Thứ Sáu, 13 tháng 10, 2017
Con người tự do
19:28
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tôi đã dành 22 năm của cuộc đời mình để đi học, trong khoảng thời gian đó, tôi trực tiếp trải nghiệm ba nền giáo dục khác nhau.
Tôi cũng là một phụ huynh có ba con nhỏ. Con đi học, tôi vì trách
nhiệm và vì tò mò mà dành thời gian tìm hiểu chương trình, rồi học cùng
con ở hai quốc gia khác nhau nữa. Vậy tính ra, tôi đã đi qua 5 nền giáo
dục Á - Âu, cả trực tiếp và gián tiếp. Vậy tôi thấy gì khác nhau trong 5
nền giáo dục đó? Và quan trọng hơn, bài học nào sẽ được rút ra từ những
trải nghiệm thực tế đó?
Tôi thấy rằng, dù khác nhau về văn hóa, thể chế và tôn giáo, nhưng giáo
dục có hai loại mục tiêu: Đào tạo con người công cụ và đào tạo con
người tự do. Hai mục tiêu này không tách bạch tuyệt đối, thường
lồng ghép xen lẫn vào nhau theo chủ ý hoặc vô thức do tập tục. Tùy theo
mức độ công cụ hay tự do nhiều hay ít, mà hệ thống giáo dục đó sẽ tạo ra
con người công cụ hay con người tự do theo cách tương ứng.
Như mọi hệ thống sản xuất khác, một hệ thống chỉ có thể vận hành trơn
tru hiệu quả và không rơi vào hỗn loại khi hình dung đích xác được sản
phẩm đầu ra có những thuộc tính nào. Với giáo dục là trả lời tường minh
cho câu hỏi: Hệ thống giáo dục hướng đến việc đào tạo con người nào?
Rất nhiều độc giả đã đặt ra câu hỏi tương tự sau các bài viết “Giáo dục không triết lý” và “Giáo dục bế tắc” trên Góc nhìn. Họ chấp nhận phản biện về cải cách hiện thời của tôi, nhưng đề nghị tôi trả lời rằng tôi mong muốn triết lý nào.
Sau nhiều năm trải nghiệm, tôi bắt đầu gây dựng và theo đuổi một triết
lý giáo dục mới, phát biểu giản dị rằng: Con người tự do là đích đến của
giáo dục.
Con người tự do, như tên gọi của nó, thể hiện trước hết ở việc tự do đi
tìm câu trả lời cho câu hỏi cốt yếu “Tôi là ai?”. Đó chính là tự do tư
tưởng. Tư tưởng về chính bản thân mình. Con người khác với con vật ở chỗ
biết hỏi: “Người là gì, tức Tôi là ai?”, còn con vật thì không. Chính
việc tự do đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cội nguồn của văn minh
nhân loại, hình thành nên nhân tính và xã hội con người. Mà muốn vậy,
điều kiện tiên quyết là họ phải có được tự do để tư duy trước khi trả
lời cho câu hỏi tôi là ai. Mà để tư duy hiệu quả và chính xác, họ cần
thông tin như những nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, sự tự do tiếp cận thông
tin là điều tối quan trọng. Trong giáo dục, điều này có nghĩa, học sinh
và giáo viên phải được quyền tiếp cận với các nguồn tư liệu và tài liệu
tham khảo khác nhau, thể hiện trước hết ở nhiều bộ sách giáo khoa khác
nhau được lưu hành.
Trong lớp học, học sinh phải được tự do bày tỏ ý kiến và diễn giải của
mình. Nội dung bài học vì thế không được phép đóng cứng vào một diễn
giải cụ thể, dù đó là diễn giải của người thầy đáng kính. Nếu không, học
sinh sẽ bị thui chột sáng tạo và trở nên máy móc. Việc học rõ ràng
không phải chỉ là ghi nhớ giải pháp của thầy cô, mà là tìm được bao
nhiêu giải pháp theo cách của riêng mình cho vấn đề đang đối mặt.
Việc thi cử khi đó cũng không đi theo hướng có học thuộc, biết đúng
điều đã được dạy để thi hay không, mà trở thành thước đo cho sự trưởng
thành của người học, mà quan trọng nhất là sự trưởng thành trong tư duy
của họ, biểu hiện qua năng lực cốt yếu: Năng lực tư duy độc lập.
Vì sao như vậy, vì nếu không có năng lực tư duy độc lập, một người dù
đã bạc đầu, vẫn cần phải cậy nhờ đến tư duy của kẻ khác, do đó trên thực
tế vẫn là trẻ vị thành niên. Đất nước không cần nhiều trẻ vị thành niên
bạc đầu như vậy. Đất nước cần những con người trưởng thành, có tư duy
độc lập, để xây dựng một đất nước độc lập và trưởng thành.
Tầng thứ hai của con người tự do là tự do lựa chọn. Lựa chọn là cấp độ
cơ bản nhất của hành động. Nhìn thật kỹ chúng ta sẽ thấy mọi hành động
có nghĩa đều bắt đầu bằng một lựa chọn.
Vì sao? Vì sau khi đã có tự do tư duy, đã có thể tư duy độc lập, thì ta
phải làm điều gì đó chứ? Nếu giáo dục chỉ đào tạo ra những thế hệ học
nhiều thi giỏi mà không biết làm việc, không có khả năng lựa chọn thì rõ
ràng nền giáo dục đó đã sai đường. Với giáo dục, tự do lựa chọn
thể hiện trước hết trong việc được quyền lựa chọn hình thức học tập phù
hợp với mình. Vì thế, bên cạnh những loại hình trường hiện có, loại hình homeschooling, tức học tại nhà, cần được thừa nhận về mặt pháp lý.
Quyền tự do lựa chọn còn thể hiện ở việc người học cần được quyền lựa
chọn giáo viên phù hợp. Vì thế hệ thống giáo dục cần phải tổ chức sao
cho lựa chọn này thực hiện được, ví dụ bỏ biên chế suốt đời. Không thể
nào một giáo viên kém, nhưng vì lý do nào đó, vào được hệ thống giáo
dục, thì nghiễm nhiêm ở đó gần 40 năm cho đến lúc về hưu mà không có
cách nào để thay thế.
Một người có tự do lựa chọn là một người đã có khả năng lãnh đạo bản
thân, làm chủ cuộc đời mình, và tự chịu trách nhiệm về sự làm chủ đó. Đó
chính là những phẩm chất mà một người học cần hướng tới. Lãnh đạo bản
thân, làm chủ cuộc đời mình là thước đo cho sự trưởng thành thực sự cho
người học.
Tầng thứ ba của con người tự do sẽ là tự do trở thành, tức được tự do
trong việc quyết định trở thành người mình chọn để trở thành. Nó bao gồm
tự do thân thể, tự do biểu đạt cảm xúc, tự do biểu lộ tinh thần. Sự
thay đổi của chúng chính là sự thay đổi của chúng ta. Người học phải
nhận biết và làm chủ được những sự thay đổi đó, thông qua lựa chọn trong
tự do và sau khi suy xét.
Cho đến nay, tự do thân thể đã được pháp luật bảo hộ, nhưng nhiều khi
còn mâu thuẫn khi triển khai. Quyền tự do thân thể chưa được nhận thức
đúng. Bạo hành trong gia đình và nhà trường, một sự xâm phạm tự do thân
thể điển hình, vẫn xảy ra thường xuyên. Bạo lực học đường bùng phát cũng
là chỉ dấu xấu cho thấy tự do thân thể đã bị xâm phạm ngay trong môi
trường trong sáng nhất là nhà trường.
Còn tự do biểu đạt, dù là cảm xúc hay tinh thần, gần như ít khi được
xét đến. Một phần do văn hóa truyền thống, một phần do giáo dục đã bỏ
qua thứ tự do trở thành này, nên con người không được sống thật với cảm
xúc và các giá trị tinh thần của mình, lại càng không dám biểu đạt chúng
ra cho người khác thấy. Tất cả những điều này đều không tốt cho sức
khỏe tâm thần, cho sức sáng tạo, và rộng hơn là cho một xã hội lành
mạnh.
Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy “tự do” chưa phải là một khái niệm được
tôn trọng trong nhà trường, hay không phải là mục đích của nó.
Tầng thứ tư của con người tự do là tự do kiến tạo, có được trên nền
móng từ ba thứ tự do đã nói ở trên. Một người chỉ có thể kiến tạo tương
lai nếu tương lai đó đã được kiến tạo trong tâm trí mình trước hết.
Tương lai của một con người, tương lai của một quốc gia, nằm ở thứ tự do
kiến tạo này.
Đó là lý do vì sao tôi luôn tâm niệm rằng, triết lý giáo dục của thời
đại mới không thể là đào tạo con người công cụ như hệ thống giáo dục
hiện thời. Con người tự do là đích đến của giáo dục.
Giáp Văn Dương
0 nhận xét:
Đăng nhận xét