết sau. Việc hơp tác giữa hai ngành aầu khí đang tiến triển bình
thường.
Ngoài ra vùng khai thác chung giữa Thái Lan
và Malaysia rộng 7.250 km2 có 800 km2 liên quan đến
Việt Nam. Ba nước đã thoả thuận sẽ cùng nhau giải quyết khu vực này và
cuộc họp đầu tiên đã diễn ra tháng 2/1998 vòng hai sẽ họp vào nửa cuối năm
1998 để bàn về khả năng khai thác chung vùng chồng lấn.
Giữa Việt Nam và Malaysia còn có tranh chấp
về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa do Malaysia có yêu sách
đối với vùng phía Nam quần đảo Trường Sa và trên thực tế trong 2 năm
1993-1994 Malaysia đã cho quân chiếm ba bãi đá ngầm ở Nam quần đảo Trường
Sa: Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa.
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Malaysia
nhiều lần khẳng định sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng
thương lượng hoà bình.
5. Với Thái Lan
Giữa Việt Nam và Thái Lan có hai vấn đề trên
biển phải giải quyết:
a) Phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa.
b) Giải quyết vấn đề tầu thuyền đánh cá Thái
Lan thường xuyên vi phạm vùng biển Việt Nam và có trường hợp Thái Lan đã
dùng hải quân, không quân bảo vệ các hoạt động này.
Về vấn đề thứ nhất giữa hai nước có
một vùng chồng lấn rộng khoảng 6000 km2 do Việt Nam có tính đến
hiệu lực của đảo Thổ Chu còn Thái Lan thì phủ nhận hiệu lực của đảo Thổ
Chu.
Từ năm 1992 hai bên đàm phán qua 9 vòng cấp
chuyên viên.
Ngày 9/8/1997 hai nước ký Hiệp định về phân
định ranh giới trên biển giữa hai nước. Theo hiêp định, Việt Nam
được 32,5% diện tích vùng chồng lấn.
Về vấn đề thứ hai: Uỷ ban hỗn hợp Việt
Nam - Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển đã họp hai vòng. Hai bên đã
thoả thuận phối hơp trong việc giáo dục ngư dân, đi tới tổ chức tưần tra
chung, thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm, hơp tác tổ chức điều tra
nguồn lợi biển giữa hai nước.
Việc giải quyết dứt điểm vấn đề này cũng còn
đòi hỏi một thời gian.
6. Với Philippin
Philippin vốn là nước không có quyền gì đối
với quần đảo Trường Sa vì Hiệp định Paris năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha
theo đó Tây Ban Nha giao Philippin cho Mỹ đã xác định phạm vi quần đảo
Philippin trên bản đồ kèm theo Hiệp định, theo bản đồ đó nước Philippin
không bao gồm 1 đảo nào của quần đảo Trường Sa.
Từ năm 1951, Philippin bắt đầu chuẩn bị dư
luận để nhẩy vào tranh chấp quần đảo Trường Sa với lời tuyên bố của Tổng
thống Philippin Quirino rằng quần đảo Spratly (tức Trường Sa) phải thuộc
về Philippin vì nó ở gần Philippin.
Từ năm 1971-1973, Philippin cho quân đội ra
chiếm đóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa và năm 1977-1978 chiếm thêm hai
đảo nữa. Cả 7 đảo nằm ở phía Bắc quần đảo. Họ ra sức cửng cố vị trí trên
quần đảo: Chở đất ra đảo để trồng dừa, cạp thêm đất ra biển để làm đường
băng cho máy bay chiến đấu mở đường hàng không thường kỳ, tổ chức đánh cá,
xây dựng kho ướp lạnh, tổ chức thăm dò, khai thác dầu khí ở Đông Bắc quần
đảo (có tin nói là sản lượng dầu khai thác ở đây đảm bảo 10% nhu cầu dầu
của Philippin).
Đầu năm 1979, Philippin công bố sắc lệnh của
Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1978 coi toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ
đảo Trường Sa) là lãnh thổ Philippin và đặt tên cho quần đảo là Kalayaan.
Năm 1980 Philippin mở rộng lấn chiếm xuống
phía Nam quần đảo, chiếm đóng đảo Công Đo cách đảo gần nhất mà họ chiếm
đóng cũ gần 150 hải lý.
Từ năm 1978 đến 1994 Việt Nam và Philippin đã
thoả thuận ở cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Thủ tướng Chính phủ, Tổng thống
và Chủ tịch nước là sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương
lượng hoà bình trên tinh thần hữu nghị, hoà giải, tin cậy lẫn nhau.
Ngày 7/11/1995 hai Bộ Ngoại giao Việt Nam -
Philippin đã đạt được thoả thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với
vùng tranh chấp trong đó có các điểm chính là
- Hai bên đồng ý thông qua thương
lượng, hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ quyền
trên quần đảo Trường Sa.
- Kiềm chế không sử dụng hay đe doạ sử dụng
vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ môi trường,
nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn, chống
cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên biển ở quần
đảo Trường Sa.
- Bảo đảm tự do hàng hải theo quy định của
luật quốc tế.
- Từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết
dứt điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.
Cuối tháng 4 đầu tháng 5/1996, hai bên đã
thực hiện thành công chuyến khảo sát chung về khoa học biển tại khu vực
quần đảo Trường Sa và Biển Đông. Hai bên sẽ tiếp tục tổ chức khảo sát khoa
học chung trên khu vực quần đảo và trên Biển Đông. Uỷ ban hỗn hơp Việt Nam
- Philippin do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước dẫn đầu họp tại Hà Nội tháng
1/1997 đã thoả thuận về một số biện pháp xây dựng lòng tin trên quần đảo,
trong đó có việc trao đổi các cuộc viếng thăm của các chỉ huy quân sự và
lực lượng đồn trú của hai bên trên quần đảo.
7. Với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Năm 1957-1958, có sự trao đổi giữa Trung ương
Đảng hai nước về biên giới. Ngày 2/11/1957 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao Động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc đề nghị: "Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết
theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ
hai nước quyết định; nhất thiết cấm các nhà chức trách và các đoàn thể địa
phương không được thương lượng với nhau để cắm lại mốc giới hoặc cắt
nhượng đất cho nhaư" . Hàm ý của bức thư là hai bên cần căn cứ vào
các Công ước về hoạch định biên giới mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế
kỷ trước để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.
Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã trả lời đồng ý với ý kiến của Trung ương Đảng Việt Nam về công tác
biên giớl Việt - Trung.
Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới giữa hai
nước là về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ 15/8/1974 - 22/11/1974 tại Bắc Kinh, cấp
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc đàm phán mới chỉ có tính cách tìm hiểu quan
điểm của nhau và không đi tới thoả thuận nào.
Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới là về
đường biên giới trên bộ và về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ tháng 10/1977 đến
tháng 6/1978 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán này
cũng không đi tới thoả thuận nào.
Từ tháng 2 năm 1979 đến 1986 diễn ra chiến
tranh và xung đột quân sự trên vùng biên giới đặc biệt là trên biên giới
các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, ác liệt và kéo dài nhất là ở biên giới tỉnh
Hà Giang.
Từ năm 1991 hai nước khôi phục quan hệ bình
thường. Qua hai vòng đàm phán về biên giới cấp chuyên viên và một vòng đàm
phán cấp Chính phủ trong hai năm 1992, 1993, ngày 19/10/1993 hai nước ký
"Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh
thổ giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa".
Thực hiện thoả thuận trên, hai bên đã tổ chức
3 diễn đàn đàm phán cấp chuyên viên: về biên giới trên bộ; về biên giới
trong Vịnh Bắc bộ; về các vấn đề trên Biển Đông và một diễn đàn đàm phán
cấp Chính phủ để xem xét các vấn đề do các nhóm chuyên viên trình lên.
7.1. Về biên giới trên bộ
Thực hiện thoả thuận ngày 19/10/1993 là căn
cứ vào các Công ước 1887 và 1895 mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ
trước để "xác định lại toàn đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam
- Trung Quốc", hai bên đã họp 12 vòng nhóm công tác về biên giới trên bộ
trước năm 2000.[4]
7.2. Về đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ
Hai bên đã họp 10 vòng nhóm công tác về Vịnh
Bắc bộ và 6 vòng tổ chuyên gia về Vịnh Bắc Bộ để thực hiện thoả thuận về
nguyên tắc phân định Vịnh Bắc bộ là "áp dụng luật biển quốc tế và tham
khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc bộ",
"theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh
Bắc bộ để đi đến một giải pháp công bằng".
Cuộc đàm phán có tiến triển và hai bên đang
cùng cố gắng để có thể ký Hiệp ước về phân định Vịnh Bắc bộ cũng trước năm
2000. Vấn đề lớn nhất mà hai bên phải giải quyết là vấn đề hiệu lực các đảo
ven bờ của Việt Nam và đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng 130 km.
7.3. Về các vấn đề trên Biển Đông
Trên Biển Đông, vấn đề tranh chấp phức tạp và
quan trọng nhất là về hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa, bởi vì hai quần đảo giữ một vị trí chiến lược trọng yếu trên Biển
Đông. Nếu như nước ngoài chiếm cả hai quần đảo thì nước Việt Nam không còn
thế đứng trên Biển Đông và bị bao vây trên hướng biển.
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm trên 30 đảo, bãi,
đá ngầm trên một vùng biển rộng khoảng 15.000 - 16.000 km2 cách
Đà Nẵng khoảng 170 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo, bãi, đá
ngầm trên vùng biển rộng khoảng 160.000 - 180.000 km2, đảo gần
nhất của quần đảo cách Vũng Tầu khoảng 250 hảì lý. (Trung Quốc quan niệm
quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều quan niệm của ta là điểm cực Nam của
quần đảo Trường Sa là 6o50' Bắc trong khi Trung Quốc coi điểm
cực Nam của quần đảo Trường Sa là 4o Bắc giáp Bornéo).
Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước
phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17,
tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần
đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho
cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển.
Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh
chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam.
Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm
1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam.
Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư
xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai
Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18o13' Bắc".
Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas)
làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên
Biển Đông. Tháng 5 năm 1909 Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái đô
đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần
đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết
định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam.
Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung
Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên
quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố
một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của
Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng:
"Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam").
Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì
chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tực
và thật sự từ thế kỷ 17.
Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành
căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh,
Trung (Tổng thống Roosevelt, Thủ tướng Churchill, Tổng thống Tưởng Giới
Thạch) họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc.
Tuyên bố của Hội nghị viết: "Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung
Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành
Hồ". Như vậy rõ ràng là cả 3 người đứng đầu 3 cường quốc trong đó có Tổng
thống Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.
Tháng 7, tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội
nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết:
"Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành". Như vậy cả 4
cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa không phải là lãnh thổ Trung Quốc.
Năm 1947, cuốn Nam Hải chư đảo địa lý Chí
lược do Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc xuất bản có bản đồ "Nam hải
chư đảo vị trí lược đồ" thể hiện một đường 11 đoạn coi 80% Biển Đông và cả
4 quần đảo trên Biển Đông là thuộc Trung Quốc.
Năm 1950 trên bản đồ
Trung hoa Nhân dân Cộng hoà Quốc phân tỉnh tinh đồ có một phụ đồ thể
hiện quốc giới của Trung Quốc gồm 11 đoạn coi cả 4 quần đảo và 80% Biển
Đông là lãnh thổ Trung Quốc. Điểm cực nam của Trung Quốc là 4o Bắc giáp
Bornéo..
Ngày 15/8/1951, Chu Ân Lai Thủ tướng Trung
Quốc tuyên bố: "Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông
Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc."
Năm 1951 tại Hội nghị San Francisco với sự
tham gia của 51 nước, đại biểu Liên Xô đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ với 46
phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của Hội nghị ký ngày 8/9/1951 chỉ
ghi về hai quần đảo là "Nhật bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi
đối với 2 quần đảo". Tại Hội nghị này, ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã trịnh trọng tuyên
bố "Khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam đối với các quần
đảo Trường Sa, Hoàng Sa". Đối với Tuyên bố đó không một nước nào phản đối
hoặc bảo lưu. Như vậy là Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận hai quần đảo không
phải là lãnh thổ Trung Quốc.
Trong Hoà ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản
ngày 28/4/1952, Trung Quốc ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với
hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San
Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần
đảo.
Tuy vậy, trên thực tế, lợi dụng tình hình
Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956
Trung Quốc cho quân đội ra chiếm nhóm phía đông quần đảo Hoàng Sa, Đài
Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.
Tháng Giêng năm 1974, lợi dụng tình hình Mỹ
phải rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc dùng một lực lượng hải quân, không
quân quan trọng đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa khi đó do quân
đội của Chính quyền Sài Gòn bảo vệ. Chính quyền Sài Gòn đã liên lạc với Mỹ
yêu cầu giúp đỡ. Theo báo cáo của Trần Kim Phượng, Đại sứ Sài gòn tại Mỹ
ngày 2/2/1974 thì "Ngoại trưởng Kissinger chỉ coi cuộc tranh chấp đảo
Hoàng Sa như là một vấn đề ngoài lề thậm chí là điều bất lợi trong khung
cảnh của sự phối hợp với Trung Cộng để hạn chế Băc Việt Nam" và phía Mỹ
"không muốn nhúng tay vào".
Thái độ của Mỹ khiến cho ông Nguyễn Văn Thiệu
phải bộc lộ lo ngại với các cận thần về khả năng Trung Cộng sẽ đánh Trường
Sa và chiếm Par Force giống như Paracel (có Complicité hoặc bằng
Laisser-faire của Mỹ), những chữ Pháp nói trên là theo bút tích của ông
Thiệu.
Năm 1988 Trung Quốc lại huy động lực lượng
không quân, hải quân tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, từ đó
ra sức củng cố các điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới.
Ở Trung Quốc đã có những dư luận về những
bước tiến tiếp bằng vũ lực trên quần đảo khiến cho năm 1997 hai tác giả
người Mỹ Humphrey Hawksley và Simon Holberton đã viết cuốn Dragon Strike
coi là "một lời cảnh báo" về "một sự kiện lịch sử sắp diễn ra trong vài
năm sắp tới". "Tuy chỉ là một kịch bản suy tưởng nhưng dựa trên hàng
trăm sự kiện có thật xảy ra những năm qua và trong những ngày gần đây. Vì
vậy nó cung cấp cho các nhà chiến lược của nhiều quốc gia một tầm nhìn và
nhiều điều đáng suy nghĩ".
Và ở Trung Quốc năm 1993 hai tác giả Hiểu
Bình và Thanh Ba đã biên soạn và xuất bản cuốn "Quân đội Trung Quốc liệu
có đánh thắng trong cuộc chiến tranh tới không?".
Cuốn sách viết: "Nếu nhà cầm quyền Việt Nam
không có nhượng bộ gì trong vấn đề Nam Sa thì Trung Quốc và Việt Nam nhất
định sẽ có đánh nhaư"; "Thập kỷ 90 là thời kỳ then chốt để giải quyết vấn
đề Nam Sa. Thời kỳ này qua đi, có thể Trung Quốc sẽ mất một dịp may lịch
sử".
Cuốn sách còn cho biết rằng năm 1992, một hội
nghị quân sự của Trung Quốc họp ở miền Nam Tnmg Quốc đã định ra những
nguyên tắc tác chiến, kết hợp thủ đoạn đánh và doạ, "nhanh chóng ... đánh
đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa (tức Trường Sa)".
Tình hình tranh chấp phức tạp trên Biển Đông
khiến cho dư luận quốc tế lo ngại, ngày 22/7/1992, các Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao các nước thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố
của Hiệp hội ASEAN về vấn đề Biển Nam Trung Hoa, bản tuyên bố viết: "Cho
rằng các vấn đề Biển Nam Trung Hoa chứa đựng những vấn đề nhậy cảm thuộc
về chủ quyền và quyên tài phán của các bên ưực tiếp liên quan.
Lo ngạì rằng bất kỳ diễn biến có tính chất
thù địch nào trong Biển Nam Trung Hoa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoà bình
và sự ổn định trong khu vực.
Dưới đây :
1. Nhấn mạnh sự cần thiết phải giải
quyết bằng phương thức hoà bình, không dùng vũ ìực, đối với tất cả các
vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán trong Biển Nam Trung Hoa.
2. Khẩn thiết yêu cầu các bên liên quan tự
kiềm chế, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giải quyết tận gốc tất
cả các cuộc tranh chấp."
Trong tưyên bố ngày 10/5/1995, Mỹ cũng tỏ ra
lo ngại về tình hình khu vực và "cực lực phản đối việc sử dụng vũ lực hay
đe doạ để giải quyết những yêu sách đối nghịch".
Về phía Việt Nam, chúng ta kiên trì thực hiện
nguyên tắc đã thoả thuận ngày 19/10/1993 là "tiếp tực đàm phán về các vấn
đề trên biển (Biển Đông) để đi đến một giải pháp cơ bản lâu dài. Trong khi
đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm
phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực".
Tuyên bố của Quốc hội Việt Nam tháng 6/1994
nhân dịp phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển đã cụ thể hoá
quan điểm của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là:
"Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải
quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà
bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng
pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm
1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tàí phán của các nước ven biển đối với
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm
phán để từn gìảì pháp cơ bản, lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn
định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm
tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực".
Quốc hội Việt Nam nhấn mạnh:
"Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp
quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và
thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên
Hợp quốc về Luật biển năm 1982".
