Thứ Sáu, 13 tháng 10, 2017
Minh triết và hạ tầng tư duy
14:14
Hoàng Phong Nhã
No comments
Muốn
phát triển, phải xây dựng được một hạ tầng tư duy vững chắc, phong phú
và thông thoáng, để từ đó, tạo ra những sản phẩm tư duy có giá trị. Minh
triết, với vai trò như một phông nền văn hóa, có mặt trong nhiều thành
phần trong cấu trúc của hạ tầng tư duy.
Việc
tìm hiểu mối quan hệ giữa minh triết và hạ tầng tư duy có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng tư duy, tạo điều kiện
cho việc giải phóng tư duy, hình thành những tư tưởng mới, sáng tạo và
có giá trị cho đất nước.
Hạ tầng tư duy
Hạ
tầng tư duy là một khái niệm mới, được đề cập lần đầu trong hai bài báo
đăng trên Tuần Việt Nam ngày 10 và 11 tháng 8 năm 2009, theo đó, tác
giả định nghĩa rằng: "Hạ tầng tư duy là toàn bộ những gì góp phần
khai mở, hỗ trợ, giải phóng và phát huy khả năng tư duy của cá nhân và
cộng đồng. Cấu trúc của hạ tầng tư duy gồm sáu yếu tố chính: Thành tựu
tư tưởng của nhân loại (TTNL); Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời
(HTT-QĐ); Cơ chế pháp lý hỗ trợ (CCPL); Thói quen, kĩ năng tư duy cá
nhân (TQ-KN);Văn hóa, môi trường làm việc (VH-MT); Liên thông, trao đổi
tư tưởng (LT-TĐ)" 1,2.
Trong
sáu yếu tố tạo thành hạ tầng tư duy, mỗi yếu tố có vai trò khác nhau,
nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong
việc hình thành hạ tầng tư duy. Cái này hoặc làm nền, hoặc là sản phẩm
gián tiếp của cái kia, hoặc thúc đẩy hỗ trợ cho cái kia hình thành và
phát triển. Cụ thể:
Thành tựu tư tưởng nhân loại
tạo nền tảng và khung tư duy chung cho mọi cá nhân tiếp cận và sử dụng
nó, không phân biệt địa lý, sắc tộc. Một cá nhân hoặc dân tộc tiếp thu
được càng nhiều thành tựu tư tưởng của nhân loại thì hạ tầng tư duy của
cá nhân hoặc dân tộc đó càng phong phú, vững chắc.
Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời
chi phối và quyết định việc hình thành các khung mẫu tư duy hiện thời
của một cá nhân hoặc một dân tộc, được hình thành thông qua sự lựa chọn
của cá nhân hoặc dân tộc đó từ kho tàng tư tưởng nhân loại dưới sự chi
phối của các đặc điểm lịch sử, cụ thể.
Cơ chế pháp lý hỗ trợ
có vai trò thúc đẩy việc và phát huy khả năng tư duy của cá nhân và
cộng đồng, thông qua việc khuyến khích, hỗ trợ cá nhân, tập thể trong
việc khám phá, truyền bá, tiếp thu và sáng tạo tri thức (ví dụ các cơ
chế khuyến học, các giải thưởng, v.v), đồng thời bảo vệ quyền lợi của
những cá nhân có các sản phẩm tư duy có giá trị (ví dụ luật bản quyền).
Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân
quyết định việc các nhân đó có tư duy hiệu quả hay không, thông qua đó
ảnh hưởng trực tiếp đến hạ tầng tư duy của xã hội như một tổng thể.
Văn hóa, môi trường làm việc
ảnh hưởng trực tiếp đến thói quen và hiệu quả làm việc của cá nhân và
cộng đồng. Nếu văn hóa và môi trường làm việc cởi mở, lành mạnh, tôn
trọng sự khác biệt thì hạ tầng tư duy phong phú, đa dạng và linh hoạt.
Ngược lại, sẽ chỉ là sự nghèo nàn, xập xệ và cứng nhắc một chiều.
Liên thông, trao đổi tư tưởng
- tự do học thuật - làm cho hạ tầng tư duy của các cá nhân và do đó của
toàn xã hội được kết thành hệ thống vững chắc, biểu hiện dưới dạng một
mạng lưới liên thông hữu cơ mà qua đó, tư tưởng được tự do lưu thông và
tương tác với nhau. Nếu không có liên thông, trao đổi tư tưởng, thì sản
phẩm tư duy của mỗi cá nhân chỉ có tác động đến đời sống của cá nhân cụ
thể đó, như một ngưới có trí tuệ nhưng sống giữa đảo hoang, mà không có
tác động nào đáng kể đến hạ tầng tư duy và sự phát triển của xã hội mà
cá nhân đó đang sinh sống.
Nếu một người chỉ
được coi là trưởng thành khi có thể suy nghĩ độc lập thì một đất nước
cũng vậy. Đất nước chỉ trưởng thành khi có tư duy độc lập, phong phú và
sáng tạo. Muốn vậy, phải có một hạ tầng tư duy vững chắc, lành mạnh, cởi
mở và thông thoáng làm nền tảng.
Nếu hạ tầng
tư duy manh mún, nghèo nàn và xập xệ, đất nước sẽ chỉ mãi quẩn quanh
trong vòng nghèo hèn và lạc hậu. Xã hội khi đó sẽ chỉ là tập hợp của
những đứa trẻ to xác. Đất nước sẽ mãi chỉ là đất nước vị thành niên.
Biểu
hiện rõ nhất của tình trạng vị thành niên này là cả xã hội sự phụ
thuộc và chạy theo tư duy, ý thức hệ hoặc cách hành xử của bên ngoài và
sự ra đời của những kiểu tư duy kì quặc trong mọi mặt của đời sống xã
hội, ở mọi cấp độ, như tư duy nhiệm kì, tư duy đối phó, tư duy bằng
cấp... mà thiếu đi những kiểu tư duy lành mạnh, như tư duy sáng tạo, tư
duy độc lập, tư duy hệ thống, tư duy phê phán...
Minh triết và hạ tầng tư duy
Nhìn vào cấu trúc của hạ tầng tư duy thì thấy, minh triết có mặt chủ yếu trong ba thành phần: Hệ
tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời (HTT-QĐ; Thói quen, kĩ năng tư
duy cá nhân (TQ-KN);Văn hóa, môi trường làm việc (VH-MT). Minh triết vì gắn liền với lối sống và văn hóa của cá nhân, mở rộng ra là của cả một dân tộc, nên góp phần quyết định lựa chọn Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân và Văn hóa, môi trường làm việc.
Nói cách khác, việc một cá nhân, và rộng ra là cả xã hội tư duy hiệu
quả hay không, tạo ra được sản phẩm tư tưởng gì đáng kể hay không một
phần là do nền tảng văn hóa -mà ở đó, minh triết có sự góp phần quan
trọng- quyết định.
Như vậy, minh triết có thể coi là một bộ phận cấu thành hạ tầng tư duy của cá nhân, và rộng hơn là của xã hội.
Điều này nhìn bề ngoài thì có vẻ gần với quan điểm của François Juillien cho rằng, minh triết là hạ tầng của tư tưởng3, nhưng thực tế, lại khác về bản chất.
Trước
hết là sự khác biệt giữa hai đối tượng mà minh triết hỗ trợ: tư duy và
tư tưởng. Tư duy là quá trình não bộ xử lý thông tin mà nó tiếp nhận để
tạo ra tư tưởng. Vì thế, tư duy gắn liền với quá trình làm việc của não
bộ, đặc biệt là quá trình lập luận, phân tích, tổng hợp, ra quyết
định..., còn tư tưởng là sản phẩm của quá trình làm việc đó. Nói cách
khác, tư tưởng là sản phẩm của tư duy. Vì thế, nếu coi minh triết là một
bộ phận của hạ tầng tư duy thì minh triết sẽ tham gia quá trình tư duy
để hình thành tư tưởng, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình này, tùy
đặc điểm của minh triết và tùy cách sử dụng minh triết của cá nhân và xã
hội. Còn nếu coi minh triết là hạ tầng của tư tưởng như François
Juilien quan niệm thì bản thân minh triết cũng phải là tư tưởng, mà lại
là tư tưởng nền tảng. Nếu như vậy, minh triết trở thành triết học. Nhưng
sự thực, minh triết không phải là triết học. Cho nên, minh triết không
thể là hạ tầng của tư tưởng, mà chỉ có thể là hạ tầng tư duy. Chính xác
hơn, minh triết là một bộ phận cấu thành hạ tầng tư duy của cá nhân và
xã hội.
Trên thực tế, minh triết gắn liền với
văn hóa sống ở thì hiện tại nhiều hơn tư tưởng như một hệ thống có
lịch sử. Minh triết thể hiện ở lối sống, nếp sinh hoạt, cách ứng xử của
cá nhân với thế giới xung quanh. Nếu cá nhân tư duy để tạo ra một sản
phẩm tư tưởng nào đó, thì minh triết sẽ tham gia vào quá trình tư duy
đó, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình tư duy thông qua việc ảnh
hưởng đến thói quen, văn hóa làm việc, kĩ năng tư duy cá nhân..., chứ
bản thân minh triết không phải là sản phẩm của quá trình tư duy.
Vì
thế mới có một thực tế đáng buồn là: một xã hội gồm những người minh
triết, chưa chắc đã tạo ra những tư tưởng có giá trị, nhất là những tư
tưởng có khả năng định hướng và thúc đẩy sự phát triển, dẫn đến một
nghịch lý là tập hợp của những minh triết cá nhân có thể dẫn đến u triết
tập thể, làm cho xã hội trì trệ vì chỉ quẩn quanh trong những giá trị
lạc hậu, cũ rích.
Sự chậm phát triển của nhiều
nước phương Đông trong những thế kỉ gần đây là minh chứng rõ ràng cho
điều này. Các bậc hiền triết ở phương Đông không hề thiếu, nhưng xã hội
của các nước phương Đông giậm chân tại chỗ hàng thế kỉ, vì không tạo ra
tri thức và tư tưởng có khả năng dẫn dắt và thúc đẩy xã hội phát triển.
Nguyên
nhân là do minh triết phương Đông đặt trọng tâm sự chú ý vào đời sống
con người, nhấn mạnh vào cách ứng xử và điều phối các mối quan hệ giữa
người với người trong xã hội, mà không quan tâm đúng mức sự khám phá
giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng ứng xử xã hội thì đạt mức nghệ thuật,
nhưng tri thức để thúc đẩy xã hội phát triển thì gần như không có.
Vì
đặt sự quan tâm vào đời sống xã hội của con người, một thực thể đầy
biến động, và đôi khi nguy hiểm đến sinh mạng khi có bất đồng, nên
minh triết phương Đông đẻ ra văn hóa trọng sự hài hòa, trọng cái trung
dung, trọng sự biến dịch, trọng đạo đức mà coi nhẹ đấu tranh, coi nhẹ sự
dấn thân khám phá, coi nhẹ tri thức khoa học, dễ dấn đến sự coi thường
chân lý.
Chính việc trọng sự hài hòa, trung
dung, biến dịch này đã đẻ ra tính cách "dĩ hòa vi quí", thói quen ngại
phê bình phản biện, tránh va chạm để giữ yên thân, thích áp đặt và vâng
lời hơn là tranh luận, dẫn đến rất nhiều nghịch lý như cam chịu sự áp
đặt nhưng lại độc đoán khi có điều kiện, xuê xoa dễ dãi, và phần nào đó
là hời hợt, trong khi luôn tìm cách đạt đến Chân, Thiện, Mĩ.
Xã
hội khi đó trọng sự gắn kết và quyền lợi tập thể, đặc biệt là trong các
mối quan hệ người-người, nhưng làm lu mờ vai trò của cá nhân và bản
thân cá nhân như một thực thể có cá tính cần tôn trọng. Điều này dẫn đến
tình trạng nghèo nàn về thành tựu tư tưởng, vì suy cho cùng, tư tưởng
là kết quả của quá trình tư duy của cá nhân, nhưng lại đạt mức nghệ
thuật về ứng xử trong cuộc sống.
Vậy vai trò của minh triết là gì?
Minh
triết vì quan tâm chủ yếu đến đời sống con người, nên có khả năng điều
phối các mối quan hệ giữa người và người để giữ cho xã hội ổn định,
một yêu cầu quan trọng không kém yêu cầu phát triển. Như thế, minh triết
có vai trò duy trì nền tảng đạo đức cho xã hội.
Văn
minh phương Tây vì chú trọng tìm hiểu và khai phá tự nhiên, đề cao cá
nhân, nên dễ dẫn đến tình trạng phá sự hài hòa giữa con người với thiên
nhiên và tạo ra xã hội tiêu thụ cá nhân. Cả hai điều này đều trái với
những đặc trưng cơ bản của minh triết là đề cao sự hài hòa và lợi ích
tập thể. Nên minh triết có vai trò hãm bớt sự hủy hoại thiên nhiên do bị
khai phá quá mức và ngăn chặn sự suy đồi đạo đức do chú trọng quá đáng
vào cá nhân mà xem nhẹ tập thể.
Cũng vì vai trò
ngăn chặn này, và nhờ đặt sự quan tâm chủ yếu với đời sống con người,
minh triết có vai trò bảo tồn văn hóa. Vì bảo tồn văn hóa, không gì
khác là bảo vệ những kết tinh của các giá trị cũ trước sự tấn công của
văn minh tiêu thụ và sự hung hăng của xã hội vật chất có được thông qua
khai phá tự nhiên.
Như vậy, minh triết có ba vai
trò chính: giữ nền tảng đạo đức trong xã hội thông qua điều phối quan
hệ giữa người và người, bảo tồn văn hóa và giữ sự hài hòa giữa con
người với thiên nhiên. Trong đó, giữ sự hài hòa giữa người với thiên
nhiên là một kết quả tất yếu của việc giữ nền tảng đạo đức, bảo tồn văn
hóa và tinh thần trọng sự hài hòa của minh triết.
Nhưng
đạo đức, văn hóa, sự hài hòa chỉ là một phần của cuộc sống. Lại là phần
ổn định chứ không phải phần phát triển. Muốn phát triển, xã hội cần
tri thức, cần khai phá, cần tư tưởng dẫn dắt v.v. Minh triết như cái
phanh hãm, còn tri thức và khai phá giống như động cơ. Nếu chỉ có phanh
hãm mà không có động cơ thì xã hội không phát triển. Nhưng nếu chỉ có
động cơ mà thiếu phanh hãm thì dễ mất kiểm soát, gây ra sự tàn phá, đổ
vỡ.
Đây là lý do tại sao các xã hội minh triết
phương Đông giậm chân tại chỗ hàng trăm năm, nay đang có xu hướng gạt bỏ
minh triết để học theo văn minh phương Tây vì họ thiếu động cơ tri thức
và khai phá có khả năng kéo xã hội thoát khỏi vũng lầy nghèo khó, còn
các xã hội phát triển về vật chất phương Tây lại tìm đến minh triết như
một phanh hãm cần thiết cho xã hội.
Minh triết đóng góp gì cho phát triển?
Nếu
coi phát triển kết quả của việc ứng dụng tri thức vào mọi mặt của đời
sống, thì minh triết chỉ có thể đóng góp vào sự phát triển nếu minh
triết tham gia vào việc tạo ra tri thức.
Nhưng
thực tế cho thấy, minh triết hầu như không đóng góp gì nhiều vào việc
tạo ra tri thức, bằng chứng là sự tụt hậu của các xã hội minh triết
phương Đông so với văn minh vật chất phương Tây.
Như thế, muốn đóng góp vào phát triển, bản thân minh triết và việc sử dụng minh triết phải thay đổi.
Minh
triết phải tự cải biến mình trên cơ sở tiếp thu những thành tựu tư
tưởng của nhân loại, những tri thức khoa học mới, để thay đổi nội dung
và cả hình hài, mở rộng phạm vi quan tâm sang cả giới tự nhiên chứ không
phải chỉ giới hạn trong đời sống con người. Những nền tảng của minh
triết như trọng trật tự, trọng tập thể hơn cá nhân... cũng phải có những
điều chỉnh phù hợp khi những thang giá trị đã có sự thay đổi, sự sáng
tạo và vai trò của cá nhân ngày càng được đề cao.
Cách
sử dụng minh triết cũng cần thay đổi theo. Minh triết, sẽ không chỉ
còn đóng vai trò duy trì đạo đức, bảo tồn văn hóa, giữ sự hài hòa giữa
con người với thiên nhiên mà còn phải trực tiếp tham gia quá trình tạo
dựng tri thức, tư tưởng.
Một trong những cách sử
dụng minh triết có hiệu quả là định vị minh triết như là một bộ phận
của hạ tầng tư duy, từ đó khai thác những thế mạnh của minh triết như
khả năng nhận thức bằng trực giác, khả năng cân bằng và điều phối các
mối quan hệ, tư duy tổng thể... để tạo ra những sản phầm tư duy có giá
trị - những tư tưởng và tri thức có khả năng định hướng và thúc đẩy xã
hội phát triển.
Những hạn chế do minh triết gián
tiếp gây ra hoặc cổ vũ như lảng tránh phê bình, phản biện, hay thay
đổi, thích áp đặt và vâng lời, trọng ổn định hơn phát triển... cũng cần
phải giảm thiểu, tiến tới loại bỏ vì chúng gây cản trở cho sự phát
triển, vì suy cho cùng, ổn định mà không phát triển là ổn định giả tạo.
Ổn định chỉ thực chất khi có phát triển làm nền tảng nâng đỡ.
Tính
ù lỳ của minh triết, thể hiện ở xu hướng bảo thủ, luôn có xu hướng trở
lại những giá trị cũ, và sự dễ dài, xuề xòa trong làm việc, thích sử
dụng các giải pháp tình thế... do quá coi trọng cái biến dịch và sự
trung dung, hài hòa gây ra cần phải được kiểm soát. Vai trò của cá nhân
cần được coi trọng. Chỉ có như thế, minh triết mới thoát khỏi nghịch lý:
tập hợp các minh triết cá nhân lại tạo ra u triết xã hội như đã từng
thấy trong lịch sử.
Cũng chỉ có như thế, minh
triết mới có thể làm tốt vai trò giữ ổn định xã hội một cách thực chất
và có đóng góp tích cực vào sự phát triển. Tiềm năng của minh triết khi
đó mới được khai phá và khai thác một cách xứng đáng.
---
Ghi chú: Phần khái niệm về hạ tầng tư duy đã đăng ở TuanVietNam.Net, ngày 10/8/2009.
Chú thích:
1. Giáp Văn Dương, Hạ tầng tư duy và phát triển đất nước, TuanVietNam.Net, ngày 10/8/2009.
2. Giáp Văn Dương, Xây dựng hạ tầng tư duy, TuanVietNam.Net, ngày 11/8/2009.
3. François Julien, Bàn về minh triết, trao đổi tại trung tâm Minh Triết Việt ngày 8/9/2009.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét