Tháng 11 năm 2016
Danh ngôn Nhân cách
Phẩm cách có thể biểu hiện ra trong thời khắc quan trọng, nhưng nó lại hình thành trong thời khắc không quan trọng. Bacon (Anh).
Danh ngôn Sự nghiệp
Hiểu biết giá trị của tiền bạc và luôn biết hy sinh tiền bạc vì bổn phận hoặc vì ý nghĩa, ấy là một đức hạnh thật sự. Senancourt
Danh ngôn Đối nhân xử thế
Khi bạn không thể thực hiện những gì ao ước, bạn nên ao ước những gì có thể làm. Terence
Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017
Khuyết Điểm Trong Nền Dân Chủ Hoa Kỳ: Electoral College
19:19
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trước khi đề cập đến khuyết điểm của nền dân chủ Hoa Kỳ, cần duyệt lại sơ qua một số ưu điểm không thể nào quên. Những ưu điểm đó có thể liệt kê vắn tắt như sau.
Ưu
điểm thứ nhất là một nền kinh tế phát triển cao nhất và lâu dài nhất
thế giới. Chỉ ít lâu sau khi Hoa Kỳ thoát ách cai trị của người Anh và
giành được độc lập thì nền kinh tế Hoa Kỳ tăng nhanh như vũ bão và đứng
đầu thế giới cho đến ngày nay.
Ưu
điểm thứ hai là đất nước này đã có một nền dân chủ ngay từ những ngày
đầu lập quốc và trong nền dân chủ đó, nguyên tắc tam quyền phân lập đúng
nghĩa đã được áp dụng và tôn trọng về cả hàng ngang lẫn hàng dọc. Về
hàng ngang thì không cần nhắc lại, còn về hàng dọc thì chính quyền liên
bang không bao giờ vi phạm quyền hạn của tiểu bang.
Ưu
điểm thứ ba là nhân quyền được tôn trọng và triển khai sớm nhất. Trong
các quyền của con người cá thể thì 14 quyền công dân, 15 quyền đầu
phiếu, 19 quyền đầu phiếu của phụ nữ đã được quốc hội thông qua rất sớm
. Tại Hoa Kỳ, con người là trọng tâm của quốc gia. Sự phát huy quyền
con người đã tạo nên một xã hội phồn vinh và một tư tưởng khai phóng cho
nhân loại.
Tuy
những ưu điểm nêu trên không thể chối cãi, nhưng nền chính trị của Hoa
Kỳ hiện nay vẫn là một trật tự chưa hoản hảo. Bài viết chỉ đề cập đến
khuyết điểm này vì là khuyết điểm lớn nhất và quan trọng nhất. Xin mời
qúy ví đọc tiếp.
Khuyết điểm lớn nhất: Electoral College
Trong
thực tế dân Mỹ không trực tiếp bầu chọn tổng thống của mình. Thay vào
đó là một cử tri đoàn gồm các “đại biểu cử tri” bỏ phiếu. Ta thử tìm
hiểu xem thế nào là đoàn “đại biểu cử tri” ( electoral college ).
Mỗi
bang có một số “đại biểu cử tri” (electors) nhất định, hợp thành “đại
biểu cư tri đoàn” dựa trên quy mô dân số của bang đó. Bang nào càng
nhiều công dân thì càng nhiều đại biểu cử tri. Về mặt kỹ thuật thì các
cử tri Mỹ đi bỏ phiếu để bầu “đại biểu cử tri” chứ không bầu trực tiếp
để chọn tổng thống.
California
là bang đông dân nhất nên có số lượng “đại biểu cử tri” lớn nhất là
55. Một số bang khác ít dân hơn như Florida, Pensylvania, Ohio… chỉ có
số “đại biểu cử tri” là trên 20. Mốt số bang nhỏ khác và đặc khu
Washington DC chỉ có 3 phiếu “đại biểu cử tri”.
Tổng
cộng nước Mỹ có 538 ‘đại biểu cữ tri” ngoại trừ hai bang Maine và
Nebraska. Để trở thành tổng thống mỗi ứng cử viên cần hội đủ tối thiểu
270 phiếu “đại biểu cử tri”. Ngoài ra người đắc cử không nhất thiết
phải giành chiến thắng về số phiếu phổ thông.
Hệ lụy của phương cách bầu cử theo hệ thống “đại biểu cử tri”.
Hệ
thống bầu cử theo “đại biểu cử tri” tại Mỹ được duy trì vì nó thường
phản ánh chính xác lá phiếu của các cử tri phổ thông. Hệ thống này cũng
tạo ra cho các bang nhỏ có sức nặng hơn trong việc bầu chọn tổng thống.
Ví
dụ như bang California chiếm 12,03% dân số của nước Mỹ nhưng “đại biểu
cử tri đoàn” của họ chỉ chiếm 10.22% số đại biểu cử tri trên cả nước.
Trong khi bang Wyoming chỉ có dân số bằng 0,18% dân số cả nước thì lại
có 3 phiếu đại biểu cử tri (nghĩa là bằng 0,56% tổng số đại biểu cử
tri).
Thời
gian gần đây một câu hỏi được đặt ra là : liệu có bất công hay không
khi một ứng cử viên đắc cử tổng thống lại nhận được ít hơn số phiếu phổ
thông so với người thất bại. Đây là một hạn chế chính của hệ thống bầu
cử theo hình thức “đại biểu cử tri”.
Năm
2000 ứng cử viên Al Gore giành được 48,38% số phiếu phổ thông toàn
quốc, trong khi đối thủ George W Bush, thuộc phe Cộng Hoà , chỉ được 47,
87%. Vậy mà Bush vẫn chiến thắng vì nhận được 271 phiếu đại biểu cử
tri so với 266 của Al Gore.
Tình
huống tương tự cũng xảy ra vào năm 1888 khi Benjamin Harrison giành
chiến thắng nhờ hơn phếu “đại biểu cử tri” so với đối thủ Grover
Cleveland. Và năm nay 2016, việc đó lại xảy ra thêm lần nữa khi Donald
Trump thắng Hilary Clinton.
Tại sao phương thức “đại biểu cử tri” đoàn vẫn được sử dụng ?
Khi
nước Mỹ được thành lập, chiến dịch vận động và bỏ phiếu đồng loạt ở tầm
quốc gia không thể làm được, vì khả năng thông tin thời đó quá thô sơ.
Các bang ngờ vực về quyền lợi của họ cho nên phổ thông đầu phiếu không
thể thực hiện.
Các
bang thuộc miền nam nước Mỹ rất ủng hộ phương thức “đại biểu cử tri “
đoàn. Những nô lệ tại khu vực này không có quyền bỏ phiếu nhưng được
tính bằng 3/5 người thường. Qua năm tháng, “đại biểu cử tri” đoàn trong
khu vực thay đổi và ngày càng phản ánh sát hơn nguyện vọng của người
dân.
Nguồn
gốc của electoral college phát xuất từ giới điền chủ Hoa Kỳ từ thời lập
quốc. Họ là một giai cấp giàu có và thí thức. Họ lãnh đạo cuộc chiến
và muốn bảo vệ quyền lợi vị kỷ của mình. Ngày nay, rõ ràng là hệ thống
bầu cử này không còn lý do tồn tại. Nền dân chủ Hoa Kỳ sẽ vững mạnh
hơn nếu được đặt căn bàn trên đa số tuyệt đối ( absolute majority) số
phiếu trực tiếp của người dân.
Hoa Kỳ có phải là một chế độ đa đảng chân chính?
Mặc
dầu người dân Hoa Kỳ có quyền thành lập đa đảng trong hoạt động chính
trị, nhưng từ xưa đến nay, Hoa Kỳ lúc nào cũng là một chế độ chính trị
lưỡng đảng ở cấp liên bang. Hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vẫn ngự trị
gần như tuyệt đối trong các quốc hội. Hậu qủa là nền dân chủ Hoa Kỳ
thiếu sự sinh động và sáng tạo từ các đáy tầng (grassroot) của xã hội
như tại Úc và các quốc gia dân chủ tiến bộ khác.
Khi
lưỡng đảng độc chiếm môi trường chính trị thì các phe nhóm lợi ích lộng
hành. Các nhóm lợi ích chỉ cần vận dụng ảnh hưởng xâm nhập một trong
hai đảng là có thể thống trị xã hội Hoa Kỳ. Điều này khó có thể xảy ra
trong một nền dân chủ đa đảng chân chính.
Người dân có quyền đi bầu hay không bầu.
Có
thể gọi đây là quyền “tự do bầu cử tuyệt đối” tại Hoa Kỳ. Nguyên tắc
này phát huy quan điểm dân chủ nhưng trên thực tế đây là một quyền tự do
vô cùng bất công và phản động (reactionary).
Lý
do là vì trong một nền dân chủ, những vùng nghèo ít học luôn luôn có
khuynh hướng lười biếng hoặc bận rộn không đi bầu. Hậu qủa là họ không
có đủ người đại diện tại các trung tâm quyền lực. Những chính sách quốc
gia không phản ánh quyền lợi giai cấp của họ. Từ đó phát sinh và củng
cố bất công xã hội.
Lập
luận rằng nếu không đị bầu thì “dáng chịu” không phải là một lập luận
có thể chấp nhận được. Chúng ta có trách nhiệm tạo ra hoàn cảnh công
bằng cho mọi con người. Chính vì thế mà tại các quốc gia dân chủ tiên
tiến thường có luật cưỡng bách cầu cử (compulsory voting) như ở Úc, và
bất công giảm nhiều so với Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không cần thay đổi hiến pháp mà chỉ cần thay đổi luật lệ bầu cử cho công bằng và hoàn chỉnh hơn.
Nguyễn Cao Quyền
Tháng 11 năm 2016
Tháng 11 năm 2016
Đảng CSVN Và Người Đàn Ông Ấn Độ Xẻ Núi
18:52
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tình cờ đọc một bài viết về câu chuyện có thật (tác giả Hữu Bằng đăng trên báo Đại Kỷ Nguyên VN) của một người đàn ông nông dân Ấn Độ tên Manjhi khi
vợ bị thương nặng trong một tai nạn năm 1959, phải đưa đi nhà thương.
Vì bị một ngọn núi chặn đường, phải đi vòng quanh núi mất nhiều thời
gian.
Khi đến nhà thương thì quá trễ và người vợ thương yêu của ông qua đời.
Sau đó, một thân một mình, mặc cho những lời đàm tiếu và búa rìu dư
luận, ông đã quyết định dùng những dụng cụ thô sơ, kiên trì suốt 22 năm,
phá và tạo ra một con đường xuyên núi, giúp cho dân làng của mình tiết
kiệm thời giờ quý báu, đưa thân nhân đến nhà thương nhanh chóng hơn.
Ông qua đời năm 73 tuổi vì ung thư bàng quang, được chính quyền tiểu bang Bihar làm “quốc táng” và câu chuyện của ông được đóng thành phim, làm gương cho hậu thế.
Khi so sánh với nông dân Manjhi này, nhiều dân tộc bất hạnh trên thế
giới, khi phải đối đầu với thảm họa Cộng Sản, thì chướng ngại họ gặp còn
lớn lao hơn ngọn núi chặn đường sống của người vợ mà Manjhi yêu dấu rất
nhiều. Nếu so với ngọn núi cản đường Manjhi thì các đảng cộng sản trên
thế giới có thể ví như những rặng Hi Mã Lạp Sơn chặn đường tiến hóa các
dân tộc.
Trước hết ý thức hệ Mác Lê là một ý thức hệ giáo điều khắc nghiệt và
các đảng cộng sản trên thế giới là những định chế bảo thủ và kiên định,
xây dựng trên những bản năng và dục vọng thấp hèn nhất của con người.
Các đảng CS trên thế giới kéo dài được hơi thở và mạng sống cũng vì
giới lãnh đạo từ Đặng Tiểu Bình đến Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh đến
quyền lợi và bổng lộc của từng đảng viên sẽ được bảo vệ bao lâu mà đảng
còn thống trị tuyệt đối. Chính vì thế, tuy chống đối lẫn nhau bề nổi,
nhưng trong bản chất, cả Nguyễn Phú Trọng lẫn Nguyễn Tấn Dũng đều ý thức
sâu sắc nguyên tắc tập thể lãnh đạo và luân phiên lãnh đạo hầu duy trì
đảng trị và phân chia quyền lợi, theo đúng lời dạy của Thái Sư Phụ Đặng
Tiểu Bình.
Các đảng cộng sản là những ngọn núi lớn lao và vững chắc hơn các chế độ
quân phiệt, độc tài cá nhân trị và ngọn núi của Manjhi. Con đường dân
chủ hóa của các dân tộc bị cộng sản cai trị muôn vàn khó khăn.
Liên Bang Xô Viết và các quốc gia Đông Âu phải mất 70 năm mới vượt
thoát khỏi hiểm họa này, lâu hơn hẳn Manjhi. Các dân tộc khác như Việt
Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn, Lào chắc chắn cũng phải chấp nhận mất nhiều
thời gian tương tự.
Chính vì thế, mỗi cá nhân đang kiên trì dấn thân vào con đường dân chủ
hóa đất nước, nhất là những người đã kiên trì từ các thập niên 70 sau
ngày miền Nam rơi vào tay CS, đã kiên trì tranh đấu suốt 40 năm, xứng
đáng được tuyên dương như những con người bất khuất nhất lịch sử dân
tộc.
Nông dân Manjhi chỉ là một con người chất phát, ít học, chỉ biết sử
dụng những khí cụ thô sơ. Thế nhưng ông vẫn thành công vì ý chí dấn thân
sắc đá, tình yêu của ông đối với vợ và dân làng vô bờ bến và ngọn núi
đối diện với ông mặc dầu vĩ đại nhưng rồi cũng phải quy hàng.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, yếu tố mà những người Việt tham gia
vào tiến trình dân chủ hóa đất nước cần phải học hỏi từ nông dân Manjhi
là ý chí dấn thân sắc đá kiên định.
Dĩ nhiên, trong hàng ngũ những người tranh đấu cho tiến trình dân chủ
hóa đất nước không thiếu nhiều người trí thức và hiểu biết. Tuy nhiên
điều đáng buồn là trong cuộc tranh đấu dài nhiều thập kỷ, người đã bỏ
cuộc, trở nên yếm thế và làm suy giảm tiềm năng của công cuộc đấu tranh.
Thêm vào đó, trên bình diện đấu tranh chính trị, chỉ có sự đối kháng có
tổ chức mới làm CSVN sợ hãi và tích cực đàn áp. Trong khi đó rất nhiều
thành phần trí thức bất đồng chính kiến chọn con đường dễ đi là cá nhân
chống đối và không dấn thân tích cực như nông dân Manjhi.
Một khó khăn nữa là đảng CSVN không phải là một khối đá vô tri, bất di
bất dịch, mặc cho chúng ta đục đẽo, mà là một thực thể sinh động, có thể
uyển chuyển co giãn, làm cho công cuộc tranh đấu dân chủ hóa đất nước
trở nên phức tạp hơn nhiều.
Chính vì thế, cũng như Manjhi vậy, tiến trình dân chủ hóa Việt Nam cần
những con người ý chí dấn thân kiên định và một tình yêu dân tộc Việt
Nam vô bờ bến. Đảng CSVN tuy không phải là một khối đá vô tri vô giác,
nhưng cũng bị xoi mòn và tha hóa bỡi trào lưu tư tưởng và tin học của
nhân loại. Thêm vào đó, lực lượng tranh đấu cho tiến trình dân chủ hóa
cũng có thể phát huy sinh động và muôn màu muôn sắc.
Chính vì thế ý chí dấn thân kiên định phải là điều kiện tiên quyết và
chúng ta cần phải vinh danh tất cả những cá nhân, nhất là những cá nhân
lãnh đạo các tập thể đấu tranh trong nước lẫn hải ngoại, trong suốt
nhiều thập niên qua, bất chấp các trở lực khách quan và búa rìu dư luận,
như những Manjhi của Việt Nam.
22.12.2016
«NHƠN QUYỀN» Yếu Tố Tất Yếu Cho Thái Bình Ở Việt Nam?
18:51
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hôm nay, ngày 30, tháng Chạp năm Bính Thân, rước Ông Táo về, để có bếp nấu bánh Tét.
Dân
ở xứ ngoải nấu bánh Chưng, bà già thằng tui dân Huế di cư vô Nam, tá
túc ở Tân Định, vẫn giữ tục gói và nấu bánh Tét của xứ Trung. Viết đến
đây nhớ Mẹ da diết, nhớ thuở nhỏ, thời ở Tân Định, đường Paul Bert, sau
Đình Hát Bộ Thành Công quá ! (Đó là những năm trước 1950 xa xưa, tên
đường Sài gòn còn tên tây, Sài gòn còn xe lửa điện về tới Đất Hộ !) –
Mong chia sẻ với bà con bạn hữu thế hệ 7/8 bó ngày nay và cựu dân Sài
gòn thứ thiệt bổ túc dùm trí nhớ…thằng già tui ! Sài gòn và dân Vdiệt ta
lúc bấy giờ tuy hổng nghe nói Nhơn Quyền là cái gì, nhưng sống khá đầy
đủ quyền người dân…Nhựt trình tùm lum… tự do ngôn luận ! Đảng phái, giáo
phái khá đông, … tự do thành lập đảng phái ! Và những tự do gì nữa,
tuổi quá nhỏ tui không hiểu hết… nhưng cảm thấy cuộc sống khá tự do,
Tết, lễ lạc, đi lại, ra vô Huế Sài gòn thong thả dễ dàng …
Ngày
nay, thằng tui sống xứ người, nhập cuộc đấu tranh cho Nhơn quyền quốc
tế với Amnesty International, mình cứ phải như « bỏ muối vào biển », gào
khô cổ, gọi hết hơi, đòi hỏi Nhơn quyền cho các quốc gia tạm gọi là
chậm tiến – để khỏi nói là mọi rợ, dã man, tàn bạo… đau khổ nhìn thấy
trong ấy có cả … cựu quê hương Việt Nam ! Nhục nhã thật ! Thật đáng
nhục !
Hôm
nay năm tàn tháng tận, đáng lý, yên lòng, hân hoan, vui vẽ, sữa soạn ly
rượu Mừng Xuân rót sẳn, đốt ngọn đèn cầy, thắp nhánh nhang, đón ông bà
cha mẹ, đón mừng Năm Mới. Trái lại, vì chuyện Việt Nam canh cánh bên
lòng, lại thêm cái họa Hán Hoá, lại thêm cái chuyện Nhơn quyền, lại phải
nói đi, lại phải nói lại, nói mãi… ! E rằng rượu Mừng Xuân sẽ Rượu
Đắng, vì không quên rằng dân Việt nay đã mất Nhơn Quyền, đã mất Dân tộc (là cái cẳng), và sắp sửa mất cả quốc tịch rồi ; dân Việt Không còn dùng từ «Chúc Mừng» nữa, nay đổi ngôn ngữ « Sua Hỏa Dù ! » hay « Cỏn Tung Hỏa », chỉ còn biết «Cống Hỉ» Pà Con !
Thằng
tôi chỉ tội nghiệp cho những bà con bạn hữu cùng nhau, suốt mấy chục
năm ròng rã nay, còn tâm huyết ký tên thỉnh nguyện với chánh phủ Mỹ,
chánh phủ Úc xin hãy đặt điều kiện Nhơn quyền với chánh phủ Việt Cộng.
Người Việt tỵ nạn chúng ta tự hỏi xem còn có ai (bao nhiêu người) đặt
điều kiện Nhơn quyền với Hà nội không ? Khi hằng năm gởi về 14 tỷ, khi
hằng năm trở về du hý, du lịch ? Mình không thể nhờ người ta đấu tranh Nhơn quyền, cho Dân chủ cho Tự do của dân tộc mình khi mình hổng làm gì hết ! Và mấy ngày hôm nay, phe ta, hải ngoại hân hoan, hô hào, phe mình quốc nội «hồ hởi, phấn khởi » đều mừng cái:
1. Độc Chiêu của Obama tặng Trump, Luật Nhơn Quyền Magnitsky :
Ngày 23/12/2016, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama phê chuẩn Luật Nhơn Quyền Magnitsky Toàn Cầu (Tin RFI)
Cũng trước đó ngày 8/12, Thượng Viện và Hạ Viện Huê Kỳ đã thông qua Luật Chịu trách nhiệm về Nhơn Quyền Toàn cầu Magnitsky (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act), là một phần của Dự Luật Ủy Quyền Quốc Phòng năm 2017 (National Defense Authorization Act), gọi tắt là NDAA hoặc S.2943
mà Tổng Thống vừa hạ bút ký thành luật. Đạo luật này trao cho Tổng
Thống Hoa Kỳ thẩm quyền bác bỏ những ai vi phạm nhơn quyền và quan chức
ngoại quốc tham nhũng được đi vào Mỹ hoặc tiếp cận hệ thống tài chánh
Mỹ. Đạo luật lưỡng đảng này được xây dựng trên cơ sở Luật Sergei Magnitsky Rule of Law Accountability Act đưa
ra năm 2013, nhằm áp dụng các hình phạt lên toàn cầu, cũng như tiến
hành những hành động quan trọng để trừng phạt các nghi phạm tham nhũng.
Tuyên bố của Tòa Bạch Ốc ghi rõ:
“Tổng
Thống có thể áp dụng những sự trừng phạt được mô tả tại khoản (b), lên
bất kỳ một công dân ngoại quốc nào, tại bất kỳ quốc gia nào, mà Tổng
Thống quyết định, dựa trên những bằng chứng đáng tin cậy, rằng họ phải
chịu trách nhiệm vì giết người mà không kết án, tra tấn hoặc vi phạm
trầm trọng các quyền về con người được quốc tế công nhận.”
Đạo
luật cũng áp dụng cho những ai phải chịu trách nhiệm vì tham nhũng,
biển thủ tài sản và các tội ác khác. Những hình phạt bao gồm cấm nhập
cảnh vào Hoa Kỳ và đóng băng tài sản. Luật sẽ có giá trị trong sáu năm.
Tuy nhiên chỉ duy nhất Tổng Thống Mỹ mới có thể xóa bỏ việc áp dụng lệnh
trừng phạt này lên một cá nhân đang chịu hình phạt, sau đó Tổng Thống
có bổn phận phải đệ trình lên cho Quốc Hội biết. Đây là sự mở rộng của Luật Magnitsky Act,
được Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua bốn năm trước, cho phép Hoa Thịnh Đốn
từ chối visa và đóng băng tài sản của những giới chức Nga bị cáo buộc
có dính líu đến cái chết của luật sư người Nga Sergei Magnitsky.
Vũ Khí Mới của Huê Kỳ hay «Món Quà Độc» Obama Tặng Trump?
Dĩ nhiên, Nhơn Quyền,
xưa nay bất cứ dưới triều đại nào của nước Mỹ, cũng được đưa ra như một
điều kiện tiên quyết để tạo sức ép, tạo lực, để đàm phán với Việt Nam
Cộng Sản (và các quốc gia « cà chớn » khác !).
Dĩ nhiên, Nhơn Quyền
lúc nào cũng được Mỹ dùng làm vũ khí « hù dọa » Việt Nam để thương
thuyết để có một thế thượng phong. Nhưng vì ‘không nên dồn con chó vào
chơn tường’, nên phía Huê kỳ hoàn toàn không bao giờ áp dụng hẳn những biện pháp chế tài cứng rắn ! Bao nhiêu lần lên tiếng, nhưng đâu cũng vào đó. Từ những đạo Luật như luật countries of particular concern” (CPCs) đến những listings
vào sổ đen những nhơn vật hay những quốc gia thiếu tư cách, kém lương
thiện … Nhưng, sự thật, chỉ để « nhát ma » « hù dọa » các quan chức Việt
Cộng (chỉ nói riêng VC thôi, vì chúng ta người Việt tỵ nạn chỉ để ý
VC) ! Vì thế chúng nó vẫn nhởn nhơ đi lại Mỹ-Việt đều đều như đi chợ, cả
thế, còn mua nhà mua cửa, gởi con đi du học với tiền chùa, tiền ăn cắp
tiền tham nhũng … tự nhiên như người Hà Lội !
Luật Magnitsky, Obama ký vào giờ chót để mần gì ?
Giao «của nợ » cho chánh quyền Trump ? Để Trump «wánh» tham nhũng VC? Un Cadeau empoisonné – Một món quà độc!
8
năm là Vua với giải Nobel Hòa Bình, chánh quyền Obama, với Hillary
Clinton, với John Kerry hai tên phản chiến, với Ted Osius tên Mỹ Việt
Cộng… có đủ vũ khí, từ ngoại giao đến quân sự để tạo điều kiện để có một
Nhà cầm quyền Việt Nam tôn trọng Nhơn Quyền Dân Chủ ở Việt Nam ! Thế
nhưng … Mậu binh Zéro ! Việt Cộng Côn An tà tà thản nhiên khủng bố, hải
ngoại tà tà thản nhiên biểu tình, thản nhiên kêu gào và vẫn thản nhiên …
gởi tiền về làm ăn, vẫn thản nhiên du lịch, du hương, du hý … ! Dĩ
nhiên Mỹ và các quốc gia âu tây rất sợ bị gát « cái tội xâm phạm là xâm
phạm tiết hạnh… nước cựu nô lệ, nào là tự do, nào là tự quyết… tóm lại
đụng chạm vào … việc người ». Những từ ngữ đầy mặc cảm như « thuộc địa,
đế quốc, tân dế quốc, tân thuộc địa …» bị xem như là « tội tổ tông »…
Các quan chức Âu Mỹ ngày nay phải đọc kinh xám hối trước khi lên máy
bay qua thăm các quốc gia nhược tiểu.
Tàu
và Liên Sô, trái lại, «cóc cần». Chỉ sử dụng tình hữu nghị bất diệt! Ca
bài « HàNội Bắc Kinh Mạc Tư Khoa núi liền núi sông liền sông đời đời
bất diệt». Chỉ có tình Hữu Nghị Đồng Chí thôi! Marx, Lenine, Staline,
Mao Hồ là những ông Thánh Tông Đồ của Cộng Sản Giáo. Và Poutine Tập Cân
Bình nay là Hai Giáo Hoàng của Hai Hệ Cộng Sản Giáo Tân Thời !
Nhơn quyền ngày nay là cái gì ? Phải đi tìm lại định nghĩa ấy:
Nhơn Quyền định nghĩa của Âu Mỹ ? Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đấu tranh đòi hỏi ?
Nhơn quyền định nghĩa của Poutine, của Tập và đồng bọn trong khối Cộng sản ?
2. Nhơn Quyền theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa:
Nhắc
lại năm xưa, 8 năm về trước lúc Ông Obama vừa đắc cử Tổng Thống, một
Phái đoàn Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua Pháp đền thăm Quốc hội
Âu châu xin tiền. (Đây chỉ là một sự trùng hợp vô tình về thời khác biểu thôi, nhưng cũng là một điển hình của một não trạng)
Bị
chất vấn về vấn đề tình trạng Nhơn quyền ở Việt Nam. Nào là vẫn còn bị
xâm phạm, nào là nhiều người không đồng tư tưởng, không đồng ý kiến, vẫn
còn bị giam cầm. Người đại diện và trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng sản
ung dung tự tại, trả lời tỉnh queo, không ngượng miệng rằng, Quốc hội Âu
châu chỉ biết nghe những tin thất thiệt và hiểu lầm Việt Nam, tội
nghiệp ! VÌ quan niệm Nhơn quyền ở Đông phương và Tây phương khác nhau (sic) !
Theo định nghĩa Tây phương, quan niệm Nhơn quyền là quyền của cá nhơn con người, còn ở Đông phương chúng tôi, quan niệm Nhơn quyền là quyền của một cộng đồng, của một tập thể con người.
Tóm lại, Nhơn quyền ở Việt Nam, theo định nghĩa và tư duy của Đảng Cộng sản, là thứ Nhơn quyền do Đảng Cộng sản chỉ đạo.
Nhơn Quyền Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ! That’s it !
Và Cả Quyền Tự do Tôn giáo và Tự do Tín ngưởng :
Được
– Bị hỏi về Tự Do Tôn Giáo và Tự Do Tín Ngưỡng. Câu trả lời cũng theo
định nghĩa của Đảng Cộng sản Quốc tế, là quyền của một tập thể Cộng sản
Quốc tế Nga Hoa, nay được song tịch nhập vào Việt Nam. Trước thờ các di ảnh nhập cảng các ông có râu xồm Mác, Lê Nin, Xì ta lin.., nay tiếp tục thờ một xác chết ướp khô, lô-can, sản xuất tại gia, đệ tử chơn truyền của
các vị thánh râu xồm kia, với cuốn Thánh kinh cũng lô-can (local) luôn,
được « xôm tụ » gọi là « Tư tưởng Hồ Chí Minh ». Do đó, Nhà nước Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, vốn thuộc Đảng Cộng sản Quốc tế không thể chấp nhận những quan niệm thờ phượng khác.
Đến quan niệm Yêu quê hương, yêu Tổ quốc giang sơn cũng thế :
Quan niệm yêu quê hương là yêu quê hương xã hội chủ nghĩa,
yêu Tổ quốc giang sơn là Tổ quốc giang sơn Xã hội Chủ nghĩa, núi liền
núi sông liền sông với Tổ quốc giang sơn Tàu Hán ! Vì thế thà giao núi,
giao sông, giao biển, giao đảo cho quan thầy Trung Cộng giữ, cho chắc
ăn, hơn là giữ lấy một mình sợ không kham. Phần dân chúng ? Dân chúng
phải biết tuân lệnh, không được biểu tình phản đối…dù chỉ phản đối, đả
đảo chống Tàu.
Biểu tình là một nhơn quyền, dù là nhơn quyền tập thể. Đó là quyền phát biểu của một tập thể công dân để nói lên sự không đồng ý, không bằng lòng của mình đối với nhà cầm quyền.
Nhưng có điều lạ: Biểu tình là nghề ruột của chàng Cộng sản lúc còn nằm
vùng ở Việt Nam Cộng hòa. Cộng sản đã từng xúi dân chống nhà nước Việt
Nam Cộng hòa lúc ấy, vậy mà ngày nay các tên thủ trưởng Cộng sản, từ
Nguyễn Tấn Dũng, gốc Côn An gộc đến tên Thủ Tướng « Ma dzề in Việt Lam »
đều ra lệnh Cảnh sát Côn An Cộng Sản của mình phải dẹp biểu tình. Chống
biểu tình lại biến thành một quốc sách ! Và quyền biểu tình, vốn là một
Nhơn quyền tập thể dân chủ, củng biến thành một món hàng quôc cấm !
Vậy
quan niệm Nhơn quyền, dù là Nhơn quyền của một tập thể, của một cộng
đồng (dù là một định nghĩa Cộng sản), cũng không có ở Đông phưong tuốt
luốt, hay có lẽ các ông Cộng sản chỉ muốn nói là “không có ở Đông phưong Cộng sản ».
Sao các ông không nói toẹt ra là ở xứ Việt nam Cộng sản chúng tôi chẳng những không tôn trọng Nhơn quyền mà ở xứ chúng tôi thực sự là không có Nhơn quyền ? Người dân Việt nam không có quyền gì cả. Và vì không có quyền nên Dân chẳng làm Chủ , vậy thì Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng không có Dân chủ. Ce qu’il fallait démontrer. CQFD.
Quan
niệm và từ ngữ Khoa học Chánh trị của Việt Nam ngày nay đã đi vượt thời
gian và không gian, ngay đến cả chúng ta, tuy là những người gốc Việt,
đọc sõi việt ngữ, vẫn không hiểu hết chiều sâu đầy triết lý lòng vòng của những quan niệm khoa học chánh trị Cộng sản.
3. Sự tương khắc giữa những Nhơn quyền (cá nhơn) và những Luật lệ Nhà nước (cộng đồng)
Xã hội là một tổ chức lấy Cá nhơn con người làm trung tâm. Luật Pháp là một tổ chức lấy cộng đồng làm trọng điểm.
Hai quan niệm ấy có bề mâu thuẩn với nhau chăng? Như vậy Nhơn quyền và Luật lệ Nhà nước có nhiều xung khắc. Từ ngàn xưa, Luật lệ Nhà nước
đã được phát xuất ra ngay từ những thời quân chủ thạnh hành, thế kỷ thứ
XVI, thế kỷ thứ XVII để bảo đảm những thành tựu về nền Độc lập, về Chủ
quyền của đất đai mình, và hệ thống hóa những liên hệ giữa nhà cầm quyền
và công dân. Nhơn quyền trái lại sanh sau đẻ muộn vào
thế kỷ thứ XVIII, được nhìn nhận như những quyền tự nhiên và bất khả
kháng của con người (công dân) đối với Nhà nước cầm quyền, và được công
bố qua những Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền của thế kỷ thứ XVIII.
Nhưng sự tương khắc ấy không phải lúc nào cũng có, vì Nhân quyền chỉ được tôn trọng khi các Quốc gia cam kết bảo đảm sự tôn trọng. Đó là chủ trương của các Quốc gia có nền Pháp trị, hay các quốc gia có nền Cộng hòa Trọng Hiến.
Vì thế khi được đặt một câu hỏi về Nhơn quyền và Nhà nước, nhà Triết học Emmanuel Kant (sanh năm 1724 Königsberg – mất năm 1804 Königsberg) của thời đại Ánh Sáng (époque des Lumières) đã không ngần ngại trả lời rằng chỉ có một cách hòa giải Nhơn quyền với Luật Nhà nước là phải có một nền cộng hòa toàn diện (république universelle) và một nền hòa bình vĩnh cửu (une paix perpétuelle).
Nhưng
còn về phần những liên quan (ngoại giao) chánh trị giữa các Quốc gia
với nhau ? Đế quốc, độc tài, đảng trị, dân chủ ? Muốn có hòa bình, muốn
có hòa giải, hai rào cản phải được né tránh: một là phương thức ngoại
giao chánh trị úp úp mở mở, đu giây giữa sự khủng bố và sự tránh chấp
biểu diển sứ mạnh của các Quốc gia có Pháp trị và những Quốc gia độc
tài. Hai, sử dụng lòng nhân đạo, bác ái vô biên của quần chúng (Đạo
Đức). Nhưng chưa đủ, nếu chỉ biết tố cáo các Quốc gia Pháp trị không làm
tròn phận sự ngăn cản những sự xâm phạm Nhơn quyền của các quốc gia độc
tài. Giữa giải pháp quá thực tế của “real politics” và cái nhìn quá lý tưởng của Đạo đức, một con đường trung dung có thể có chổ đứng, đó là con đường của quyền Xen lấn Nhân đạo, kêu gọi giải trừ, Xâm phạm chủ quyền vì nhơn đạo (ingérence humanitaire) và các Tòa Án quốc tế .
4. Riêng Đối Với Việt Nam
Con đường Xâm phạm Chủ quyền vì Nhơn đạo PHẢI là những chương trình giúp đở ĐỂ người Dân Việt Nam kết lực tạo quyền ! Nhưng không giúp đỡ, a tòng với nhà cầm quyền Việt Nam, nếu những điều kiện Nhơn quyền dành cho con người vẫn còn khiếm khuyết, bị chà đạp.
Cũng đừng quên nhắc nhở cho các nhà lãnh đạo Việt Nam nhứt là những Đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam là họ vẫn là những người nhận trách nhiệm
về những tội ác do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra từ 70 năm nay :
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc từ 1949 đến 1956, Thảm sát Tết Mậu Thân
Huế 1968, Cải tạo thương nghiệp và Chế độ lao tù tập thể và cưỡng bách
lao động dành cho các quân cán chánh và gia đình của chánh quyền miền
Nam sau ngày 30 thánh Tư 1975.
Tòa Án Quốc tế có thể được thành lập để xét xử họ, như đã từng xét xử những bị can quốc tế dã man vô nhân đạo khác trên thế giới.
Cũng vì những định nghĩa chánh trị và khoa học chánh trị ấy, chúng ta nên định nghĩa rõ ràng :
Việt Kiều Và Người Việt Tỵ Nạn :
Người tỵ nạn Cộng sản gốc Việt Nam không phải là Việt Kiều !
Vì khi đã apatride rồi, chúng ta không còn quốc tịch Việt Nam Cộng Sản nữa. Chúng ta là người Việt ! Chúng ta không phải là công dân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Từ Việt Kiều (les ressortissants vietnamiens)
CHỈ dùng để gọi những người có quốc tịch của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, với Thông hành (Hộ Chiếu) CộngHòaXHCN Việt Nam đang xuất ngoại
hay tạm cư nước ngoài.
Tóm
lại, nước Việt Nam (CHXHCN Việt Nam) ngày nay, với một cộng đồng công
dân trong nước đầy bất mãn nhưng bị bịt miệng, bó tay. Và với một Nhà nước chẳng những công an trị mà còn dùng cả những đòn côn đồ trị, chúng ta phải nhận rõ rằng:
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Là Một Nhà Nước Côn Đồ !
Vì là một Nhà nước côn đồ nên chúng ta từ nay cũng không ngạc nhiên khì có những sự việc vô nhơn đạo, vô luật lệ, vô pháp lý, …
xảy ra, vì vậy vũ khí đấu tranh Nhơn quyền nay vô hiệu. Nên, chúng ta
từ nay, hãy ráng không thèm để ý đến những hành động của Nhà nước ấy. Bỏ
đi, những … nào đi đêm với Mỹ, nào đi đêm với Tàu, nào Ông Phúc Madzề
đi Tây, ông Bình Minh đi Đức, nào Ông Trọng đi Tàu… Chúng ta từ nay, nên chỉ chú trọng để ý đến nạn nhơn là nhơn dân Việt Nam thôi.
Ta cũng không nên đối thoại với Nhà nước côn đồ ấy,
cũng không thèm ký một thư phản kháng gởi đến Nhà nước ấy… như lúc xưa
thường làm…Từ nay không tỏ thái độ chần chừ nữa, cũng không thèm nói …
bất mãn …hay nêu phản đối gì cả ! Vì nói, nêu … đều là đối thoại !
Chúng ta chỉ có một con đường đấu tranh duy nhứt. Bằng mọi giá đấu tranh để thay đổi chế độ, đấu tranh để Nhà đương quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam phải xuống. Chúng ta phải đứng vế phía nạn nhơn ? Nạn nhơn là người dân. Và người dân là quan trọng !
Phải tố cáo trước dư luận quốc tế mọi hành vi bất nhơn của Nhà nước côn đồ.
Vận động thế giới hãy tẩy chay không chơi với Việt Cộng nữa. Dẹp hết
mọi liên lạc với Nhà nước côn đồ. Không buôn bán gì, mua bán gì cả. Đòi
cho được Dân Chủ, Đa Nguyên, Đa Đảng.
Kết Luận
Với Cộng sản còn cầm quyền, việc đòi hỏi, đấu tranh cho Nhơn quyền hoàn toàn vô hiệu. Cả vấn đề mất nước mất biển mất hải đảo hiện nay cũng chỉ có thể giải quyết được khi nào Việt Nam không còn chế độ Cộng sản nữa.
Chỉ
có một Việt Nam Tử Tế, Dân Chủ Văn minh, Tự do Nhơn bản và Dân bản mới
cùng toàn thể thế giới văn minh láng giềng ASEAN, Úc Châu, Tân Tây Lan,
Mỹ, Nhựt Bổn, Đài Loan mới có thể đối đầu nói chuyện được với Nhà nước
côn đồ, ducôn Trung Cộng.
Biển
Đông Việt Nam muốn lặng, muốn ổn định, là do ý chí và quyết tâm của tất
cả các quốc gia có quyền lợi trên Biển Đông và Thái Binh Dương chận
đứng âm mưu bành trướng bá quyền của Trung Cộng.
Hãy từ nay, vận động các bạn hữu quốc tế đặt định nghĩa « Quốc gia Côn đồ »
cho Cộng hòa Xã hôi chủ nghĩa Việt Nam ! Cũng như với Lybie, cũng như
với Syrie. Thế giới phải có thái độ rõ ràng. Ngày nay thế giới không thể
có thái độ lẫn lộn trắng đen, như những người Tây thường nói « không
nên lẫn lộn những khăn tay với những giẻ rách ». Nhơn dân Việt Nam cũng
vậy !
Hãy tiếp tục những xuống đường chống Tàu Cộng xâm lược nhưng phải nhứt định «không ủng hộ Nhà nước Việt Cộng côn đồ !».
Hãy chỉ mặt rõ Nhà nước Việt Cộng bán nước. !
Hãy chỉ mặt rõ Đảng Cộng sản Hán ngụy bán nước !
Hồi Nhơn Sơn Tất Niên Bính Thân
TS Phan Văn Song
Ý Niệm Về Sự Trị Vì Của Luật Pháp (The Rule Of Law) Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa
18:49
Hoàng Phong Nhã
No comments
… as in absolute governments, the King is law, so in free countries the law ought to be the king; and there ought be no other. (…
vì trong các chính quyền chuyên độc, Vua là luật, vậy thì trong các
quốc gia tự do, luật phải là Vua; và không nên có gì khác nữa)
1. Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Ý Niệm Luật Trị
(0 – 1.0) (trên 113)
1.Hạn chế đối với quyền lực của chính quyền 0, 49 81
2.Không nhũng lạm 0, 45 67
3.Chính quyền cởi mở 0, 43 92
4.Các quyền căn bản 0, 54 68
5.Trật tự và an ninh 0, 79 35
6.Sư cưỡng hành luật lệ 0, 43 91
7.Công lý dân sự 0, 47 80
8.Công lý hình sự 0, 50 51
Thomas Paine (Commense Sense, Jan. 1776)
… men have a duty to obey the law but have the right to follow their consciences when it conflicts with that duty (…con người có bổn phận tuân theo luật pháp nhưng cũng có quyền làm theo lương tâm mình khi luật pháp xung đột với bổn phận đó)
Ronald Dworkin (Taking Rights Seriously, 1970)
Từ
khi Liên Bang Xô Viết tan rã và hình thành những quốc gia độc lập và
bắt đầu xây dựng nền dân chủ non trẻ, đồng thời thế giới càng ngày càng
tiến xa trên đường toàn cầu hoá, thì ý niệm về sự trị vì của luật pháp
càng ngày càng được phổ biến. Các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các
ứng cử viên vào các chức vụ cấp quốc gia cũng như địa phương tại các
quốc gia dân chủ, cũng như độc tài đều đề cập đến ý niệm này một cách
say sưa nồng nhiệt. Mọi người xem đó là viên thuốc trị bá bệnh giúp ổn
định trật tự xã hội, xây dựng dân chủ, tôn trọng nhân quyền, phát triển
kinh tế, cải thiện guồng máy công quyền nói chung, và hành chánh nói
riêng vv. Tại Hoa Kỳ, khi vận động tranh cử Donald Trump, ứng cử viên
chức vụ tổng thống của đảng Cộng Hòa không ngừng hô hào “luật pháp và
trật tự” (law and order); ứng cử viên không thành công Clinton của đảng
Dân Chủ và Tổng Thống Obama cũng lần lượt nói đến “sự trị vì của luật
pháp” (the rule of law) trong bài diễn văn liền sau khi cuộc bầu cử kết
thúc.
Trong
hơn thập niên vừa qua, các cơ quan kinh tế, luật pháp thuộc Liên Hiệp
Quốc đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu, huấn luyện cho các quốc
gia giao thời nói trên, cũng như cho các quốc gia đang phát triển. Hoa
Kỳ, Canada, Liên Âu v.v. cũng dành không ít ngân quỹ và nhân sự để giúp
cho việc cải tổ pháp luật, truyền bá và rao giảng “sự trị vì của pháp
luật” ở các nước vừa nói, hy vọng rằng khi “nguyên tắc” này được tôn
trọng, hay “lý tưởng” này được tiến gần, thì mọi sự tốt đẹp sẽ đến từng
các quốc gia, cũng như cho toàn thế giới.
Về Thuật Ngữ Tiếng Việt
Trong
bài viết này, thuật ngữ “sự trị vì của luật pháp” được dịch theo nguyên
ngữ tiếng Anh “the rule of law”. Nó có thể hiểu một cách đơn giản là
trong việc cai trị đất nước, luật pháp đứng trên hết, trên cả vua (nếu
đó là vương quốc), nhà nước, các đảng phái chính trị và dân chúng. Nói
cách khác, mọi người thuộc mọi tầng lớp trong nước đều là đối tượng bình
đẳng trước luật pháp. Chính vì vậy mà “sự trị vì của luật pháp” còn
được gọi là “tính thượng đẳng của luật pháp” (the supremacy of the
law). Chúng tôi chọn cách dịch sát nghĩa, nhưng không ngắn gọn này, vì
nó dễ hiểu và hy vọng sẽ tránh được sự hiểu lầm cho một người đọc vốn
quen với một số thuật ngữ thông dụng hiện nay, chẳng hạn “pháp trị”,
“pháp quyền”. Hơn nữa, nguồn gốc của thuật ngữ này là từ tiếng Anh,
chứ không phải từ tiếng Pháp, tiếng Hoa, hay tiếng nước khác được dịch
sang tiếng Anh. Theo từ điển The Oxford Encyclopedic English Dictionary,
1996, trang 1262, thì trong thuật ngữ này, “rule” có nghĩa là
government (cai trị) hay dominion (chế ngự); do đó chúng tôi đề nghị
dịch là “sự trị vì” để nói lên tính thượng đẳng của luật pháp; hơn nữa
trong lịch sử Anh quốc, có lúc luật pháp đã thật sự đứng trên vua. (sẽ
đề cập trong bài).
Để cho ngắn gọn trong sự trình bày, chúng tôi còn dịch “rule of law” thành “luật trị”, tức sự trị vì/ sự cai trị của luật pháp, để đối chiếu với đảng trị, gia đình trị
mà người ta thường nghe và hiểu rõ nội dung. Theo cách dùng chữ này,
thì “luật trị” có ý nghĩa khác biệt với “pháp trị” và “pháp quyền” như
sẽ được đề cập phần sau. Nhưng ngay từ đây, xin đừng hiểu “luật trị” là
cai trị bằng luật pháp. Nói cách khác, trong phần còn lại của bài viết 2
nhóm từ “sự trị vì của luật pháp” và “luật trị” được dùng thay thế cho
nhau. Cũng cần nói thêm là trong thời kỳ chuyển tiếp, nhiều chế độ “cai
trị bằng chính sách” trong khi chưa có đủ luật lệ mới để điều hành guồng
máy nhà nước — Việt Nam sau 1975 là một thí dụ. Đối với một xã hội văn
minh, tình thế này không thể tồn tại trong một thời gian dài.
Khoảng
9-10 năm trước đây, khi bản dự thảo hiến pháp (về sau thành Hiến Pháp
2013) của Việt Nam Cộng Sản được đưa ra thảo luận trong nước, đã có sự
tranh luận về việc dùng thuật ngữ “pháp trị” hay “pháp quyền” để dịch
thuật ngữ tiếng Anh “the Rule of Law”. Nhóm chủ trương dùng chữ “pháp
trị” giải thích “pháp trị” là dùng pháp luật nghiêm khắt để cai trị, một
chủ trương của nhóm pháp gia thời xa xưa bên Trung Hoa, mà tiêu biểu là
Công Tôn Ưởng thời Đông Chu Liệt Quốc. Đối nghịch với trường phái “pháp
trị” này là trường phái “nhân trị”, tức dùng lòng nhân để mà cai trị.
Với ý nghĩa đó, “nhân trị” còn được coi như là đức trị (rule of
virtues). Trước năm 1975, các sinh viên năm thứ nhất của Đại Học Luật
Khoa và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đều được học bài học nhập môn này;
do đó, khi ra trường và hòa mình vào xã hội có luật pháp kỷ cương, chẳng
mấy ai dám liều lĩnh, quên “nguyên tắc thượng tôn luật pháp”, vì biết
rằng luật pháp sẽ chẳng tha nếu mình vi phạm.
Nhóm
chủ trương sử dụng chữ mới “pháp quyền” khẳng định “pháp quyền” là
“rule of law”, nhưng khi đọc bản dịch, thì người ta không còn thấy dấu
vết của “rule of law” ở đâu nữa. Thật vậy, Điều 2, khoản 1 tiếng Việt
là:
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Trong
các bản dịch sang tiếng Anh này, giống hệt nhau trên mạng khiến người
viết nghĩ là chỉ từ một bản dịch “chính thức” của nhà nước, Điều 2 khoản
1 trên đây được dịch như sau:
The Socialist Republic of Vietnam is a socialist state ruled by law and of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới].
Nếu
hiểu “nhà nước pháp quyền” là nhà nước chịu sự chi phối cuả luật pháp
theo lối viết tiếng Anh này, thì người viết thiết nghĩ dịch như sau có
thể gọn gàng hơn:
The Socialist Republic of Vietnam is a law-ruled (or (or a law-governed) sate of the People, by the People and for the People.
Cũng
cần nhớ lại là 2 chữ “pháp quyền” này mới được ghi thêm vào Hiến Pháp
2013, chứ không có trong các hiến pháp trước đó. Từ câu tiếng Anh này,
người đọc có thể hiểu pháp quyền có nghĩa là cai trị bằng /bởi luật
pháp; và cả câu sẽ có nghĩa nôm na như sau: Nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa [thừa] được cai trị
bằng luật pháp, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhưng theo
Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Chánh Án Tòa Án Nhân
Dân Tối Cao trong bài Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta trên Tạp Chí Cộng Sản Thứ Hai 14/11/2007, thì “Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng
vv.” [Người viết cho in nghiêng]. Người viết nghĩ với học vị và chức
vụ của ông, ý kiến của TS Hiệu phản ảnh trung thực ý muốn của những
người soạn thảo Hiến Pháp. Điều đó có nghĩa là “nhà nước pháp quyền” là
nhà nước trọng nguyên tắc sự trị vì của luật pháp, do đó dịch sang tiếng
Anh “rule of law state” như bản dịch “không chính thức” (unofficial)
dưới đây của International Institute for Democracy and Electoral
Assistance (viết tắt International IDEA) là chuẩn vì vẫn giữ được cái
lõi “rule of law” quen thuộc trong ngôn ngữ của giới nghiên cứu chính
trị và luật pháp nước ngoài:
The Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule of law state of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới]
Tuy nhiên, chữ “state” có nhiều nghĩa trong đó có 2 nghĩa đáng lẽ không nên lẫn lộn: nước (quốc gia), và nhà nước (tổ
chức chính quyền của nước đó). Do đó, người viết thiết nghĩ Khoản 1
bản tiếng Việt có thể dịch gọn (không luộm thuộm như trong bản dịch phía
Việt Nam và rõ nghĩa hơn so với trong bản dịch “không chính thức” của
International IDEA), như đề nghị dưới đây:
The
State of the Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule-of-law
state of the People, by the People and for the People. (có thể không cần
hai dấu gạch nối, như International IDEA)
Thật
ra “sự trị vì của luật pháp” tuy đã có một lịch sử lâu dài, nhưng vẫn
chưa được định nghĩa rõ ràng. Theo người viết, dù chỉ là một ý niệm chưa
được định nghĩa rõ ràng, hay một lý tưởng muốn theo đuổi, nếu nay được
đưa vào hiến pháp thì e rằng nó sẽ khiến Hiến Pháp trở thành quá tải!
Hay nói đúng hơn là Hiến Pháp quá ôm đồm và tạo thêm mơ hồ khi nó phải
gánh thêm ý niệm “sự trị vì của luật pháp”, ngoài cái lý tưởng “chủ
nghĩa xã hội” mà đến nay vẫn chưa được định nghĩa cụ thể. Lý tưởng luật
trị, cũng như các lý tưỏng chính trị khác như xã hội dân sự, dân chủ,
nhân quyền, tự do cá nhân v.v. đã được làm sống lại và hiện đại hóa
trong thời đại toàn cầu hiện nay, nhất là từ sau khi chủ nghĩa cộng sản
không còn đất đứng như trước đây.
Bài viết này đề cập đến các phần sau đây:
– Sơ lược về sự phát triển của ý niệm luật trị
– Vài quan điểm kinh điển về luật trị
– Luật trị trong thời đại toàn cầu hóa
– Đo lưòng nguyên tắc luật trị
Trong
lịch sử Tây phương, ý niệm luật trị phát triển từ Hy Lạp, chậm nhất
cũng từ thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch. Thời đó, Hy Lạp có một nền dân chủ
đại chúng. Trong lĩnh vực xử kiên, các nam công dân thành Athens (trừ nô
lệ) từ 30 tuổi trở lên lần lượt được cử làm phán quan để xử kiện. Các
phán quan này phải căn cứ theo luật pháp để phán quyết, ai vi phạm luật
pháp hiện hành sẽ bị nghiêm trị. Triết gia Socrates đã bị đưa ra
xét xử vì ông chế nhạo các vị thần mà dân thành Athens thờ phượng, là
thầy của một người học trò theo giặc (thành Sparta), cũng là bạn của một
nhóm chống đối chính quyền đương thời. Socrates có thể trốn thoát ngục
tù với sự giúp đỡ của một môn đệ, nhưng ông từ chối. Ông cho rằng bỏ
trốn tức là phủ nhận và do đó làm tổn thương thành Athens, cũng như thủ
tục tố tụng của nó. Theo ông, luật pháp của thành Athens không có trách
nhiệm đối với cái án tử hình ông mang, mà chính những kẻ kết án ông, do
thiên lệch, mới là những kẻ có tội. (Philosophy: History and Readings, S. E. Stumpf & J. Fieser, 8th ed, trang 40)
Một môn đệ khác của Socrates là Plato
đồng ý là chính quyền phải dựa vào luật pháp. Theo ông, khi luật pháp
là đối tượng của một quyền lực khác, mà không phải là của chính mình,
thì nhà nước sẽ sụp đổ; nhưng nếu luật pháp là chủ nhân ông của chính
quyền, và chính quyền là đầy tớ, thì tình thế sẽ đầy hứa hẹn và người ta
sẽ hưởng ân sủng của các thần linh gieo rắc. Ông còn cho rằng luật pháp
phản ảnh trật tự thiêng liêng, phù hợp với điều Thiện; nếu trái lại,
thì đó chỉ là luật giả (bogus law, tiếng lóng gọi là “luật dõm”). (On The Rule of Law, Brian Z Tamanaha, trang 9)
Aristotle,
một môn đệ uyên bác của Plato, khẳng định rằng luật pháp cai trị thì
tốt hơn là người cai trị. Và ông chủ trương những người phụ trách về
luật pháp cũng phải tuân theo luật. Do đó mà nhiều người cho rằng chính
Aristotle là người đầu tiên đưa ra ý niệm mà cách dịch hiện đại sang
tiếng Anh là “rule of law”, mặc dù câu viết của ông được dịch sát sẽ như
sau: “It is better for the law to rule than one of the citizens and so
even the guardians of the laws are obeying the law.” (Luật pháp trị vì
thì tốt hơn là một trong những công dân trị vì, thế nên ngay cả những
người phụ trách luật cũng tuân theo luật.) Cũng từ đó, nhiều người cho
rằng Aristotle đối kháng “rule of law” với “rule of men” (The Rule of Law,
Tom Bingham, trang 3). Ở đây, cũng cần lưu ý là nếu dịch “rule of men”
là “nhân trị”, thì lại gây thêm rối rắm! Vì viết theo chữ quốc ngữ, nhân
là người mà cũng có thể hiểu là lòng nhân.
Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về luật trị (rule of law) đều cho rằng luật gia người Anh, A.V. Dicey, tác giả quyển Introduction to the Study of the Constitution,
nền tảng cho việc nghiên cứu về luật trị, xuất bản năm 1886 (sẽ bàn
thêm ở phần dưới), là cha đẻ của thuật ngữ này. Nhưng theo 2 tác giả
hiệu đính Pietro Costa và Danil Zolo trong tác phẩm The Rule of Law: History, Theory and Criticism in năm 2007, thì Dicey đã viết rằng luật gia William Edward Hearn
giới thiệu thuật ngữ này năm 1867. Người viết đọc Dicey thì không tìm
ra xác minh đó. Tuy nhiên, khi đọc William Ed. Hearn lý luận về căn cứ
quyết định của các quan tòa, (trong quyển The Theory of Legal Duties and Rights: An Introduction to Analytical Jurisprudence, xuất bản lần đầu vào năm 1883) người viết thấy một đoạn như sau đây:
The policy of this rule is the urgent need of certainty in law. “It is generally more important, said Lord Cottenham, that the rule of law should be settled than that it should be theoretically correct.” [người viết cho in nghiêng]
Lord Cottenham
tên thật là Charles Christopher Pepeys (1781-1851) là một luật gia và
chính trị gia nước Anh, từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đó
Solicitor General). Tuy nhiên, theo Wikipedia, thì trước đó, Samuel Rutherford (1600-1666), một nhà thần học đã dùng thuật ngữ này trong tác phẩm Lex, Rex (The Law of the Prince), xuất bản năm 1644.
Đến đây, về phương diện nguồn gốc, chúng ta có thể tạm xem Samuel Rutherford là cha đẻ của thuật ngữ “rule of law”.
Trước Samuel Rutherford trên 400 năm, quan điểm luật pháp đứng trên tất cả đã được long trọng ghi vào bản tuyên ngôn Magna Carta
bằng tiếng Latin, ra đời năm 1215 sau sự thắng thế của giới quý tộc Anh
đối với vua King John. Theo tinh thần của bản tuyên ngôn này, thì không
ai sẽ bị bắt giữ, bị cầm tù, bị tước đoạt quyền hay tài sản, bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật, bị lưu đày, hay bị áp chế bằng vũ lực v.v. trừ phi
được xét xử công bằng và theo luật.
Mặc
dù về sau, Hoàng Gia Anh cũng như Giáo Hội La Mã lấy lại quyền lực của
mình, nhưng tinh thần tuyên ngôn Magna Carta vẫn bàng bạc trong dân
chúng. Mãi đến hơn 500 năm sau, tuyên ngôn Magna Carta mới thực sự hồi
sinh. Thực vậy, sang Thời Đại Bừng Sáng (the Enlightenment) thế kỷ 18,
tính chính đáng/chính danh (legitimacy) của vương quyền cũng như của
Giáo Hội La Mã bị thử thách mạnh mẽ. Các nhà triết gia chính trị như
John Loke, J.J. Rousseau viện dẫn lý lẽ, luật thiên nhiên, cũng như sự
đồng thuận của nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực nhà nước và nghĩa
vụ chính trị của công dân. Năm 1770, William Pitt the Elder, một nghị
sĩ của Viện Quý Tộc (The House of Lords), một người rất có cảm tình với
các thuộc địa Mỹ Châu, gọi tuyên ngôn này là “Thánh Kinh của Hiến Pháp
nước Anh” (the Bible of the English Constitution.” Thật ra nước Anh
không có một “Bản Hiến Pháp” như chúng ta thường thấy ở những quốc gia
khác; mà Hiến Pháp của Anh chỉ là tập hợp những bộ luật, những nguyên
tắc, và Magna Carta vẫn còn duy trì trong Satute Book cho đến khi luật
cải cách the Law of Reform Act ra đời năm 1863. Được mang sang các thuộc
địa châu Mỹ, Magna Carta ảnh hưởng không ít đến Hiến Pháp Hoa Kỳ và
luật lệ của hầu hết các tiểu bang. (Theo 1215 The Year of Magna Carta,
do Danny Danziger & John Gillingham, nxb Touchstone, 2003, trang
267-268) . Trước khi trở thành tổng thống thứ hai (1797-1801) của Hoa
Kỳ, và khi chưa tin tưởng Hoa Kỳ sẽ độc lập khỏi Anh, John Adam trong
một bài viết đăng trên tờ Massachusetts Gazettes ra ngày 6 Feb. 1775 đã
viết: “Họ [Aristote, Livy, và Harrington] định nghĩa một nền cộng hòa là
sự trị vì của các luật, chứ không phải của con người. Nếu định
nghĩa này đúng, thì hiến pháp nưóc Anh, là một thể chế cộng hòa, không
hơn không kém, trong đó nhà vua là vị phán quan thứ nhất.” (They define a
republic to be government of law, and not of men. If this
definition be just, the British constitution is nothing more or less
than a republic, in which the king is first magistrate.) Tiếp theo, ông
bàn về sự truyền ngôi báu trong hoàng gia và các hoạt động của quốc hội
Anh, để lập luận rằng vì các thuộc địa trên thực tế không thể có đại
diện tại nước Anh, cho nên các thuộc địa phải có đại diện tại bộ phận
lập pháp tại vùng đất mới này; bằng không thì nước Anh sẽ mất các thuộc
địa. [“John Adams: The Rule of Law and the Rule of Men”, trong The Annals of America, Vol. 2, trang 308-310]
Muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của ý niệm luật trị, quý độc giả có thể nghiên cứu thêm tác phẩm The Rule of Law của Tom Bingham (2010) nói trên, hoặc tác phẩm On The Rule of Law: History, Politics, Theory của Brian Z. Tamanaha (2014).
Ở
đây cũng xin nói thêm về khái niệm luật trị trong hệ thống pháp luật
của nước Pháp. Theo Danilo Zolo, một trong 2 người hiệu đính quyển The Rule of Law
nói trên, thì lý thuyết về “nhà nước pháp quyền” (l’État de droit,
thường được dịch sang tiếng Anh là “law-ruled state”) được hình thành
khá trể, do Raimond Carré de Malberg vào thời Đệ Tam Cộng Hòa, chịu ảnh
hưởng phần lớn ý niệm Rechtsstaat của Đức (được sử dụng đầu
tiên vào thập niên 1830, coi tự do cá nhân là mục tiêu chính của các
hoạt động của nhà nước). Theo ông, sự bảo vệ các quyền tự do cá nhân
chống lại sự tùy tiện của nhà nước là mục tiêu chính của nhà nước pháp
quyền. Để đạt mục tiêu này, nhà nước pháp quyền phải tự hạn chế thẩm
quyền của mình bằng cách tuân theo những qui định có giá trị chung cho
xã hội và cho từng cá nhân. Ông cũng đề nghị xét lại thẩm quyền của
Quốc Hội (Đệ Tam CH), và chủ trương thẩm quyền của nó cũng như tất cả
thẩm quyền của các định chế khác phải tôn trọng tinh thần luật trị.
Cũng theo ông, nhà nước hợp pháp (État légal) chưa nhất thiết là nhà
nước pháp quyền đúng nghĩa. Một nhà nước pháp quyền còn phải cung ứng
cho các cá nhân những phương tiện hợp pháp để chống lại ý chí của cơ
quan lập pháp mỗi khi cơ quan này vi phạm những quyền cơ bản của nhân
dân. (trang 13-15)
Ngoài l’État de droit, tùy theo trường hợp, người Pháp còn dùng các nhóm từ khác như la primauté de la loi, hay l’autorité de la loi v.v. để chỉ ý niệm luật trị.
2. Vài Quan Điểm Về Ý Niệm Luật Trị
Như
được đề cập ở phần trên, luật trị là một ý niệm chưa có một nội dung
được mọi người đồng ý. Tuy nhiên, nó đã được nghiên cứu khá nhiều.
Dưới đây, xin trình bày ngắn gọn một vài công trình nghiên cứu được coi
như kinh điển và làm nền móng cho nhiều nghiên cứu sau đó.
Trước hết phải kể đến Albert V. Dicey (1835-1922). Trong tác phẩm đề cập ở trên, ông chủ trương luật trị bao gồm 3 yếu tố sau đây:
(1)
Không ai bị trừng phạt hay chịu thiệt thòi về thân thể hay của cải,
trừ phi vi luật và được xét xử theo thủ tục bình thường trước tòa;
(2) Không ai đứng trên luật pháp, mọi người đều bình đẳng trước tòa;
(3) Các quyết định ảnh hưởng đến tự do cá nhân bắt nguồn từ hiến pháp, hay các định chế mà các quan tòa phải hành xử.
Điều
quan trọng ở điểm (3) này là Dicey tin tưởng vào các cơ chế và tổ chức
đã bàng bạc hay ăn sâu trong lòng dân chúng –tức dân Anh– hơn là các bản
hiến pháp thành văn hay bản tuyên bố của các nước khác. Nhận định này
của ông bị nhiều nhà nghiên cứu công kích, với lý do là nếu chưa có được
một truyền thống như nước Anh, thì sẽ lấy gì làm khởi điểm để từ đó
nuôi dưỡng và phát huy tinh thần tôn trọng nguyên tắc luật trị? Đây là
trường hợp của Hoa Kỳ, nơi mà tiến trình học hỏi qua những khuyết điểm
hay thất bại (learning curve) giúp quốc gia này củng cố và phát triển
trên nhiều lãnh vực, trong đó có sự tôn trọng luật pháp và các quyền tự
do. Ngoài ra, quan điểm của Dicey đã trở nên quá giản dị trong thời đại
hiện nay, khi mà lập pháp phải đương đầu với nhiều vấn đề hơn, và bộ máy
hành pháp và hành chánh thừa hành phải thi hành –kịp thời, chi tiết,
chính xác –nhiều điều luật liên quan đến kỷ thuật tân tiến và mối liên
lập phức tạp với thế giới bên ngoài mà các nhà lập pháp không tiên liệu
được khi thông qua các bộ luật.
Lon L. Fuller (1902-1978), một giáo sư luật nổi danh của Harvard University, trong quyển The Morality of Law,
xuất bản năm 1969, chủ trương rằng căn bản tinh thần nội tại của luật
pháp (the internal moral basis of law) phải hội đủ 8 yếu tố sau đây:
(1) luật phải tổng quát (general), không đi vào các trường hợp đặc biệt;
(2) luật phải được công bố (public), nghĩa là dân chúng phải biết trước để liệu bề mà hành động;
(3)
luật phải cho tương lai (prospective), không hồi tố (non-retroactive);
đó là hệ luận của điều (2), tức luật áp dụng phải ban hành trước khi vụ
án xảy ra và sau đó bị đem ra xử;
(4) luật phải đầy đủ, rõ ràng (comprehensive, clear), để người bình thường cũng có thể hiểu;
(5)
luật phải không mâu thuẩn nhau (noncontradictory), có nghĩa là người
chịu sự chi phối của luật lệ chỉ phải theo một điều và không phải theo
điều ngược lại; nếu có sự mâu thuẩn, thì phải có sự hướng dẫn của hệ
thống tư pháp;
(6)
luật có thể thi hành được (possible to perform; able to conform
person’s behavior), nghĩa là không vượt quá khả năng thể chất, trí tuệ,
tài chánh v.v. của công dân;
(7)
luật phải tương đối ổn định (relative stable), tức không thường xuyên
thay đổi đến nỗi người dân không biết đâu mà lường; và
(8) luật phải phù hợp (congruent) với luật lệ hiện hành, tức luật mới không được trái với luật hiện hành.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng 8 yếu tố mà Fuller đưa ra trên đây chỉ là khía cạnh hình thức
(formal aspect) và người ta có thể ban hành một đạo luật hội đủ các
điều kiện hình thức này, nhưng về thực chất nó không bảo đảm được nhân
quyền hay đưa đến kỳ thị. Một số luật gia lại cho rằng, khi ra một luật
mới, những nhà lập pháp luôn luôn muốn bày tỏ hoặc bảo vệ một giá trị,
một mục tiêu nào đó, và các yếu tố mà Fuller đưa ra là nhằm giúp đạt
được giá trị hay mục tiêu đó. Ngày nay, khi guồng máy hành pháp và hành
chánh càng ngày càng cồng kềnh, thì các đòi hỏi nói trên sẽ trở thành
những hướng dẫn hữu hiệu cho các quyết định thi hành luật mới.
Bàn về luật trị, thì không thể không nói đến Friedric von Hayek
(1899-1992), một học giả gốc người Áo, di cư sang Hoa Kỳ năm 1950 và
dạy ở University of Chicago (1950-62). Ông từng được Giải Nobel Kinh Tế
(1974, chia với Gunnar Myrdal), và huy chương Presidential Medal of
Freedom (1991) do Tổng Thống G.H. W. Bush trao tặng. Trong quyển The Road to Serfdom (xb
năm 1944 khi ông sống ở Anh), ông đồng ý nguyên tắc luật trị là hòn đá
tảng của tự do, và đưa ra nhận xét rằng sự bành trướng của bộ máy hành
chánh với tính chất cưỡng bách của nó ảnh hưởng không ít đến nguyên tắc
luật trị vốn được trân quý. Ông lý luận rằng nguyên tắc này bảo vệ cũng
như cổ vũ tự do vì nó giúp cho người dân tiên liệu được hậu quả của
việc làm để từ đó mà định hướng hành động của mình.
Trong một công trình nghiên cứu đồ sộ khác, The Constitution of Liberty
(xb lần đầu năm 1960, và được hiệu đính công phu bởi R. Hamowy, do The
University of Chicago Press xb năm 2011), ông lược xét nguồn gốc, bàn về
ảnh hưởng của nguyên tắc luật trị đối với tự do, đối với chính sách
kinh tế; cùng các mối quan hệ giữa tự do và những vấn đề hiện đại, và
trở thành những đề tài tranh luận nóng bỏng mỗi khi có bầu cử ở Hoa Kỳ
trong mấy chục năm nay, gồm sự vươn lên của nhà nước an lạc (welfare
state), nghiệp đoàn và nhân dụng; an sinh xã hội; thuế khoá và tái phân
lợi tứ; khung tiền tệ; trợ cấp nhà cửa; nông nghiệp; giáo dục v.v.
Hayek
ít bàn về tòa án và các thủ tục pháp lý, mà thay vào đó, triển khai các
yếu tố hình thức như tính tổng quát, sự bình đẳng và tính chắc chắn của
nguyên tắc luật trị. Theo ông, tổng quát có nghĩa là luật phải trừu tượng, áp dụng cho mọi người trong những tình huống đã được mô tả sẵn. Bình đẳng
là áp dụng cho mọi người mà không có sự phân biệt tùy tiện; nếu có thì
phải có sự chấp thuận của đa số, chẳng hạn sự phân biệt nam nữ trong vấn
đề gia nhập quân đội. Tính chắc chắn (certainty) có nghĩa là
nguời ta biết trước được luật sẽ hiệu lực như thế nào đối với hành động
của mình. Ba yếu tố đó giúp con người định hướng được hành động của
mình, muốn làm gì thì làm miễn luật không cấm; không phải lo sợ sự tùy
tiện của nhà cầm quyền cũng như những người cầm cán cân công lý, nghĩa
là nguyên tắc luật trị giúp bảo vệ tự do.
Theo
Tamanhana, “Đối với Hayek, công lý sống bám vào dân luật về quyền sở
hữu, khế ước, và quyền lợi dân sự (torts); và luật hình sự… Công lý là
sự thi hành các luật ban hành trước. Tiêu chuẩn công lý của ông ta thì
trống rỗng về thực chất, vì nó không kéo theo sự đánh giá luân lý nào cả
và không phải thỏa mãn tiêu chuẳn nào khác trừ tiêu chuẩn phổ quát
(universality)” … Công lý của Hayek là sự diễn đạt nguyên tắc luật trị
theo cách khác mà thôi. (Sách đã dẫn, trang 70-71).
Thật
ra, Hayek có đề cập đến một thứ công lý, nhưng chỉ để lập luận chống
lại nó. Ông viết: “Sự đòi hỏi chính quyền phải thực hiện không những
công lý hình thức (formal justice), mà còn công lý thực chất nữa
(substantive justice), tức là công lý phân phối (distributive justice)
hay công lý xã hội (social justice) đã được đẩy mạnh từ cuộc Cách Mạng
Pháp.” Tiếp theo, Hayek trích lời chế nhạo của Anatole France, như
sau:”Sự bình đẳng hoành tráng trước pháp luật cấm cản người giàu và kẻ
nghèo ngủ dưới gầm cầu, đi ăn xin ngoài đường, và ăn cắp bánh mì.”
(Nguyên văn tiếng Pháp ghi ở Chú Thích: của sách: ‘La majestueuse
égalités de lois, qui interdit au riche come au pauvre de coucher sous
les ponts, de mendier dans les rues et de voler du pain’). [The Constitution, trang 342-3]
Hayek
còn cho rằng sự bình đẳng trước pháp luật có thể tự nhiên sẽ đưa tới sự
bình đẳng làm ra luật pháp, và điều sau có thể hủy bỏ đìều trưóc, vì
đây là hai nguyên tắc hoàn toàn khác nhau. Để bài bác cái công lý xã hội
nói trên, ông đưa ra một giả thuyết cực đoan rằng một chính quyền độc
đoán áp chế cử tri phổ thông nhưng bảo vệ nguyên tắc luật trị có thể duy
trì chế độ dân chủ tốt hơn nền dân chủ thích can thiệp vào guồng máy
kinh tế và phân phối xã hội. (Spectrum: From Right to Left in the World of Ideas, do Perry Anderson, Verso xb 2005, tr. 15-16)
Từ
các yếu tố thuộc khía cạnh hình thức của các quan điểm kinh điển trên,
người ta cũng có thể rút ra những hệ luận lý thú. Chẳng hạn, đối với 2
yếu tố không ai được đứng trên luật pháp, và mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, thì người ta suy ra rằng phải có những định chế “đứng
ngoài”, “tách biệt”, tức là phải có một hệ thống tư pháp với tòa án và
các quan tòa độc lập. Hay là từ các yếu tố luật phải tổng quát, phải
được công bố, phải tương đối ổn định, chúng ta thấy được sự cần thiết
của một thứ luật tổng quát hơn, ổn định hơn và phải được soạn thảo và công bố long trọng hơn; đó
là luật hiến pháp, thường được gọi tắt là hiến pháp. Từ yếu tố luật
phải được công bố, người công dân bình thường có quyền suy diễn rằng một
khi đã được công bố, thì phải được áp dụng khi luật bắt đầu có
hiệu lực, vì không áp dụng có nghĩa tiếp tục duy trì những bạc đãi hay
ưu đãi cũ cho một số đối tượng nào đó. Chẳng hạn một quốc gia ban hành
đủ mọi luật cải tiến quyền lợi người khuyết tật, nhưng nhà cầm quyền nấn
ná không áp dụng, tức tiếp tục bạc đãi họ. Hay ban hành luật lệ môi
sinh tiên tiến không kém các nước kỹ nghệ phát triển, nhưng không áp
dụng cho các nhà máy hay cơ xưởng nào đó, nhất là do người ngoại quốc
làm chủ, tức là tiếp tục ưu đãi họ.
3. Luật Trị Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa
Đối
với nhiều người –nhất là ở các nước độc tài — nếu nguyên tắc luật trị
hội đủ những yếu tố mà các tác giả kinh điển đưa ra thì quả là gần đạt
đến lý tưởng rồi. Tuy nhiên, qua một số nhà phê bình, chúng ta lại thấy
lóe ra một khía cạnh khác của nguyên tắc này: đó là khía cạnh thực chất
(substantial aspect). Trong vài thập kỷ nay, cả hai khía cạnh càng ngày
càng được nghiên cứu sâu rộng hơn. Tại Hoa Kỳ, Hiệp Hội Triết Lý Chính
Trị và Luật Pháp (American Society for Political and Legal Philosophy,
ASPLP) đã có 2 hội nghị thường niên về nguyên tắc luật trị. Lần đầu tổ
chức vào tháng Giêng năm 1992 mà kết quả cụ thể là quyển The Rule of Law, xuất bản năm 1994. Lần thứ hai tổ chức vào tháng Giêng năm 2010, với quyển Getting to The Rule of Law ra đời năm 2011.
Viện
Nghiên Cứu Về Việc Quốc Tế Hóa Luật Pháp Hague (The Hague Institue for
the Internationalisation for Law, HiiL) cũng đã tổ chức 2 hội nghị quốc
tế. Lần đầu năm 2009, cho ra đời quyển Rule of Law Dynamics: In An Era of International and Transitional Governance ra đời năm 2012. Lần sau, năm 2012 với quyển The Rule of Law at National and International Levels xuất bản năm 2016.
Ngoài
ra, còn có hằng chục công trình nghiên cứu khác mà tựa đề thường có
nhóm chữ “The Rule of Law” kèm theo. Nhiều tác phẩm về chính trị, luật
pháp, kinh tế, phát triển, trị quản (governance) xuất bản trong những
năm gần đây hâu như không thiếu những chương hay mục bàn về nguyên tắc
luật trị và ảnh hưởng của nó đối với lãnh vực nghiên cứu liên hệ.
Sau
khi bức tường Berlin sụp đổ, các chính phủ Hoa Kỳ, Canada, Úc, một số
nước trong Liên Âu, cùng nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc đã dồn không
ít công của để cổ vũ, huấn luyện và tổ chức giúp các nước Cộng Sản cũ,
cũng như các nước đang phát triển, cải tiến guồng máy chính trị, hành
chánh, kinh tế dưới ngọn cờ nguyên tắc luật trị.
Dưới đây là một số quan điểm về luật trị qua các nghiên cứu vừa kể.
- Theo Joseph Raz, “Một hệ thống luật pháp không dân chủ dựa trên sự phủ nhận nhân quyền, sự nghèo đói tràn lan, sự phân biệt chủng tộc, sự bất bình đăng về giới tính, và sự thù ghét về tôn giáo, có thể, về nguyên tắc, phù hợp với những đòi hỏi của nguyên tắc luật trị, hơn cả những hệ thống luật pháp của các nền dân chủ tiến bộ Tây phương … Nó sẽ xấu xa khôn lường, nhưng nó sẽ vượt trội về một phương diện: nó phù hợp về hình thức (conform) với nguyên tắc luật trị … Một đạo luật […] có thể hình thành chế độ nô lệ mà vẫn không vi phạm nguyên tắc luật trị.” (The International Rule of Law Movement, hiệu đính bởi David Marshall, do Human Rights Program Harvard Law School xb năm 2014, trang 6). Nói khác đi, nếu chỉ được chuyên chú khía cạnh hình thức thuần túy, thì người ta có thể tước đoạt nội dung của nguyên tắc luật trị.
- Donal Dworkin đề nghị một phương pháp lý luận mới về luật pháp, và gọi đó là một hình thức lý luận luân lý (a form of moral reasoning). Ông cho rằng “Không gì bảo đảm rằng luập pháp chúng ta [Anh Quốc] sẽ công bằng (just). Điều đó không có nghĩa là chúng ta tách rời mối liên hệ giữa luật pháp và luân lý; mà điều đó có nghĩa là chúng ta làm phức tạp thêm sự liên hệ giữa luật pháp và luân lý.” Trong quyển Justice for Hedgehogs, ông cho rằng cái lớn lao của đời người là giá trị, mà nội dung là các câu trả lời cho các câu hỏi như: sự thực là gì, đời sống có ý nghĩa gì, những đòi hỏi về luân lý là những gì, đòi hỏi công lý được định nghĩa ra sao. Theo ông, mỗi người đều có trách nhiệm về cuộc đời quý báu của mình, và có bổn phận tôn trọng những điều kiện mà theo đó những kẻ khác có thể thể hiện trách nhiệm của họ. “Đó là ý nghĩa của ‘uy tín con người’ (human dignity) đối với mình, và nó yểm trợ cả những nguyên tắc về trách nhiệm (the principles of responsibility), vốn rất quan trọng về khía cạnh công bằng mà con người may mắn có, lẫn những nguyên tắc về tương kính (the principles of mutual respect) được đại diện trong nguyên tắc luật trị. (Ronald Dworkin: An Appreciation do Jeremy J. Waldron đọc ngày 6/5/2013 tại London, nhân Lễ Tưỏng Niệm Dworkin). Nói cách khác, uy tín này bao gồm sự tôn trọng chính mình và sự đề phòng việc đối xử tùy tiện của kẻ khác đối với mình; và đó chính là ý nghĩa thực chất của nguyên tắc luật trị. (Getting to The Rule of Law, tr. 53-61).
Quan
điểm của Dworkin quả đã làm sáng tỏ và làm phong phú thêm triết lý
chính trị của luật pháp nói chung, và của nguyên tắc luật trị nói
riêng. Nó cần phải đưọc cổ vũ trong mọi xã hội, và phải được coi là nền
tảng, là bước bắt đầu cho mọi công cuộc cải tổ pháp lý và hành chánh,
nhất là tại những quốc gia mà chính quyền độc tài và toàn trị. Tại các
nước dân chủ, nếu quần chúng không nhận ra được rằng nhà cầm quyền đã
hành xử tùy tiện, thì các tổ chức xã hội dân sự, các luật gia, các nhà
trí thức, thậm chí các công dân bình thường sẽ tức khắc lên tiếng qua
các phương tiện truyền thông, thậm chí phương tiện pháp lý, khiến nhà
cầm quyền phải chùn bước và kiểm điểm lại hành động của mình. Trong khi
đó, tại các nước độc tài, độc đảng, người dân vốn đã được giáo dục nhồi
sọ từ nhỏ rằng lãnh tụ, rằng đảng cầm quyền luôn luôn lãnh đạo tài tình
sáng suốt, không bao giờ sai, cho nên một mặt họ cảm thấy mình bé nhỏ,
ít hiểu biết, do đó “phải” tuân lệnh nhà cầm quyền. Mặt khác, họ còn sợ
hãi vì sự bất tuân hay chống lại dễ dẫn đến sụ trù dập, tù tội v.v.
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước khác, tình
thế này được cải tiến một phần nhờ các phương tiện truyền thông, cũng
như nhờ sự dũng cảm của một số nhà tranh đấu dân chủ, luật sư, bloggers
–những đốm sáng trong các xã hội tăm tối. Mặc dầu một số những người này
đã và đang bị đàn áp, tù đày, nhưng nhờ họ đưa tin và hướng dẫn, mà
người dân bình thường đã bớt mặc cảm thấp bé, cảm thấy tự trọng và cảnh
giác về cách hành xử bất hợp pháp của nhà cầm quyền, không những đối với
mình, mà còn đối với những thành viên khác trong cộng đồng nữa. Đó là
bước đầu tốt cho một xã hội luật trị.
Ronald
Dworkin còn đi xa hơn nữa khi bàn về quyền vi phạm luật pháp. Theo ông,
con người có bổn phận phải tuân theo luật pháp, nhưng đồng thời cũng có
quyền hành động theo lương tâm của mình khi luật pháp xung đột với bổn
phận. Ông chủ trương chính quyền phải có hành động cụ thể chứng tỏ rằng
mình tôn trọng các quyền tự do cá nhân của công dân. Khi chính quyền
không tôn trọng luật pháp, thì những cố gắng nhằm tái lập sự tôn trọng
luật pháp sẽ khó đưa đến kết quả hữu hiệu. (Taking Rights Serioulsly, Contemporary Political Philosophy: An Anthology, 1997, tr. 328-340)
- Nguyên tắc luật trị được chủ trương áp dụng không những trong phạm vi quốc gia, mà còn trong phạm vi quốc tế nữa. Trước năm 2012, theo Liên Hiệp Quốc, một nền luật pháp tôn trọng nhân quyền khi nó tôn trọng nguyên tắc tối thượng của luật pháp, sự bình đẳng trước pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, công bằng trong việc áp dụng, tam quyền phân lập, nhân dân được quyền tham dự vào việc làm ra luật, tính chắc chắn của luật pháp, tránh hành động tùy tiện, minh bạch về thủ tục và pháp lý. (United Nations Secretary General 2004). Nói khác đi, tôn trọng khía cạnh hình thức của nguyên tắc luật trị là đủ bảo đảm nhân quyền.
Tuy
nhiên đến năm 2012 thì quan điểm của LHQ đã thay đổi, chú trọng cả khía
cạnh nội dung. Theo Tuyên Ngôn về Nguyên Tắc Trị Vì Của Luật Pháp của
LHQ (The 2012 Declaration on The Rule of Law), thì giữa các quyền con
người, nguyên tắc luật trị và dân chủ liên kết nhau và hỗ tương củng cố
cho nhau. Louise Arbour, cựu Uỷ Viên Nhân Quyền LHQ (UN High
Commissioner for Human Rights (2012), lý luận như sau về luật trị:
“Nguyên
tắc luật trị chính hiệu là phần thực chất và bao trùm những đòi hỏi về
quyền con người. Nó phản ảnh ý tưởng bình đẳng về thực chất: không phải
chỉ có nghĩa là không ai được đứng trên luật pháp, mà còn có nghĩa là
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và chịu sự chi phối của pháp
luật, và đuợc quyền hưởng sự bảo vệ và các lợi lộc một cách bình
đẳng….Với sự hiểu biết có tính cách thực chất này, luật pháp phải phục
vụ cho một mục tiêu cao hơn là chỉ điều hành đơn thuần và trật tự về
cách cư xử của con người; luật pháp phải tăng tiến tự do, an ninh và
công bằng, và phấn đấu đạt được sự quân bình toàn hảo giữa luật pháp và
công lý.” (The International Rule of Law Movement, trang 7-8)
Vì
LHQ có nhiều bộ phận thi hành, bảo vệ và cổ súy nguyên tắc luật trị,
nên LHQ chia các hoạt động liên hệ đến nguyên tác này thành 3 nhóm sau
đây nhằm mang lại hiệu quả, hiệu năng và trách nhiệm cho các cơ quan
thuộc 3 nhóm đó:
(1)
Luật trị ở mức độ quốc tế, gồm các hoạt động liên hệ đến Hiến Chương
LHQ, các hiệp ước đa phương, các cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc
tế, công lý tội phạm quốc tế, san định và huấn luyện luật quốc tế, v.v.
(2)
Luật trị với nội dung liên hệ đến tình trạng xung đột và hậu xung đột,
gồm các hoạt động liên hệ đến công lý tại các quốc gia chuyển đổi chế
độ; tiến trình tư vấn; các định chế nhân quyền trong nước, v.v.
(3)
Luật trị với nội dung liên hệ đến sự phát triển dài hạn, gồm có các
hoạt động tăng cường các định chế pháp lý và tư pháp; cảnh sát; cải tổ
hình phạt; chống tham nhũng; tội phạm và lậu chuyển xuyên quốc gia; yểm
trợ an ninh; giáo dục về pháp lý, v.v.
Trong
các chương trình đào tạo và huấn luyện về nguyên tắc luật trị tại các
quốc gia hậu Cộng Sản hay các chế độ giao thời khác, các cơ quan thuộc 3
bộ phận kể trên cũng như các quốc gia Liên Âu, Hoa Kỳ, Canada, Úc v.v.
sử dụng một trong 2 phương pháp sau đây:
Phương Pháp Cải Tổ Từ Trên Xuống
(Top-Down Reform), dựa trên các giả định là (1) Nhà nước và các định
chế là trung tâm quyền lực; (2) Các định chế pháp lý và an ninh độc
quyền sử dụng quyền lực; (3) Các định chế phục vụ nhân dân; (4) Luật
pháp chế ngự các hoạt động của nhà nước và trách nhiệm của công dân
(nguyên tắc luật trị).
Chủ
trương cải tổ từ tên xuống bị chỉ trích từ nhiều lý do. Trước hết, một
sự cải tổ sâu rộng như thế sẽ đòi hỏi nhiều công sức, và nhất là phải
mất nhiều năm mới thấy được kết quả. Những người đang làm việc trong cơ
chế sẽ bị biến mất hay cải tổ nhiều, cũng như những công dân hưởng lợi
lộc nhờ cơ chế đó, thường phản đối và bất hợp tác. Kế đến, những chính
trị gia, các quan chức ngành tư pháp và cảnh sát cảm thấy uy tín và
quyền hành bị tước đoạt. Nói một cách tổng quát, người ta sẽ viện dẫn lý
do văn hóa, cũng như sự chưa chuẩn bị về dân trí, chính trị để chống
đối, bất hợp tác, trì hoãn hay chỉ hợp tác chiếu lệ với sự thay đổi mà
những ý niệm, định chế bị họ coi là “áp đặt, “ngoại lai” hoặc cả hai.
Công cuộc cải tổ tại Nga, và một số nước trước đây thuộc Liên Bang Xô
Viết, và một số nước Đông Âu là những cải tổ tương đối không thành công
theo phương pháp này. Cuộc cải tổ tại Iraq sau khi Sadam Hussein bị lật
đật đổ là một trường hợp điển hình.
Phương Pháp Cải Tổ Từ Dưới Lên (Bottom-Up Reform)
Ở
một nước chưa có một nền tảng về nguyên tắc luật trị, hay chưa có một ý
chí chính trị vững chắc cho công cuộc cải tổ, thì làm sao phổ biến
nguyên tác luật trị theo phương pháp “từ trên xuống” khi mà nhân dân
không thể chờ đợi?
Những
người chủ trương phương pháp “từ dưới lên” cho rằng nền tảng căn bản
của nguyên tắc luật trị là các mối liên hệ. Các mối liên hệ quan trọng
nhất ở cấp địa phương là mối liên hệ với nhau giữa cơ quan hành
chánh địa phương, tòa án địa phương, công an cảnh sát địa phương, đại
diện đảng cầm quyền địa phương vv. và đặc biệt là với nhân dân địa phương.
Một điều khoản được long trọng ghi trong hiến pháp, một đạo luật được
quốc hội thông qua, một văn kiện dưới luật được các phủ bộ hay địa
phương ban hành lại được chính quyên địa phương giải thích một cách tùy
thiện, bất nhất và áp dụng khắc nghiệt đối với nhân dân thì họ sẽ nghĩ
ngay rằng những văn kiện này không tôn trọng nguyên tắc luật trị về hình
thức lẫn nội dung. Tuy nhiên, nếu sự thi hành chỉ được nghiêm chỉnh
thực hiện sau khi có sự tham khảo ý kiến rộng rãi giữa các cơ
quan chính quyền với nhau, nhất là với các tổ chức xã hội dân sự, tôn
giáo, và ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân, thì nhân dân mới có thể xem
đấy là nền tảng của nguyên tắc luật trị và từ đó các cải tổ “từ dưới
lên” mới có cơ hội thành công.
- Ngày nay, với sự lan tỏa của hiện tượng toàn cầu
hóa,
qua sự lớn mạnh của các tổ chức trực thuộc Liên Hiệp Quốc, qua sự tăng
gia các tổ chức chính trị kinh tế vùng, qua nhiều hiệp định đa phương,
thì ngay cả tại những quốc gia vốn có một nền tảng pháp lý truyền thống
lâu dài và vững chắc, nguyên tắc luật trị của họ cũng chịu ít nhiều ảnh
hưởng của các nguyên tắc luật trị, về phương diện hình thức lẫn nội
dung, của LHQ và của các nước khác. Ngược lại ý niệm về nguyên tắc luật
trị của họ cũng như của các luật gia cũng ảnh hưởng đến LHQ và các nước
đối tác. Sự ảnh hưởng hổ tương của nguyên tắc luật trị của một quốc gia
và thế giới bên ngoài là điều khó phủ nhận. Tuy nhiên, sự vận dụng
nguyên tắc luật trị được nghiên cứu và đề nghị bởi các cơ quan LHQ và
các học giả nổi tiếng để thay đổi nội dung và hình thức nguyên tắc luật
trị trong nước đã bắt đầu từ nhiều năm nay và tại nhiều quốc gia; nhưng
sự thiết lập nguyên tắc luật trị phổ quát (a universal rule of law) ở
mức độ quốc tế, thì chỉ mới bắt đầu chưa tròn thập kỷ nay.
Tuy
nhiên ảnh hưởng qua lại đó chỉ mới là hình thức. Sự tương tác về nội
dung mới là quan trọng. Trong Phần Giới Thiệu quyển The Rule of Law xb
2016 đã đề cập ở trên, André Nollkaemper giải thích rằng “Quyển sách
được hình thành là vì càng ngày sự chồng lấp lên nhau về nội dung giữa
luật quốc tế và luật quốc gia càng tăng, đã khiến cho có mối tương tác
giữa các định chế quốc tế và quốc gia. Luật quốc tế và các định chế quốc
tế mô tả các tiêu chuẩn liên quan chẳng hạn đến nhân quyền, tội phạm,
thương mại, và đầu tư, tất cả được qui định giống như bởi luật quốc nội.
Sự thi hành các tiêu chuẩn này ở trong nước được xem xét lại bởi các
định chế quốc tế, chẳng hạn như các tòa án về nhân quyền, tòa án hình
sự, tòa hòa giải về đầu tư, và các bộ phận giám sát không có tính cách
xử kiện (trang 5). Tổng Thư Ký LHQ Annan trong phúc trình lên phiên họp
cao cấp của Đại Hội Đồng năm 2012, trước hết đề cập đến “sự tuân thủ”
(compliance) luật quốc tế như là bước đầu để tăng cường nguyên tắc luật
trị quốc tế (international rule of law). Sự giúp sức của các tòa án và
các cơ quan phán xử đặc biệt quốc tế (international courts and
tribunals) cho thấy rõ sự quan trọng của “sự tuân thủ”, được coi là yếu
tố cốt lõi của pháp lý và nguyên tắc luật tri.
Tuy
nhiên, trên thực tế, có không ít quốc gia tranh biện (contest) bằng
cách tránh né, giải thích lại, tái xét, hay bác bỏ luật quốc tế hay qui
định quốc gia thi hành luật quốc tế. Nói cách khác, nguyên tắc luật trị
quốc tế còn đang thời kỳ phôi thai, chưa được lý thuyết hóa chặt chẽ,
chưa thuyết phục được các quốc gia có chủ quyền phải tuân theo. Chúng
ta không quá lạc quan là một ngày gần đây, nó được hoàn toàn tôn trọng;
nhưng với sự phát triển của các tổ chức pháp lý, và sự tương tác giữa
luật pháp quốc nội và luật pháp quốc tế, với sự hợp tác càng ngày càng
tăng về kinh tế, thương mại, y tế, khí hậu v.v., các quốc gia sẽ thấy
lợi hơn nếu tôn trọng nguyên tắc này – dĩ nhiên phải được hiện đại hóa
và được chấp nhận.
- Đo Lường Nguyên Tắc Luật Trị
Như
đã nói, luật trị là một ý niệm trừu tượng, có tính cách qui phạm với
những yếu tố mà các luật gia mong muốn nó có. Từ những yếu tố — đôi khi
mang tên khác nhau –được khá nhiều các luật gia đồng ý rằng nếu hội đủ,
thì nguyên tắc luật trị đáng được coi là mẫu mực. Hiện nay trên thế
giới có khoảng 10 tổ chức hằng năm đưa ra những nghiên cứu của mình về
luật trị. Lâu đời nhất có lẽ là Vera Innstitue of Justice, thành lập 1961 tại Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về tình hình pháp lý tại Hoa Kỳ. Năm 2008, Vera hợp tác với tổ chức World Justice Project
— một sáng kiến của America Bar Association—mới ra đời 2 năm trước đó–
để đưa ra dự án Vera-Altus Indicators Project nhằm bổ sung Rule of Law
Index hiện hành bằng cách thích ứng các tiêu chuẩn pháp lý (de jure standards) với những biện pháp thực tế (de facto
measures), và được sử dụng trong các cuộc thăm dò tại 4 thành phố lớn:
New York City (Mỹ), Santiago (Chile), Lagos (Nigeria) và Chandigarh (Ấn
Độ). Sau đó, Vera hợp tác với Liên Hiệp Quốc (bộ phận duy trì Hoà Bình)
để nghiên cứu nguyên tắc luật định dưới khía cạnh an ninh trật tự tại
Haiti, Liberia và South Sudan, và đưa ra cẩm nang UN-backed Guide for
Rule of Law Indicators mà khi công bố ngày 6/7/2011, Ivan Sinomovic,
Phụ Tá Tổng Thư Ký Đặc Trách Nhân Quyền, đã tuyên bố: “Nguyên tắc luật
trị là điều kiện tiên quyết nhằm đạt được 3 mục tiêu trụ cột lớn của
Liên Hiệp Quốc –hòa bình và an ninh, phát triển và các quyền con người.”
(The Rule of Law is a pre-condition for achieving the three pillars of
the United Nations –peace and security, development and human rights.).
Ngân
Hàng Thế Giới cũng có nghiên cứu về luật trị, nhưng trong khuôn khổ một
đề tài rộng rãi hơn –chúng tôi tạm gọi là trị quản (governance), một
lãnh vực được khai thác mạnh mẽ từ sau cuộc cải tổ hành chánh trên toàn
thế giới khởi sự từ đầu thập niên 1990; bao gồm cai trị trong lãnh vực
công và quản lý trong lãnh vực tư.
Sau
đây, chúng tôi xin đề cập đến vài công bố hằng năm của World Justice
Project. Với sự yểm trợ tài chánh ban đầu năm 2006 của Bill &
Melinda Gates Foundation, hiệp hội các luật gia Mỹ American Bar
Association nói trên, một tổ chức vô vị lợi, còn được sự trợ giúp của
nhiều tổ chức, công ty cũng như cá nhân, bắt đầu nghiên cứu sự thi hành
nguyên tắc luật trị, dưới cái tên World Justice Project (WJP). WJP phân
chia nguyên tắc luật trị ra làm 4 nguyên tắc dưới đây:
- Chính phủ và các viên chức, cơ quan thuộc quyền chịu trách nhiệm trước pháp luật;
- Các đạo luật rõ ràng, được công bố, ổn định và công bằng, và bảo vệ các quyền căn bản, kể cả sự an toàn của con người và tài sản;
- Thủ tục, theo đó các đạo luật được thì hành, quản lý và cưỡng hành, được tiếp cận một cách công bằng và có hiệu năng;
- Các đạo luật được củng cố, và sự tiếp cận công lý được cung ứng bởi các viên chức cưỡng hành, luật sư, hay những người đại diện, những vị quan tòa tất cả đều có đủ khả năng, độc lập, và đạo đức, mà những người này phải đủ số, có nguồn gốc thích hợp, và phản ảnh được đặc trưng của cộng đồng mà họ phục vụ.
Bốn nguyên tắc trên, theo J. Heckman, R. Nelson & L. Cabatingan (Global Perpectives on The Rule of Law, tr.255) ) có thể xếp tương đương với 4 nguyên tắc ngắn gọn và quen thuộc do R.H. Fallon, Jr. đưa ra năm 1997, tuần tự như sau:
- tính siêu đẳng của quyền lực pháp lý (legal authority) đối với công dân và các giới chức chính quyền ;
- tính ổn định của các luật lệ,
- tính hiệu quả của luật lệ, và
- tính khả dụng (availability) của các định chế cưỡng hành không thiên vị.
Ngoài
ra, Fallon còn thêm một nguyên tắc nữa mà WJP không có. Đó là nguyên
tắc về khả năng của luật lệ, những tiêu chuẩn hay những nguyên tắc hướng
dẫn con người trong cách xử sự.
Trở
lại với WJP, người ta nhận ra rằng mỗi năm, 4 nguyên tắc lớn này lại
được phân ra thành một số yếu tố (factors) để tiện việc thăm dò: 16 yếu
tố vào năm 2009; 10 vào năm 2010; 11 vào năm 2011; 9 vào năm 2012 v.v.
Đến năm 2016, thì 4 nguyên tắc đó được chia ra làm 8 yếu tố (lại còn
được tế phân thành tổng cộng 48 chỉ số, indicators), và được áp dụng để
nghiên cứu cho 113 quốc gia. Dưới đây là điểm số và thứ hạng của mỗi
yếu tố cho trường hợp Việt Nam năm 2016.
Các Yếu Tố Điẻm Số Thứ Hạng(0 – 1.0) (trên 113)
1.Hạn chế đối với quyền lực của chính quyền 0, 49 81
2.Không nhũng lạm 0, 45 67
3.Chính quyền cởi mở 0, 43 92
4.Các quyền căn bản 0, 54 68
5.Trật tự và an ninh 0, 79 35
6.Sư cưỡng hành luật lệ 0, 43 91
7.Công lý dân sự 0, 47 80
8.Công lý hình sự 0, 50 51
Nguồn: WJP Rule of Law Index 2016
Thật
ra, điểm số, chỉ số, thứ hạng v.v. đối với một ý niệm trừu tượng và qui
phạm như nguyên tắc luật định chỉ có giá trị tương đối, không giống như
các độ đo trên hàn thử biểu. Khi đưa ra những nguyên tắc, những yếu tố
và những chỉ số, các nhà nghiên cứu luôn cân trọng hai tính chất “mỏng”
(thin) và “dày” (thick) của ý niệm luật định. Quá “mỏng” có nghĩa là
chú trọng rất ít đến các yếu tố thuộc lãnh vực hình thức; quá “dày” có
nghĩa là chú trọng quá nhiều đến các yếu tố thuộc lãnh vực nội dung.
Văn hóa của một quốc gia, trong đó có phong tục, tập quán, tôn giáo,
tình trạng dân trí, sắc tộc v.v. là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng dùng để cân trọng trong việc nghiên cứu và so sánh.
Kết Luận
Ý
niệm luật trị được hồi sinh và phát triển chừng vài chục năm nay. Trong
phạm vi quốc gia, nó được xem như là điều kiện căn bản để kiện toàn hệ
thống luật pháp. Tính tiêu cực của nó là nhằm ngăn chặn sự tùy tiện,
bốc đồng và vô lý của nhà cầm quyền; đặt vấn đề đối với tính chính đáng
của nguồn gốc quyền lực. Kế đến nó còn nhằm bảo đảm mọi công dân được
đối xử bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử. Khi nghiên cứu
khía cạnh tiêu cực này, người ta có thể sẽ không lưu ý là nhiều khi
luật pháp được áp dụng nhất quán và hợp lý, nhưng lại đưa đến hậu quả
xấu, không như ý muốn của giới hữu quyền cũng như của công dân.
Trái
lại, tính tích cực của nguyên tắc luật trị chú trọng đến nội dung và
các cứu cánh mà nó phải phục vụ. Các cứu cánh này bao gồm nhân quyền,
dân quyền, dân chủ, công lý, công bằng xã hội — quả là những phạm trù
triết lý chính trị lớn lao. Vô hình chung, vì “nhân danh” các mục tiêu,
hay vì quá hăng say lao về các mục tiêu chưa được xác định rõ ràng, mà
nhà nước có thể xem nhẹ giá trị của nguyên tắc luật trị, cũng như các
thủ tục xét xử, hay cả quyền lợi của thiểu số.
Hiểu
được tính tiêu cực và tích cực của ý niệm về sự trị vì của luật pháp,
người công dân bình thường cũng có thể rút ra những kết luận khách quan
thích hợp về các hoạt động của chính quyền trong cả ba lãnh vực lập
pháp, hành pháp và tư pháp từ cấp trung ương đến điạ phương. Vì thế
truyền bá và giáo dục rộng rãi ý niệm này đến quần chúng –đặc biệt là
tại các nước đang phát triển mà trình độ văn hóa và ý thức chính trị còn
thấp– là bước đầu cần thiết và vững chắc để tạo dựng một xã hội trật
tự, để từ đó đưa đến no cơm ấm áo.
Áp
dụng nguyên tắc “luật trị quốc nội” đã khó, áp dụng nguyên tắc “luật
trị quốc tế” lại càng khó hơn, vì những định nghĩa bất đồng, nhất là đối
với những mục tiêu lớn như hòa bình, trật tự xã hội, công bằng nhân
loại v.v. cũng như không có những phương thức cưỡng hành rõ ràng đối với
những nước có chủ quyền, nhất là đối với những nhà nước ngang ngược,
hai mặt (double standards) và thủ đoạn, chỉ biết sử dụng luật kẻ mạnh.
Nguyên tắc luật trị quốc tế chỉ mới bắt đầu, và sự đồng thuận về hình
thức lẫn nội dung còn đòi hỏi nhiều thử thách. Tuy nhiên, bắt đầu cũng
có nghĩa là lóe lên những tia hy vọng.
Virginia, tháng 11 năm 2016
Lê Văn Bỉnh