Sở dĩ có điều nhấn mạnh này là để đối phó với
sự việc năm 1992 Trung Quốc đã ký với Công ty Crestone của Hoa Kỳ cho công
ty này thăm dò khai thác một lô rộng 25.500 km2 trên thềm lục
địa Việt Nam cách đường cơ sở của Việt Nam 84 hải lý và cách Hải Nam 570
hải lý. Theo tin nước ngoài ngày 4/12/1996 Công ty Benton Oil và Gas có
trụ sở ở Califomia đã mua lại Công ty Crestone với giá 15,45 triệu USD vâ
do đó đã thay thế Công ty Crestone trong quan hệ với Trung Quốc để thực
hiện hợp đồng mà Crestone đã ký với Trung Quốc.
Ngày 10/6/1994 Người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quốc còn tuyên bố rằng lô Thanh long, phía Tây khu vực Tư Chính cách
đảo Hòn Hải nằm trên đường cơ sở của Việt Nam 90 hải lý cũng thuộc chủ
quyền của Trung Quốc vì đó là vùng phụ cận của quần đảo Nam Sa.
Về yêu sách của Trung Quốc đối với thềm lục
địa Việt Nam ở khu vực Tư Chính, Thanh Long, xin giới thiệu một số ý kiến
của Luật sư Brice Clagett Văn phòng luật sư Covington và Burling ở
Washington đăng trên tạp chí Dầu mỏ và khí đốt của Anh (các số 10
và 11 năm 1995) để tham khảo, Clagett viết: "Lô Thanh Long nằm ngay trên
thềm lục địa Việt Nam, thậm chí cả trong nghĩa hẹp của từ ngữ này"; "Theo
bất kỳ định nghĩa nào về thềm lục địa hoặc theo bất kỳ quan điểm hơp lý
nào của Luật quốc tế, yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Thanh Long
là lố bịch", "Có thể kết luận rằng yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực
Tư Chính cũng bất hợp lý không hơn không kém yêu sách của họ đối với khu
vực Thanh Long. Khu vực Tư Chính tiếp giáp với khu vực Thanh Long về phía
Đông, nằm chủ yếu trên dốc lục địa và (có lẽ) bờ lục địa của Víệt Nam. Khu
vực Tư Chính bắt đầu từ quãng đường đẳng sâu 150m và tựt xuống rồi kết
thúc ở khu vực đồng bằng ở sâu 1800-2000m tách khỏi đảo Trường Sa". "Bờ
dốc của đảo Trường Sa nằm đối diện chứ không tiếp liền với bờ dốc của lục
địa Việt Nam".
"Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử
và quyền đối với hầu hết Biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất
của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại
và không thể được coi là một vấn đề luật pháp nghiêm chỉnh".
Chúng ta đang cố gắng cùng Trung Quốc thực
hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ" giữa hai nước, thực hiện quyết tâm của lãnh đạo hai nước là đẩy
nhanh tiên tnnh đàm phán nhằm sớm đi đến ký Hiệp ước về biên giới trên bộ
và Hiệp ước phân định Vịnh Bắc bộ để khi bước sang thế kỷ 21 hai nước Việt
Nam và Trung Hoa đã có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài trên
đất liền và ở Vịnh Bắc bộ, đồng thời kiên trì đàm phán về các vấn đề trên
Biển Đông để đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài. chúng ta cững chân
thành và kiên trì thực hiện thoả thuận "Trong khi đàm phán giải quyết vấn
đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh
chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực".
Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng cuộc đấu tranh
bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, giữ vững
vị trí của nước Việt Nam trên Biển Đông là một cuộc đấu tranh kết hợp các
hoạt động của tất cả các ngành trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng, một
cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng
liêng của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ
quốc. Các ngành trong nước đang cùng nhau thực hiện ý kiến thống nhất
trong Hội nghị biển toàn quốc tháng 2/1995 là: "Chúng ta phải thức tỉnh ý
thức về biển của cả dân tộc, làm chủ được biển của mình, phát triển mạnh
mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta
trên biển, một lần nữa vươn lên trở thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông
Nam Á" .
[1]Đại
Nam thực lục chính biên, quyển 104, kỷ thứ hai.
[2]Ghi
chú về Châu Á. Tạp chí của Hội nghiên cứu Đông Dương, Tập XVII số 1.
tr 79 - 100
[3]Monique
Chemillier Gendreau: Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. tr.90
[4]
Hiệp ước biên giới trên đất liền này đã được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Đường
Gia Triền ký ngày 3-12-1999.
© Thời Đại Mới
Posted in: Chính Trị
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét