ỦY BAN NHÂN QUYỀN VIỆT NAM TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU
TÓM LƯỢC DÂN CHỦ
Ấn phẩm của Chương trình thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
- Năm
1215, các nhà quý tộc Anh gây áp lực buộc Vua nước Anh John phải ký
một văn kiện gọi là Magna Carta (Hiến chương), một bước quan trọng trên
còn đường tiến tới nền dân chủ hợp hiến. Làm như vậy nghĩa là nhà vua
đã thừa nhận ông phải tuân thủ luật pháp giống những người khác (©
Bettmann/CORBIS)
NỘI DUNG
1/ Dân chủ là gì?
2/ Những đặc điểm của dân chủ
3/ Các quyền và nghĩa vụ
4/ Bầu cử dân chủ
5/ Pháp Quyền
6/ Chủ nghĩa hợp hiến
7/ Ba trụ cột của chính phủ
8/ Giới truyền thông độc lập và tự do
9/ Các đảng phái chính trị, nhóm lợi ích, các tổ chức phi chính phủ
10/ Quan hệ quân sự và dân sự
11/ Nền văn hóa dân chủ
Nội dung tiếng Anh của ấn phẩm này có trên Internet tại địa chỉ:
DÂN CHỦ LÀ GÌ?
Dân
chủ là một thuật ngữ mà ai cũng biết nhưng vẫn bị hiểu và dùng sai ở
thời điểm mà các nhà độc tài, các chế độ độc đảng và lãnh đạo các cuộc
đảo chính quân sự đòi dân chúng ủng hộ vì tự cho rằng mình bảo vệ dân
chủ. Tuy nhiên, sức mạnh của ý tưởng dân chủ vẫn phát triển trong suốt
chiều dài lịch sử với nhiều biến cố. Các chính phủ dân chủ dù phải đối
mặt với nhiều thách thức, vẫn tiếp tục tiến bộ và lan rộng trên toàn
thế giới.
Dân chủ – theo
tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân” – về cơ bản được định nghĩa là một
hình thức chính phủ trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Dân
chủ có thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các xã hội lớn hơn, dân
chủ được thực thi bởi các quan chức do nhân dân bầu ra. Hay theo như câu
nói nổi tiếng của Tổng thống Abraham Lincoln, dân chủ là chính phủ
“của nhân dân, do dân và vì dân”.
Tự
do và dân chủ thường được dùng thay thế cho nhau. Thực ra hai khái
niệm này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt ý tưởng và các
nguyên tắc về tự do, mà còn bao hàm cả những thực tiễn và các tiến
trình đã được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử vốn phức tạp. Dân
chủ là sự thể chế hóa tự do.
Cuối
cùng, người dân sống trong một xã hội dân chủ phải phục vụ với tư cách
là người bảo vệ chính quyền tự do của họ và hướng tới những lý tưởng
được đưa ra trong lời nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu của
Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình
đẳng bất khả xâm phạm của mọi thành viên trong đại gia đình nhân loại
là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân
chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân chủ
dựa trên nhóm giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất
cả các giá trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những
hình thức khác nhau tùy theo nền văn hóa và các xã hội trên thế giới.
Các nền dân chủ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải
những thực tiễn thống nhất.
Những đặc điểm dân chủ cơ bản
- •
Dân chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm công
dân do công dân trưởng thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại
diện của họ được bầu lên một cách tự do.
- • Dân chủ dựa trên các
nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các nền dân chủ chống
lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hóa chính quyền
ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ
chính quyền đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có
thể.
- • Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng
chính của họ là bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận
và tự do tôn giáo; quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được
tổ chức và tham gia đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa
của xã hội.
- • Các nền dân chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng cho công dân ở độ tuổi bầu cử tham gia.
- • Công dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hệ
Các
cuộc bầu cử công bằng, thường xuyên và được tổ chức quy củ là thiết
yếu đối với một nền dân chủ. Trong ảnh, các quan chức bầu cử bố trí
nhân viên tại một địa điểm bỏ phiếu ở Paraguay (Javier Medina/ AP
Images)
thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các quyền lợi và sự tự do của họ.
•
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa
hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi: “Không khoan dung là biểu hiện của
tình trạng bạo lực và cản trở phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.
Hai hình thức dân chủ
Có
hai loại hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Trong nền dân chủ trực tiếp, công dân có thể tham gia quyết định
công việc chung mà không có sự can thiệp của các quan chức
được
bầu lên hoặc được bổ nhiệm. Hình thức dân chủ trực tiếp thực tế nhất
nếu áp dụng cho một nhóm ít người như một tổ chức cộng đồng, hội đồng
bộ lạc, hoặc đơn vị địa phương của một liên đoàn lao động. Thành viên
các nhóm này có thể gặp gỡ nhau để bàn bạc các vấn đề và đi đến quyết
định bằng sự đồng thuận hoặc biểu quyết đa số. Bên cạnh đó, một số bang
ở Mỹ cho phép đưa ra trên phiếu bầu “đề xuất” và “trưng cầu dân ý” –
yêu cầu thay đổi luật – hoặc yêu cầu bầu lại các quan chức đã được bầu
trong
các cuộc bầu cử bang. Những hoạt động này là biểu hiện của hình thức
dân chủ trực tiếp, tức là bày tỏ ý chí của đại bộ phận dân chúng. Có
nhiều thực tiễn khác mang yếu tố của nền dân chủ trực tiếp. Ở Thụy Sĩ,
nhiều quyết định chính trị quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế,
năng lượng và việc làm, là những vấn đề lấy biểu quyết của dân chúng cả
nước. Một số người có thể cho rằng Internet đang tạo ra những hình tức
dân chủ trực tiếp mới, vì nó cho phép các nhóm chính trị gây quỹ cho
sự nghiệp của họ bằng cách trực tiếp lôi cuốn những người cùng chung
chí hướng.
Tuy nhiên, ngày nay
cũng như trong quá khứ, hình thức phổ biến nhất của dân chủ – dù là của
một hành phố với 50.000 dân hay một quốc gia 50 triệu dân – là hình
thức dân chủ đại diện. Công dân bầu lên các quan chức để đưa ra các
quyết định chính trị, xây dựng luật và điều hành các chương trình vì
lợi ích chung.
Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số
Tất
cả các nền dân chủ đều là những hệ thống trong đó công dân tự do đưa
ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Theo lời của nhà văn
Mỹ E.B. White: “Dân chủ là một niềm tin rằng đa số mọi người đều đúng
trong hầu hết các trường hợp”. Bản thân nguyên tắc đa số không tự động
mang tính dân chủ. Ví dụ, không thể nói một hệ thống là công bằng nếu
nó cho phép 51% dân số đàn áp 49% dân số còn lại nhân danh đa số. Trong
một xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải gắn với việc đảm bảo các
quyền của cá nhân con người. Đổi lại, các quyền của người thiểu số và
những người bất đồng sẽ được bảo vệ – dù đó là những người thiểu số,
tôn giáo hay đơn giản là những người thua trong các cuộc tranh luận
chính trị. Quyền của các nhóm thiểu số không phụ thuộc vào thiện chí
của đa số và cũng không bị tước bỏ bởi nguyên tắc đa số. Quyền của các
nhóm thiểu số được bảo vệ bởi vì luật pháp và các thể chế dân chủ bảo
vệ quyền của mọi công dân. Các nhóm thiểu số phải tin tưởng chính phủ
bảo vệ các quyền và sự an toàn của họ. Một khi điều này được thực hiện,
các nhóm đó có thể tham gia và đóng góp vào việc xây dựng các thể chế
dân chủ của đất nước. Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số là đặc trưng
của tất cả các nền dân chủ. Những khác biệt về lịch sử, văn hóa, dân số
và kinh tế không ảnh hưởng đến những đặc trưng này.
Đa nguyên và xã hội dân chủ
Trong
một nền dân chủ, chính phủ chỉ là một đầu mối trong mạng lưới xã hội
gồm rất nhiều thể chế công và tư, các cơ quan luật pháp, các đảng phái
chính trị, các tổ chức và các hiệp hội. Sự đa dạng này gọi là đa
nguyên. Điều này có nghĩa là các nhóm và các thể thế trong một xã hội
dân chủ không phải phụ thuộc vào chính phủ mới được tồn tại, mới mang
tính hợp pháp hoặc mới có quyền lực. Hầu hết các xã hội dân chủ đều có
hàng ngàn
Công dân được giáo dục là sự đảm bảo tốt nhất đối với một nền dân chủ đang phát triển (© John
Berry/Syracuse Newspapers/The Image Works)
các
tổ chức tư nhân ở cấp địa phương và cấp bang. Nhiều tổ chức trong số
này có vai trò trung gian giữa các cá nhân và các thể chế xã hội và
chính phủ phức tạp của xã hội, thực hiện những vai trò không phải của
chính phủ và mang đến cho cá nhân cơ hội để trở thành một phần trong xã
hội mà không cần phải tham gia vào chính phủ.
Trong
một xã hội độc tài, hầu hết những tổ chức như vậy sẽ bị kiểm soát,
kiểm duyệt, theo dõi và nếu không thì phải chịu trách nhiệm trước chính
phủ. Ở một nền dân chủ, theo luật pháp quy định, quyền lực của chính
phủ được xác định rõ và rất hạn chế. Do vậy, các tổ chức tư nhân về cơ
bản không chịu sự kiểm soát của chính phủ. Trong khu vực tư nhân bận
rộn này của xã hội dân chủ, công dân có thể tìm kiếm khả năng tự hoàn
thành ước nguyện của mình và thực hiện trách nhiệm đối với một cộng
đồng mà
không chịu sự kiểm soát
có thể rất mạnh từ phía nhà nước hoặc phải tuân theo ý chí của những
người có ảnh hưởng, quyền lực hoặc tuân theo đa số.
Khoan dung và hợp tác giúp xây dựng nền dân chủ
(© Greg Friedler/Jupiterimages)
CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
Các
nền dân chủ dựa trên nguyên tắc: chính phủ tồn tại để phục vụ nhân
dân. Nói cách khác, người dân là những công dân của nhà nước dân chủ,
chứ không phải là những người bị giám sát. Do nhà nước bảo vệ các quyền
của công dân, nên đổi lại công dân trung thành với nhà nước. Ngược
lại, trong hệ thống chuyên quyền, nhà nước yêu cầu dân chúng phải trung
thành và phục vụ nhà nước mà không có nghĩa vụ có đi có lại nào để đảm
bảo người dân thuận theo những hành động của nhà nước.
Các quyền cơ bản
Mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân là nhân tố cơ bản của nền dân chủ.
Theo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của Thomas Jefferson năm 1776:
Sự
thật hiển nhiên là mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa
ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền
này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của nhân
dân.
Trong
ảnh, Benjamin Franklin, John Adams và Thomas Jefferson soạn thảo Tuyên
ngôn Độc lập. Tuyên ngôn này tạo nền tảng cho nền dân chủ Mỹ khi khẳng
định “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng…”
(Thư viện Quốc hội, LCUSZC4- 9904).
Quan
trọng hơn, ở các nền dân chủ, các quyền cơ bản hay bất khả xâm phạm
này bao gồm quyền tự do ngôn luận và bày tỏ, quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng, tự do hội họp và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Đây không phải là một danh sách toàn diện các quyền mà công dân được
hưởng ở một nền dân chủ, mà là một tập hợp các quyền chủ yếu và không
thể thiếu mà mỗi chính phủ dân chủ phải tôn trọng nếu muốn xứng đáng
được gọi là chính phủ dân chủ. Do các quyền này tồn tại độc lập với
chính phủ, nên theo quan điểm của Jefferson, chúng phải được xây dựng
thành luật và không bị chi phối bởi ý muốn nhất thời của đa số cử tri.
Tự do ngôn luận, hội họp và biểu tình
Tự
do ngôn luận và bày tỏ, đặc biệt về các vấn đề chính trị và xã hội, là
nguồn sinh khí của bất cứ nền dân chủ nào. Các chính phủ dân chủ không
kiểm soát nội dung các phát biểu nói hoặc viết. Do vậy, ở các nền dân
chủ luôn tồn tại những quan điểm khác nhau, những ý kiến và ý tưởng
trái ngược nhau. Các nền dân chủ có xu hướng phức tạp.
Dân
chủ phụ thuộc vào việc công dân cần có tri thức, hiểu biết và việc
tiếp cận thông tin cho phép họ tham gia đầy đủ nhất có thể vào đời sống
chung của xã hội và chỉ trích các quan chức chính phủ hay các chính
sách bất hợp lý và mang tính áp bức. Công dân và các đại diện của họ
công nhận rằng nền dân chủ phụ thuộc vào sự tiếp cận một cách rộng rãi
nhất có thể đối với các ý tưởng, dữ liệu và quan điểm không bị kiểm
duyệt. Để người dân tự do quản lý bản thân, họ phải được tự do bày tỏ
chính kiến một cách cởi mở, công khai và liên tục – cả nói lẫn viết.
Bảo
vệ quyền tự do ngôn luận là cái được gọi là “quyền phủ định”, theo đó
chính phủ không được hạn chế quyền tự do ngôn luận. Giới chức ở một nền
dân chủ không can thiệp vào nội dung phát biểu dù nói hay viết.
Dân
chủ là hy vọng: Năm 2006, 20.000 người tuần hành ở Hồng Kông mang theo
biểu ngữ “Công lý, bình đẳng, dân chủ và hy vọng” (© Paul
Hilton/epa/CORBIS)
Sự phản
kháng là thước đo đối với mỗi nền dân chủ. Do vậy quyền hội họp hòa
bình là thiết yếu và là một phần thống nhất trong việc thúc đẩy tự do
ngôn luận. Xã hội dân sự cho phép những người bất đồng về các vấn đề
được tranh luận sôi nổi. Ở nước Mỹ hiện đại, ngay cả những vấn đề cơ
bản như an ninh quốc gia, chiến tranh và hòa bình đều được thảo luận tự
do trên báo chí và trên các phương tiện phát thanh truyền hình. Qua
đó, người những người phản đối chính sách đối ngoại của chính quyền dễ
dàng công khai quan điểm của mình.
Tự
do ngôn luận là một quyền cơ bản, nhưng không phải là tuyệt đối và
không thể viện dẫn để kích động bạo lực. Tội vu khống và phỉ báng nếu
được chứng minh sẽ do tòa án xử lý. Ở các nền dân chủ, nếu muốn cấm
phát ngôn hay các buổi tụ họp được cho là có thể kích động bạo lực, làm
tổn hại danh tiếng người khác hoặc nhằm lật đổ một chính phủ hợp hiến,
thì phải chứng minh được mức độ đe dọa lớn của những hành động đó.
Nhiều
nền dân chủ cấm phát ngôn gây phân biệt chủng tộc hoặc hiềm thù sắc
tộc. Tuy nhiên, thách thức với tất cả các nền dân chủ là làm sao để cân
bằng giữa việc bảo vệ tự do ngôn luận và hội họp, đồng thời phải xử lý
những phát biểu thực sự kích động bạo lực, đe dọa, hoặc lật đổ các thể
chế dân chủ. Người dân có thể phản ứng trước hành vi của một quan chức
một cách công khai và mạnh mẽ; nhưng việc kêu gọi ám sát quan chức đó
lại là phạm tội.
Tự do tôn giáo và khoan dung
Mọi
công dân phải được tự do tín ngưỡng. Tự do tôn giáo bao gồm quyền hành
đạo một mình hoặc với những người khác, ở nơi công cộng hoặc riêng tư,
hoặc cả quyền không theo tôn giáo nào cả và tham gia vào các buổi lễ
tôn giáo, hành đạo và giảng dạy tôn giáo mà không sợ bị chính phủ hoặc
các nhóm khác trong xã hội ngược đãi. Mọi người đều có quyền hành đạo
hoặc hội họp với một tôn giáo hoặc tín ngưỡng, có quyền xây dựng và duy
trì các địa điểm dành riêng cho những hoạt động này.
Giống
với các quyền con người cơ bản khác, tự do tôn giáo không phải do nhà
nước tạo ra hay ban cho, nhưng nhà nước dân chủ nào cũng phải bảo vệ
quyền tự do đó. Mặc dù nhiều nền dân chủ công nhận có sự tách biệt
chính thức giữa nhà thờ và nhà nước, nhưng những giá trị của chính phủ
và tôn giáo không vì thế mà xung đột căn bản. Chính phủ nào bảo vệ
quyền tự do tôn giáo cho mọi công dân thì chắc chắn bảo vệ được các
quyền khác cần thiết để có tự do tôn giáo, chẳng hạn như quyền tự do
ngôn luận và tự do hội họp. Các thuộc địa Mỹ và hầu hết các nhà nước
chính trị thần quyền thế kỷ XVII và XVIII, đã phát triển các thuyết về
khoan dung tôn giáo và thuyết dân chủ thế tục. Ngược lại, một số chế độ
độc tài thế kỷ XX lại nỗ lực xóa bỏ tôn giáo, coi đó là hình thức tự
biểu hiện tín ngưỡng của cá nhân, giống với ngôn luận chính trị. Các
nền dân chủ thực sự nhận thức rằng những khác biệt về tôn giáo của mỗi
cá nhân phải được tôn trọng và vai trò chủ chốt của chính phủ là bảo vệ
lựa chọn tôn giáo, ngay cả trong những trường hợp nhà nước cấm một tín
ngưỡng tôn giáo cụ thể. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bản thân
tôn giáo có thể là cái cớ để biện minh cho bạo lực chống lại các tôn
giáo khác hoặc chống lại cả xã hội. Tôn giáo được thực thi trong bối
cảnh một xã hội dân chủ nhưng không thể vượt lên trên xã hội.
Trách nhiệm của công dân
Tư
cách công dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia, phép lịch sự
và sự kiên nhẫn, tức là đòi hỏi cả quyền lẫn trách nhiệm. Nhà khoa học
chính trị Benjamin Barber đã khẳng định: “Dân chủ thường được hiểu là
nguyên tắc đa số và các quyền ngày càng được hiểu là sự sở hữu tư nhân
của mỗi cá nhân… Nhưng như thế là đã hiểu sai về cả các quyền và về dân
chủ”. Để một nền dân chủ thành công, công dân phải chủ động, chứ không
bị động, bởi vì họ biết rằng sự thành công hay thất bại của chính phủ
là trách nhiệm của họ chứ không phải của ai khác.
Tất nhiên là cá
nhân thực hiện các quyền cơ bản như tự do ngôn luận, hội họp và tự do
tôn giáo. Nhưng mặt khác, các quyền – cũng giống như các cá nhân –
không tự hoạt động một cách biệt lập. Các quyền được thực hiện trong
khuôn khổ xã hội, chính vì vậy mà quyền và nghĩa vụ luôn đi liền với
nhau.
Chính phủ dân chủ – do dân
bầu ra và có trách nhiệm trước nhân dân – bảo vệ các quyền cá nhân, từ
đó công dân trong một nền dân chủ có thể thực hiện nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân của mình, góp phần củng cố xã hội.
Ít
nhất thì công dân cũng phải tự nhận thức về những vấn đề quan trọng mà
xã hội đang phải đối mặt. Chỉ có vậy họ mới có thể biểu quyết một cách
sáng suốt. Một số nghĩa vụ như tham gia vào bồi thẩm đoàn tại các tòa
án dân sự, hình sự hoặc tòa án quân đội, có thể do luật pháp quy định,
nhưng cũng có thể là tự nguyện.
Bản
chất của hành động dân chủ là sự tham gia của công dân vào đời sống
chính trị của cộng đồng và đất nước họ một cách tự do, chủ động và hòa
bình. Theo học giả Diane Ravitch, “Dân chủ là một tiến trình, là cách
sống và làm việc. Dân chủ tiến hóa, chứ không phải bất biến. Dân chủ
đòi hỏi công dân phải hợp tác, thỏa hiệp và khoan dung. Làm sao để dân
chủ vận hành là công việc không hề dễ dàng. Tự do có nghĩa là trách
nhiệm, không phải không có trách nhiệm”. Thực thi trách nhiệm này nghĩa
là can dự tích cực vào các tổ chức hoặc theo đuổi những mục tiêu cụ
thể của cộng đồng.
Trên tất cả,
thực thi trách nhiệm trong một nền dân chủ liên quan đến một quan điểm
nhất định, tức là sẵn sàng tin rằng những người khác cũng có quyền
giống như bạn.
BẦU CỬ DÂN CHỦ
Các
cuộc bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản đảm bảo sự đồng thuận
của nhân dân, là trụ cột của nền chính trị dân chủ. Các cuộc bầu cử là
cơ chế chủ yếu để chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực của chính
phủ.
Những thành tố của bầu cử dân chủ
Jeane
Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc đã đưa
ra định nghĩa như sau: “Bầu cử dân chủ không chỉ đơn thuần là hình
thức… Chúng là những cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với thành
phần tham gia mở và mang tính quyết định, qua đó các nhà hoạch định
chính sách của một chính phủ được nhân dân bầu lên. Nhân dân có quyền
tự do chỉ trích chính phủ, công khai phê phán và đề xuất các chính sách
thay thế.
Bầu cử dân chủ mang
tính cạnh tranh. Các đảng phái chính trị và các ứng cử viên đối lập
phải có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và đi lại để công khai chỉ
trích chính phủ và đưa ra trước cử tri các chính sách và các ứng cử
viên thay thế. Nếu chỉ cho phép phe đối lập tiếp cận lá phiếu thì chưa
đủ. Đảng cầm quyền có thể có lợi thế vì đang nắm quyền, nhưng các
nguyên tắc và thủ tục tranh cử phải công bằng. Mặt khác, quyền tự do
hội họp dành cho các đảng đối lập không ám chỉ tình trạng lộn xộn hay
bạo lực. Đó là tranh luận.
Các
cuộc bầu cử dân chủ diễn ra định kỳ. Các nền dân chủ không bầu lên các
nhà độc tài hay các tổng thống suốt đời. Các quan chức được bầu lên
phải có trách nhiệm trước nhân dân. Nếu muốn tiếp tục được ủy nhiệm nắm
quyền, họ phải quay trở lại với cử tri tại các cuộc bầu cử giữa kỳ và
phải đối diện với khả năng không được bầu.
Các
cuộc bầu cử dân chủ có tính mở. Khái niệm tư cách công dân và cử tri
phải đủ rộng để bao gồm tất cả dân chúng trưởng thành. Một chính phủ
được bầu lên bởi một nhóm nhỏ, không nhiều thành phần tham gia, thì
không phải là một nền dân chủ – dù công việc trong nước vận hành dân
chủ đến mức nào đi nữa. Một trong những đặc điểm quan trọng của dân chủ
trong lịch sử là cuộc đấu tranh của các nhóm bị đẩy ra ngoài lề – các
nhóm sắc tộc, chủng tộc hoặc các nhóm tôn giáo thiểu số, phụ nữ – nhằm
giành quyền công dân đầy đủ và cùng với đó là quyền được bầu cử, nắm
giữ các chức vụ và tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội.
Tự
do lựa chọn là nhân tố cơ bản trong các cuộc bầu cử. Trong ảnh, các cử
tri ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô đang đưa ra lựa chọn trong năm 2006 (©
Schalk Van Zuydam/ AP Images)
Các
cuộc bầu cử có tính quyết định. Chúng quyết định giới lãnh đạo của
chính phủ trong một thời gian nhất định. Những quan chức được bầu lên
bằng phổ thông đầu phiếu nắm giữ quyền lực, chứ không đơn thuần chỉ là
các nhà lãnh đạo bù nhìn.
Các nền
dân chủ, phát triển dựa trên sự cởi mở và tính trách nhiệm, với một
ngoại lệ quan trọng nhất: bản than việc bầu cử. Để hạn chế tối đa khả
năng bị trả thù, các cử tri ở một nền dân chủ phải được bỏ phiếu kín.
Đồng thời, việc bảo vệ thùng phiếu và kiểm phiếu phải được tiến hành
công khai nhất có thể, để công dân tin tưởng rằng kết quả là chính xác
và chính phủ thực sự đã dựa vào “sự đồng thuận” của họ.
Tôn trọng đối thủ
Một
trong những khái niệm khó chấp nhận nhất đối với một số người, đặc
biệt là ở những quốc gia mà việc chuyển giao quyền lực thường diễn ra
bằng bạo lực, đó là “chấp nhận đối thủ”. Tuy nhiên, đây là một ý tưởng
quan trọng. Nó có nghĩa là về cơ bản tất cả các bên trong một nền dân
chủ đều có chung cam kết đối với những giá trị cơ bản. Các đối thủ
chính trị không nhất thiết phải thích người khác, nhưng họ phải có thái
độ khoan dung với họ và thừa nhận rằng mỗi người đều có một vai trò
quan trọng và hợp pháp. Hơn thế nữa, các nguyên tắc cơ bản của xã hội
phải khuyến khích sự khoan dung và phép lịch sự trong các cuộc tranh
luận công khai.
Trong
nền dân chủ, người thắng, kẻ thua phát động cuộc chính chiến thông qua
quốc hội. Trogn ảnh là Quốc hội Nhật Bản, Tô-ky-ô (© AFP/Getty Images)
Khi
các cuộc bầu cử đã xong, người thua phải chấp nhận quyết định của cử
tri. Nếu đảng cầm quyền thất bại, đảng đó phải chuyển giao quyền lực
hòa bình. Bất chấp người thắng là ai, cả hai bên phải nhất trí hợp tác
trong việc giải quyết những vấn đề chung của xã hội. Phe đối lập tiếp
tục tham gia vào đời sống chung với sự thừa nhận rằng họ đóng vai trò
quan trọng ở bất cứ nền dân chủ nào. Phe đối lập không phải trung thành
với những chính sách cụ thể của chính phủ mà là trung thành với tính
hợp pháp cơ bản của nhà nước và tiến trình dân chủ. Rốt cuộc thì các
cuộc bầu cử dân chủ không phải là một cuộc đấu tranh sinh tồn mà là một
cuộc cạnh tranh để phục vụ.
Quản lý bầu cử
Ở
mỗi nền dân chủ, cách thức các quan chức được bầu lên rất khác nhau.
Ví dụ, ở cấp độ quốc gia, các nghị sĩ có thể do các các khu vực bầu cử
bầu ra – trong đó mỗi khu vực bầu một đại diện. Quy định này được gọi
là hệ thống bầu cử “người thắng được tất”. Một cách khác, theo hệ thống
tỷ lệ đại diện, số đại diện của mỗi đảng ở cơ quan lập pháp tính theo
tổng phiếu bầu trên toàn quốc. Các cuộc bầu cử cấp tỉnh và địa phương
có thể theo mô hình ở cấp quốc gia này.
Dù
theo hệ thống nào đi nữa, các tiến trình bầu cử phải được đánh giá là
công bằng và cởi mở để kết quả bầu cử được công nhận là hợp pháp. Các
quan chức phải đảm bảo quyền tự do rộng mở cho người tham gia đăng ký
cử tri hoặc chạy đua vào một chức vụ; điều hành hệ thống công bằng nhằm
đảm bảo việc bỏ phiếu kín nhưng kiểm phiếu mở, công khai; ngăn chặn
gian lận phiếu bầu và nếu cần thiết kiểm lại phiếu và giải quyết tranh
chấp bầu cử.
PHÁP QUYỀN
Trong
phần lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn giản là ý chí của tầng lớp
cai trị. Ngược lại, các nền dân chủ đã định ra nguyên tắc pháp trị đối
với cả kẻ cai trị lẫn người bị trị.
Bình đẳng trước pháp luật
Pháp
quyền bảo vệ các quyền kinh tế, chính trị và xã hội cơ bản, đồng thời
bảo vệ nhân dân trước mối đe dọa của chế độ chuyên chế và tình trạng
không luật pháp. Pháp quyền có nghĩa là không một cá nhân nào, cả tổng
thống lẫn người dân, được đứng trên luật pháp. Các chính phủ dân chủ sử
dụng quyền lực theo pháp quyền và bản thân họ chịu những giới hạn mà
luật pháp quy định.
Công dân sống
ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân theo luật pháp của xã hội bởi vì họ
đang tuân thủ chính những nguyên tắc và quy định của bản thân.
Công
lý được thực hiện tốt nhất khi luật pháp được người dân xây dựng nên
và chính họ phải tuân theo luật pháp đó. Dù giàu hay nghèo, dù là người
thuộc phe đa số hay phe thiểu số, dù là đồng minh chính trị của nhà
nước hay là những người đối lập hòa bình, tất cả đều phải tuân thủ luật
pháp.
Công dân của một nền dân
chủ tuân thủ luật pháp bởi vì họ nhận thức rằng, mặc dù gián tiếp,
nhưng họ đang tuân theo chính họ với tư cách là những người làm luật.
Khi luật pháp do nhân dân xây dựng nên và sau đó bản thân họ phải tuân
theo luật pháp đó, thì cả luật lẫn nền dân chủ đều được phục vụ.
Tiến trình xét xử đúng luật
Trong
một nền dân chủ, xét xử phải mở công khai cho dân chúng theo dõi.
Trong ảnh một nhóm thanh niên Mỹ học về quyền lợi và bổn phận công dân
và đưa ra lựa chọn mang tính hình thức (© Matt Rainey/Star
Ledger/CORBIS)
Ở mọi xã hội
trong lịch sử, những người điều hành hệ thống tư pháp nắm giữ quyền
lực có khả năng lạm dụng quyền lực và trở nên chuyên quyền. Dưới danh
nghĩa nhà nước, các cá nhân bị bỏ tù, bị tịch thu tài sản, bị tra tấn,
trục xuất và hành quyết nhưng không được chứng minh là có tội và thường
không bị buộc tội danh chính thức nào cả. Không một xã hội dân chủ nào
cho phép xảy ra tình trạng lạm dụng như vậy.
Các
nhà nước phải có quyền lực để duy trì trật tự và trừng phạt những hành
vi phạm tội, nhưng thủ tục tố tục theo đó nhà nước thực thi luật phải
công khai và rõ rang – không được xử kín, tùy tiện hoặc bị chính trị
hóa – và phải được áp dụng như nhau đối với tất cả mọi người. Đó chính
là quy trình xét xử đúng luật. Để thực hiện tiến trình xét xử đúng
luật, dưới đây là các nguyên tắc đã phát triển ở các nền dân chủ theo
hợp hiến • Cảnh sát không được vào nhà dân lục soát nếu không có lệnh
của tòa án cho thấy có lý do chính đáng để tiến hành lục soát. Ở một
nền dân chủ không có việc cảnh sát mật được gõ cửa các gia đình vào lúc
nửa đêm.
- • Không ai bị giam
giữ nếu không có những cáo buộc rõ ràng, bằng văn bản nêu rõ vi phạm.
Hơn thế nữa, theo quy định về lệnh đình quyền giam giữ, tất cả những ai
bị bắt đều có quyền được đưa ra tòa xử và phải được thả nếu tòa thấy
việc bắt giữ là không có cơ sở.
- • Trước khi xét xử, không được
giam giữ những người bị cáo buộc tội lâu trong tù. Họ có quyền được xét
xử công khai, nhanh chóng và đối chất với nguyên đơn.
- • Các
nhà chức trách phải cho bảo lãnh hoặc thả có điều kiện bị cáo đang chờ
xét xử nếu thấy nghi phạm khó có thể trốn chạy hoặc vi phạm các tội
khác.
- • Người dân không bị ép buộc làm chứng chống lại bản thân.
Quy định nhằm ngăn chặn tình trạng tự phân biệt đối xử miễn cưỡng này
phải là quy định dứt khoát. Do vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào cảnh
sát cũng không được tra tấn hoặc xâm phạm về thể chất lẫn tâm lý đối
với nghi phạm.
- • Người dân không bị kết án hai lần, có nghĩa là
không thể bị cáo buộc hai lần cùng một tội danh nếu họ đã thụ án tại
một tòa án.
- • Do có khả năng bị các nhà chức trách lạm dụng nên
cái gọi là luật hồi tố cũng được xây dựng. Đây là những điều luật đưa
ra sau khi xảy ra sự việc, tức là một người vẫn có thể bị cáo buộc tội
danh ngay cả khi hành vi của anh ta ở thời điểm xảy ra chưa được quy
định là phạm tội.
- • Cấm các hình thức trừng phạt dã man hoặc bất
bình thường. Không quy định nào trong số những quy định này có nghĩa
là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi luật và trừng phạt
người vi phạm. Trái lại, hệ thống tư pháp ở một nền dân chủ sẽ hiệu quả
nếu việc điều hành hệ thống đó được nhân dân đánh giá là công bằng và
bảo vệ được an toàn cá nhân, cũng như phục vụ lợi ích công cộng.
CHỦ NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến
pháp – văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ bản của chính phủ và
những hạn chế đối với quyền lực của nhà nước – là một thiết chế quan
trọng đối với bất cứ nền dân chủ nào.
Các hiến pháp: Siêu luật
Hiến
pháp quy định những mục đích và khát vọng cơ bản của một xã hội vì lợi
ích chung của người dân. Mọi công dân, kể cả các lãnh đạo nhà nước,
phải tuân thủ hiến pháp quốc gia. Hiến pháp là bộ luật cao nhất của
quốc gia.
Hiến pháp – thường được
pháp điển hóa thành một văn kiện riêng biệt – quy định quyền lực của
chính phủ quốc gia, quy định bảo vệ các quyền con người cơ bản và quy
định trình tự hoạt động cơ bản của chính phủ. Các hiến pháp thường được
dựa trên những thực tiễn và tiền lệ chưa được pháp điển hóa trước đó
nhưng đã được chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, Hiến pháp Mỹ được dựa trên
những khái niệm xuất phát từ thông luật của Anh, cũng như nỗ lực của
các triết gia thế kỷ XVIII nhằm định nghĩa các quyền con người.
Ký thông qua Hiến pháp Mỹ, Philadelphia, 1787 (© Bettmann/CORBIS)
Chủ
nghĩa hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ và có trách nhiệm phải
chịu những giới hạn rõ ràng. Bởi vậy, mọi bộ luật phải được soạn thảo
phù hợp với hiến pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp độc lập về
chính trị cho phép công dân có quyền đòi thay đổi những bộ luật mà họ
cho là không hợp hiến và yêu cầu tòa án ra phán quyết đối với những
hành vi bất hợp pháp của chính phủ hoặc của các quan chức chính phủ.
Dù
bản chất hiến pháp là lâu dài và có ý nghĩa rất lớn, nhưng vẫn phải có
khả năng thay đổi và thích nghi nếu chúng không muốn trở thành thứ đồ
cổ chỉ để ngắm mà thôi. Hiến pháp lâu đời nhất trên thế giới – Hiến
pháp Mỹ – bao gồm 7 điều khoản ngắn gọn và 27 điều sửa đổi bổ sung. 10
điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Mỹ được gọi là Tuyên ngôn
Nhân quyền. Tuy nhiên, văn kiện này cũng là nền tảng của cấu trúc mang
tính “hiến pháp” rộng lớn gồm các quyết định pháp lý, bộ luật, hành
động của tổng thống và những thông lệ đã được phát triển trong 200 năm
qua, góp phần giữ cho Hiến pháp Mỹ phù hợp đến hôm nay.
Nhìn
chung, có hai trường phái liên quan đến tiến trình sửa đổi, hoặc thay
đổi hiến pháp của một quốc gia. Một trường phái cho rằng tốt nhất là
đưa ra một quy trình khó khăn, yêu cầu phải qua nhiều bước và phải có
sự chấp thuận của đa số lớn nếu muốn sửa đổi. Như vậy, hiến pháp sẽ
thay đổi không thường xuyên và chỉ khi nào có những lý do thật bức xúc
thì việc thay đổi hiến pháp mới nhận được sự ủng hộ lớn của dân chúng.
Đó là trường phái Mỹ.
Phương pháp
thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà nhiều nước sử dụng là quy định
rằng bất cứ điều sửa đổi nào đều có thể đưa ra để quốc hội chấp thuận
và sau đó cử tri thông qua tại cuộc bầu cử tiếp theo. Những hiến pháp
được sửa đổi theo kiểu này có thể sẽ rất dài.
Chủ nghĩa liên bang: Phân tán quyền lực
Khi
người dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ hiến pháp được nhất trí,
khuôn khổ đó có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Một số
nền dân chủ có các cơ quan quản lý đơn nhất. Những nền dân chủ khác
0theo hệ thống chính phủ liên bang – tức là quyền lực được chia sẻ ở
cấp độ địa phương, khu vực và quốc gia.
Ví
dụ, Mỹ là một nền cộng hòa liên bang trong đó các bang có vị trí pháp
lý của riêng họ và quyền lực độc lập với chính phủ liên bang. Không
giống với sự phân chia chính trị ở các quốc gia như Anh và Pháp – những
nước có cấu trúc chính trị đơn nhất – ở Mỹ chính quyền liên bang không
có quyền xóa bỏ hay thay đổi các bang. Ở Mỹ, mặc dù quyền lực ở cấp
liên bang ngày càng gia tăng đáng kể, nhưng các bang vẫn có những trách
nhiệm quan trọng trong những lĩnh vực như giáo dục, y tế, giao thông
và thực thi luật. Đổi lại, các bang ngày càng đi theo mô hình liên bang
khi trao bớt chức năng cho cộng đồng địa phương, chẳng hạn như quản lý
các trường học và cảnh sát.
Sự
phân chia quyền lực trong hệ thống liên bang không bao giờ là rõ ràng.
Các cơ quan liên bang, bang và địa phương, tất cả đều có các chương
trình nghị sự chồng chéo nhau và thậm chí là xung đột trong những lĩnh
vực như giáo dục và luật hình sự. Tuy nhiên, hình thức liên bang có thể
tối đa hóa cơ hội tham gia của người dân – nhân tố vô cùng quan trọng
đối với sự vận hành của xã hội dân chủ. Người Mỹ cho rằng cấu trúc liên
bang của họ bảo vệ được quyền tự trị của cá nhân.
BA TRỤ CỘT CỦA CHÍNH PHỦ
Như
đã trình bày, thông qua các cuộc bầu cử tự do, công dân của một nền
dân chủ chuyển giao quyền lực cho các nhà lãnh đạo của họ theo quy định
của luật pháp. Trong một nền dân chủ hợp hiến, quyền lực của chính phủ
được phân chia để nhánh lập pháp ban hành luật, nhánh hành pháp thi
hành luật và nhánh tư pháp hoạt động độc lập ngang với hai nhánh trên.
Những quy định này đôi khi được gọi là “chia sẻ quyền lực”. Tuy nhiên
trên thực tế, sự phân chia đó hiếm khi rõ ràng và ở hầu hết các nhà
nước dân chủ hiện đại, những quyền này vẫn bị chồng chéo và được chia
sẻ như chúng đã được tách ra. Các cơ quan lập pháp có thể muốn quản lý
các chương trình bằng những quy định chi tiết; các cơ quan hành pháp
thường xuyên tham gia vào hoạt động làm luật chi tiết; cả các nghị sĩ
lẫn các quan chức chính phủ đều tiến hành điều trần theo kiểu tư pháp
về hàng loạt vấn đề.
Hành pháp
Ở các nền dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp nhìn chung bị giới hạn ở ba phương diện:
(i)
Sự phân chia quyền lực giữa ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp như
đã trình bày ở trên trong đó ngành lập pháp và tư pháp có thể kiểm soát
quyền lực của ngành hành pháp;
(ii) Các quy định của hiến pháp về việc bảo vệ các quyền cơ bản và
(iii) Các cuộc bầu cử theo định kỳ.
Những
người chuyên quyền và những người chỉ trích khác đều hiểu sai khi cho
rằng các nền dân chủ thiếu quyền lực để trấn áp, đồng thời cũng thiếu
quyền lực để cai trị. Quan điểm này hoàn toàn sai lạc: Các nền dân chủ
đòi phải giới hạn quyền lực của chính phủ, chứ không phải họ yếu kém.
Quyền hành pháp ở các nền dân chủ hiện đại nhìn chung được tổ chức theo
một trong hai cách sau: hệ thống nghị viện hoặc tổng thống.
Trong
hệ thống nghị viện, đảng đa số (hoặc liên minh các đảng sẵn sàng cùng
nhau nắm quyền) trong cơ quan lập pháp sẽ thành lập chính phủ, đứng đầu
là một thủ tướng. Ngành lập pháp và hành pháp không hoàn toàn khác
biệt với nhau trong hệ thống nghị viện, do thủ tướng và các thành viên
nội các đều là người của quốc hội; dù vậy nhưng thủ tướng là nguyên thủ
quốc gia.
Ngược lại, trong hệ
thống tổng thống, tổng thống thường được bầu lên riêng rẽ từ các thành
viên của cơ quan lập pháp. Cả tổng thống lẫn cơ quan lập pháp đều có cơ
sở quyền lực và các khu vực cử tri riêng, chúng kiểm soát và cân bằng
lẫn nhau.
Mỗi hệ thống đều có
những điểm mạnh, điểm yếu về thể chế. Đặc trưng cơ bản của hệ thống
nghị viện mà cho đến nay tạo nên đa số các nền dân chủ chính là khả
năng ứng phó và linh hoạt của chúng. Các chính phủ trong hệ thống nghị
viện, đặc biệt là nếu được bầu lên thông qua tỉ lệ đại diện, có xu
hướng hình thành các hệ thống đa đảng, trong đó ngay cả những đảng nhỏ
cũng có đại diện tại cơ quan lập pháp. Do vậy, các nhóm thiểu số vẫn có
thể tham gia vào tiến trình chính trị ở cấp cao nhất của chính phủ.
Nếu như liên minh cầm quyền sụp đổ hoặc đảng mạnh nhất thất bại, thủ
tướng từ chức và một chính phủ mới sẽ được hình thành hoặc các cuộc bầu
cử mới sẽ diễn ra – tất cả điều diễn ra trong khoảng thời gian ngắn.
Hạ
viện Anh là một trong những thiết chế dân chủ thành công nhất và lâu
đời nhất trên thế giới (© Deryc Sands/UK Parliament Copyright)
Điểm
yếu cơ bản đối với hệ thống nghị viện chính là mặt trái của sự linh
hoạt và chia sẻ quyền lực, đó là tính bất ổn định. Các liên minh đa
đảng có thể lỏng lẻo và sụp đổ ngay khi nổ ra khủng hoảng chính trị,
khiến cho các chính phủ cầm quyền chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và
không có khả năng giải quyết các vấn đề chính trị khó khăn. Nói cách
khác, các hệ thống nghị viện khác sẽ ổn định nhờ có các đảng chiếm đa
số mạnh.
Đối với hệ thống tổng
thống, điểm mạnh chủ yếu là trách nhiệm trực tiếp, tính liên tục và sức
mạnh. Các tổng thống – được dân bầu lên trong một nhiệm kỳ cố định –
có thể khẳng định quyền lực từ các cuộc bầu cử trực tiếp, bất chấp vị
thế của đảng họ tại quốc hội. Bằng việc xây dựng các nhánh chính quyền
riêng rẽ và bình đẳng về mặt lý thuyết, hệ thống tổng thống muốn xây
dựng các thể chế hành pháp và lập pháp mạnh, mỗi thể chế đều được nhân
dân uỷ quyền và có khả năng kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Điểm
yếu của các tổng thống và cơ quan lập pháp được bầu lên riêng rẽ là
khả năng dẫn đến bế tắc. Các tổng thống có thể không lôi kéo đủ đồng
minh chính trị trong cơ quan lập pháp để bỏ phiếu thông qua các chính
sách mà họ muốn. Tuy nhiên, với việc sử dụng quyền phủ quyết (trong các
trường hợp nhất định đây là quyền được bác bỏ các luật do quốc hội
thông qua), tổng thống có thể ngăn không cho cơ quan lập pháp ban hành
các chương trình làm luật riêng của họ. Nhà khoa học chính trị Richard
Neustadt
đã mô tả quyền lực của
tổng thống Mỹ là “không phải quyền ra lệnh, mà là quyền thuyết phục”.
Neustadt muốn nói rằng tổng thống Mỹ nào muốn Quốc hội ban hành chương
trình nghị sự pháp luật mà được tổng thống ưa thích – hoặc ít nhất là
tránh ban hành những luật mà tổng thống không nhất trí vì được các đối
thủ chính trị thông qua – đều phải có được sự ủng hộ chính trị của dân
chúng và có khả năng lôi kéo liên minh hiệu quả tại Quốc hội.
Lập pháp
Các
cơ quan lập pháp được bầu lên – dù là theo hệ thống nghị viện hay tổng
thống – đều là diễn đàn chủ yếu để soạn thảo, tranh luận và thông qua
luật trong một nền dân chủ đại diện. Những cơ quan này không phải là
cái gọi là những quốc hội bù nhìn, chỉ có việc thông qua những quyết
định của một lãnh đạo chuyên quyền.
Khi
không nắm quyền, phe đối lập chỉ trích và kiểm soát chính phủ. Lãnh tụ
đảng đối lập Tây Ban Nha phát biểu trước báo giới (© Bru Garcia/
AFP/Getty Images)
Các nghị
sĩ có thể chất vấn các quan chức chính phủ về những hành động và quyết
định của họ, phê chuẩn ngân sách quốc gia và thông qua thành viên chính
phủ bổ nhiệm vào tòa án và các bộ. Ở một số nền dân chủ, các ủy ban
lập pháp là diễn đàn cho các nhà làm luật công khai xem xét các vấn đề
quốc gia. Các nghị sĩ có thể ủng hộ chính phủ đang nắm quyền hoặc họ có
thể là lực lượng chính trị đối lập đề xuất những chính sách hoặc các
chương trình thay thế.
Các nghị
sĩ có trách nhiệm giải thích quan điểm của họ một cách hiệu quả nhất có
thể. Tuy nhiên, họ phải làm việc trong khuôn khổ đạo đức dân chủ với
sự khoan dung, tôn trọng và thỏa hiệp để có được sự nhất trí có lợi vì
lợi ích chung của người dân, chứ không chỉ vì những người ủng hộ họ về
mặt chính trị. Mỗi nghị sĩ phải tự mình quyết định cách cân bằng giữa
lợi ích chung và nhu cầu của bộ phận cử tri địa phương.
Do
thiếu đặc điểm phân chia quyền lực của hệ thống tổng thống, nên hệ
thống nghị viện phải dựa nhiều hơn vào động lực chính trị bên trong của
hệ thống này để kiểm soát và cân bằng quyền lực của chính phủ. Những
động lực này thường là phe đối lập được tổ chức riêng rẽ “bao vây”
chính phủ hoặc cạnh tranh giữa các đảng đối lập.
Ngành tư pháp độc lập
Các
thẩm phán có chuyên môn và độc lập là nền tảng của một hệ thống tòa án
công bằng, vô tư và được hiến pháp bảo vệ. Sự độc lập này không có
nghĩa là các thẩm phán có thể đưa ra những quyết định dựa trên ý muốn
cá nhân họ. Họ phải được tự do đưa ra các quyết định pháp lý – ngay cả
khi những quyết định đó mâu thuẫn với chính phủ hoặc các đảng có quyền
lực khác có liên quan tới vụ việc.
Ở
các nền dân chủ, cấu trúc hiến pháp mang tính bảo vệ và uy tín của
ngành tư pháp bảo đảm sự độc lập trước áp lực chính trị. Do vậy, các
phán quyết của ngành tư pháp mới vô tư, dựa trên thực tiễn vụ việc, các
lập luận pháp lý và các luật liên quan, không bị chính phủ hoặc cơ
quan lập pháp áp đặt hạn chế hoặc gây áp lực. Những nguyên tắc này đảm
bảo mọi người đều được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Quyền
của các thẩm phán được xem xét lại các bộ luật và tuyên bố các luật đó
vi phạm hiến pháp là hình thức kiểm soát cơ bản khả năng chính phủ lạm
dụng quyền lực – ngay cả khi chính phủ đó được bầu lên bằng đa số. Tuy
nhiên, quyền này đòi hỏi các tòa án phải được nhìn nhận là độc lập và
phi đảng phái và có khả năng đưa ra quyết định dựa trên luật pháp chứ
không phải các tính toán chính trị.
Dù
được bầu lên hay được chỉ định, các thẩm phán đều phải được an toàn
trong nghề nghiệp hoặc nhiệm kỳ theo quy định của luật pháp, để họ có
thể đưa ra những quyết định mà không phải lo ngại những người có quyền
lực gây áp lực hoặc tấn công. Để đảm bảo sự vô tư, không thiên vị của
họ, đạo đức tư pháp đòi hỏi các thẩm phán phải đứng bên ngoài (hoặc náu
mình) không được ra quyết định trong các vụ việc mà họ có xung đột lợi
ích cá nhân. Tin tưởng vào sự vô tư, không thiên vị của hệ thống tòa
án – tin tưởng vào việc nó được đánh giá là một nhánh chính quyền “phi
chính trị” – là nhân tố cơ bản quyết định sức mạnh và tính hợp pháp của
ngành tư pháp.
Thẩm phán ở một
nền dân chủ không thể bị bãi nhiệm vì những khiếu nại nhỏ nhặt, hoặc
chỉ là đáp ứng sự chỉ trích chính trị. Thay vào đó, họ chỉ có thể bị
bãi nhiệm nếu vi phạm những tội ác nghiêm trọng hoặc vi phạm luật thông
qua thủ tục luận tội và xét xử kéo dài và nhiều bước (để đưa ra các
cáo buộc) tại cơ quan lập pháp hoặc trước một hội đồng tòa án riêng rẽ.
GIỚI TRUYỀN THÔNG ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO
Khi
các xã hội hiện đại phát triển cả về quy mô lẫn tính phức tạp, lĩnh
vực thông tin, liên lạc và tranh luận công khai ngày càng bị các phương
tiện truyền thông đã chi phối, trong đó có phát thanh, truyền hình,
báo, tạp chí, đặc biệt là những phương tiện truyền thông mới như
Internet và truyền hình vệ tinh.
Dù
là nhật ký điện tử hay sách in thì trong xã hội dân chủ chức năng của
truyền thông vẫn có sự chồng chéo, nhưng những chức năng riêng vốn có
của nó về cơ bản vẫn giữ nguyên, đó là tính thông tin và tính giáo dục.
Để đưa ra những quyết sách đúng đắn về chính sách công, người ta cần
thông tin chính xác, kịp thời và công bằng. Tuy nhiên, một chức năng
khác nữa của truyền thông là cổ xúy, ngay cả khi tỏ ra thiếu khách
quan. Khán giả của các phương tiện truyền thông có thể tiếp cận những ý
kiến khác nhau, thậm chí xung đột nhau, từ đó nắm bắt nhiều loại quan
điểm khác nhau. Vai trò này của truyền thông đặc biệt quan trọng trong
các chiến dịch vận động tranh cử, vì rất ít cử tri chỉ có cơ hội nhìn
thấy các ứng cử viên, nói gì đến việc trò chuyện với họ.
Chức
năng thứ hai của truyền thông là giám sát hoạt động của Chính phủ và
các thể chế quyền lực trong xã hội. Nhờ có sự khách quan và độc lập –
mặc dù chưa hoàn hảo – truyền thông đã giúp phơi bày sự thật đằng sau
những tuyên bố của chính phủ và buộc các quan chức chính phủ phải có
trách nhiệm về những hành động của họ.
Muốn có tự do bày tỏ quan điểm phải có các dịch vụ thông tin – báo chí mạnh mẽ và đa diện (© Romeo Gacad/AFP/Getty Images)
Truyền
thông cũng có thể đóng một vai trò tích cực hơn trong cuộc tranh luận
công khai thông qua các bài xã luận hoặc báo cáo điều tra. Đồng thời,
nó là một diễn đàn để các cá nhân và các nhóm bày tỏ quan điểm qua thư
và bài viết và những thông tin đưa lên mạng, với rất nhiều quan điểm
khác nhau.
Các nhà bình luận còn
chỉ ra một vai trò ngày càng quan trọng nữa của truyền thông là “xây
dựng chương trình nghị sự”. Do không thể thông tin về tất cả, nên các
phương tiện truyền thông phải chọn vấn đề nào cần nhấn mạnh và vấn đề
nào nên bỏ qua. Tóm lại, họ có xu hướng phải quyết định cái gì là tin
tức và cái gì không. Đổi lại, những quyết định này sẽ ảnh hưởng đến
nhận thức của công chúng về vấn đề quan trọng nhất. Tuy nhiên, không
giống với các nước mà ở đó truyền thông bị chính phủ quản lý, truyền
thông ở một nền dân chủ không thể đơn giản cứ theo ý muốn mà xuyên tạc
hay làm ngơ trước các vấn đề. Vì rút cục thì các đối thủ cạnh tranh
được tự do kêu gọi sự quan tâm, chú ý đối với danh sách những vấn đề
quan trọng của họ.
Công dân ở một nền dân chủ tin tưởng rằng với sự trao đổi cởi mở các ý tưởng và quan điểm, cuối
Tự
do bày tỏ quan điểm cũng thể hiện dưới hình thức hội họp và biểu tình
hòa bình. Trong ảnh là tập hợp lực lượng chính trị ở Zanzibar, 2005 (©
Karel Prinsloo – Ảnh AP)
cùng
sự thật sẽ chiến thắng, giá trị của những người khác sẽ được hiểu rõ
hơn, những lĩnh vực thỏa hiệp sẽ được xác định rõ hơn và con đường tiến
bộ sẽ mở ra. Mức độ trao đổi càng lớn càng tốt.
Nhà
văn E.B. White nhận xét: “Giới báo chí ở đất nước tự do của chúng ta
là đáng tin cậy và hữu ích không phải bởi đặc điểm tốt của nó mà bởi
chính tính đa dạng của nó. Chừng nào còn nhiều người sở hữu các phương
tiện truyền thông, mà mỗi người đều theo đuổi lĩnh vực tìm kiếm sự thật
riêng của mình, khi đó chúng ta còn cơ hội đến với sự thật và sống
trong sự thật… đông người thì không sợ gì cả”.
CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ, NHÓM LỢI ÍCH, TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
Không
thể yêu cầu công dân tham gia vào tiến trình chính trị, nhưng nếu
không có hành động của công dân, nền dân chủ sẽ bị suy yếu. Công dân có
quyền tự do hội họp và thành lập những tổ chức của riêng mình nếu thấy
phù hợp. Đó là nhân tố cơ bản của dân chủ.
Các đảng phái chính trị
Các
đảng phái chính trị thu nạp, chỉ định và vận động tranh cử để bầu lên
các quan chức; xây dựng các đường lối chính sách cho chính phủ nếu họ
là đảng nắm đa số; chỉ trích hoặc đề xuất các chính sách thay thế nếu
họ là đảng đối lập; huy động các nhóm lợi ích ủng hộ các chính sách
chung; giải thích cho công chúng về những vấn đề công; xây dựng cơ cấu
và nguyên tắc tiến hành tranh luận chính trị trong xã hội. Trong một số
hệ thống chính trị, ý thức hệ có thể là một nhân tố quan trọng trong
việc thu nạp và khuyến khích các thành viên trong đảng. Ở các hệ thống
chính trị khác, lợi ích kinh tế hoặc tình hình xã hội có thể quan trọng
hơn cam kết về ý thức hệ.
Các tổ chức đảng và những thủ tục hoạt
động trong các đảng phái rất khác nhau. Ở một góc độ, hệ thống nghị
viện đa đảng là tổ chức được quy định chặt chẽ nhất, hoàn toàn do các
nhà chuyên môn điều hành. Ở góc độ khác là nước Mỹ nơi có Đảng Dân chủ
và Đảng Cộng hòa là những tổ chức phi tập trung hóa hoạt động phần lớn
tại Quốc hội và cấp bang. Rồi cứ bốn năm một lần các tổ chức này lại
tập hợp lại ở cấp quốc gia để khởi động chiến dịch tranh cử tổng thống.
Các chiến dịch bầu cử ở một nền dân chủ thường phức tạp, tốn nhiều
thời gian và đôi khi rất ngớ ngẩn, nhưng vai trò của chúng rất quan
trọng. Bầu cử là phương pháp hòa bình và công bằng, theo đó người dân
có thể lựa chọn các nhà lãnh đạo và quyết định chính sách công.
Các nhóm lợi ích và tổ chức phi chính phủ
Chất
vấn mạnh mẽ các quan chức chính trị đặc điểm của các xã hội tự do.
Trong ảnh là một nhà báo phỏng vấn một ứng cử viên tổng thống Pháp (©
Owen Franken/CORBIS)
Công
dân ở một nền dân chủ có thể tham gia các tổ chức cá nhân hoặc tình
nguyện, trong đó có các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích cố gắng bằng
cách nào đó gây ảnh hưởng đối với chính sách công và thuyết phục các
quan chức ủng hộ những quan điểm của họ. Chỉ trích có thể làm giảm ảnh
hưởng của những “lợi ích đặc biệt” nhưng nó giúp người dân nhận ra rằng
nền dân chủ bảo vệ quyền của những nhóm lợi ích như vậy để tổ chức và
đấu tranh cho những quyền lợi của họ.
Nhiều
nhóm lợi ích truyền thống đã được tổ chức xuất phát từ các vần đề kinh
tế; các nhóm kinh doanh và nông nghiệp; các liên đoàn lao động tiếp
tục có ảnh hưởng lớn trong hầu hết các hệ thống dân chủ. Tuy nhiên,
trong vài thập kỷ gần đây, các nhóm lợi ích đã lớn mạnh cả chất lượng
lẫn số lượng, bao quát hầu hết các lĩnh vực như xã hội, văn hóa, chính
trị và thậm chí cả các hoạt động tôn giáo. Các tổ chức chuyên môn cũng
lớn mạnh cùng các nhóm lợi ích công ủng hộ sự nghiệp của họ từ cải
thiện việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo đến bảo vệ môi trường –
những vấn đề có thể không trực tiếp đem lại lợi ích cho thành viên các
nhóm. Bản thân các chính phủ có thể cũng hoạt động giống các nhóm lợi
ích. Ở Mỹ, các hiệp hội thống đốc bang, thị trưởng những thành phố lớn
và các cơ quan lập pháp bang thường xuyên vận động quốc hội Mỹ thông
qua những vấn đề mà họ quan tâm. Động lực của nền chính trị nhóm lợi
ích khá phức tạp. Quy mô của các nhóm có vai trò quan trọng, các nhóm
với số lượng lớn thành viên trên cả nước sẽ tự động lôi kéo được sự
quan tâm chú ý của các quan chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
những nhóm có quy mô nhỏ, được tổ chức chặt chẽ và cam kết mạnh mẽ đối
với những vấn đề của họ cũng có thể gây ảnh hưởng lớn so với số lượng
thành viên của họ. Một
Các
tổ chức phi chính phủ hoạt động trên khắp thế giới. Trong ảnh một nhân
viên cứu trợ của Uganda đang sử dụng một máy tính năng lượng mặt trời
do một tổ chức phi chính phủ Mỹ cấp (Euan Deholm/ Reuters – Kamal
Kishore/Reuters)
trong
những phát triển đáng kinh ngạc nhất trong vài thập kỷ gần đây là sự
xuất hiện các tổ chức phi chính phủ trên quy mô toàn cầu. Với nỗ lực
phục vụ nhu cầu của cộng đồng, quốc gia hay vì một sự nghiệp được xác
định là những vấn đề toàn cầu, các tổ chức phi chính phủ này cố gắng hỗ
trợ, thậm chí thách thức sự điều hành của chính phủ bằng cách ủng hộ,
tuyên truyền và thu hút sự chú ý đối với những vấn đề chủ yếu và giám
sát hoạt động của chính phủ và khu vực tư nhân. Các chính phủ và tổ
chức phi chính phủ luôn là đối tác của nhau. Các tổ chức phi chính phủ
cung cấp chuyên gia và hướng dẫn chuyên môn nhằm thực hiện những dự án
do chính phủ tài trợ. Các tổ chức phi chính phủ có thể không có liên
kết về chính trị hoặc có thể hoạt động trên lý tưởng đảng phái và tìm
cách thúc đẩy một sự nghiệp cụ thể hoặc một loạt sự nghiệp nào đó vì
lợi ích của nhân dân. Dù hoạt động theo hướng nào thì vấn đề mấu chốt
là ở chỗ nhà nước kiểm soát hoạt động của các tổ chức phi chính phủ ở
mức thấp nhất.
QUAN HỆ QUÂN SỰ VÀ DÂN SỰ
Vấn
đề chiến tranh và hòa bình là vấn đề trọng yếu nhất mà bất cứ quốc gia
nào cũng có thể phải đối mặt, đặc biệt ở những thời điểm khủng hoảng.
Nhiều quốc gia phải đưa quân đội lên nắm quyền lãnh đạo. Điều đó không
xảy ra ở các nền dân chủ.
Ở các
nền dân chủ, vấn đề quốc phòng và mối đe dọa đối với an ninh quốc gia
phải do nhân dân quyết định thông qua các đại diện mà họ bầu lên. Quân
đội ở một nền dân chủ phải phục vụ đất nước chứ không lãnh đạo đất
nước. Các lãnh đạo quân đội cố vấn cho các nhà lãnh đạo được bầu lên và
thực hiện những quyết định của họ. Chỉ có những người được dân bầu lên
mới có trách nhiệm và quyền lực tối cao trong việc quyết định vận mệnh
của dân tộc. Nguyên tắc kiểm soát dân sự đối với quân đội là nguyên
tắc cơ bản của nền dân chủ.
Các
lãnh đạo dân sự cần lãnh đạo quân đội quốc gia và quyết định những vấn
đề quốc phòng không phải bởi vì họ giỏi hơn các chuyên gia quân sự mà
bởi vì họ là đại diện của nhân dân và do vậy họ có trách nhiệm đưa ra
những quyết sách và chịu trách nhiệm về những quyết định đó.
Binh lính Ucraina kiểm tra phiếu bầu ở Ki-ép năm 2002 (© Reuters/CORBIS)
Ở
một nền dân chủ, quân đội tồn tại để bảo vệ đất nước và các quyền tự
do của nhân dân. Quân đội không được đại diện hay ủng hộ bất cứ quan
điểm chính trị nào, không được ủng hộ các nhóm sắc tộc hoặc nhóm xã hội
nào. Quân đội phải trung thành với những lý tưởng lớn hơn của dân tộc,
trung thành với pháp quyền và nguyên tắc dân chủ. Mục tiêu của quân
đội là bảo vệ xã hội chứ không phải định hình xã hội.
Bất
cứ một chính phủ dân chủ nào cũng coi trọng chuyên môn và tư vấn của
các chuyên gia quân sự trong việc thực hiện các quyết sách về quốc
phòng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có lãnh đạo dân sự được bầu
ra mới có quyền đưa ra những quyết sách cuối cùng về phòng thủ quốc gia
và quân đội sau đó sẽ thực hiện những quyết định đó.
Tất
nhiên các tướng lĩnh quân đội cũng tham gia vào đời sống chính trị với
tư cách cá nhân như các công dân khác. Nhân viên quân sự có thể tham
gia bỏ phiếu bầu cử. Tuy nhiên, tất cả nhân viên quân sự phải ra khỏi
ngành hoặc nghỉ hưu mới có thể tham gia chính trị. Nghĩa vụ quân sự
phải tách biệt với chính trị. Quân đội là đầy tớ trung lập của nhà nước
và là người bảo vệ xã hội.
NỀN VĂN HÓA DÂN CHỦ
Đôi
khi con người có những mong muốn mâu thuẫn nhau. Họ muốn an toàn nhưng
lại thích thú mạo hiểm; họ muốn có tự do cá nhân, nhưng cũng đòi bình
đẳng xã hội. Nền dân chủ cũng vậy. Nhưng điều quan trọng là phải nhận
thức được rằng nhiều mâu thuẫn này, thậm chí cả nghịch lý, đều hiển
hiện ở mọi xã hội dân chủ.
Xung đột và đồng thuận
Theo
Larry Diamond – học giả đồng thời là nhà văn – giữa xung đột và đồng
thuận tồn tại một nghịch lý cơ bản. Ở nhiều phương diện, dân chủ chỉ là
một tập hợp những quy định quản lý xung đột. Đồng thời, mâu thuẫn này
phải được quản lý trong những giới hạn nhất định và dẫn đến sự thỏa
hiệp, đồng thuận hay những hình thức nhất trí khác được tất cả các bên
chấp nhận là hợp pháp. Bất cứ sự thiên vị nào đều có thể đe dọa sự cân
bằng. Nếu như các nhóm coi dân chủ chỉ là một diễn đàn để họ bày tỏ nhu
cầu thì xã hội có thể đổ vỡ từ bên trong. Nếu chính phủ gây sức ép lớn
nhằm đạt được sự đồng thuận, bất chấp ý kiến của nhân dân thì xã hội
có thể bị đổ vỡ từ bên trên.
Dân
chủ cần cả xung đột và đồng thuận. Trong ảnh là những đàn ông ở Sierra
Leone đang thảo luận về luật pháp (© L.Lartigue/USAID)
Không
có giải pháp đơn giản nào để cân bằng xung đột và đồng thuận. Dân chủ
không phải là một cỗ máy có thể tự vận hành được khi những các nguyên
tắc hợp lý được đưa vào. Một xã hội dân chủ cần phải có sự cam kết của
người dân, theo đó chấp nhận xung đột chính trị và tri thức là điều tất
yếu và điều cần thiết là phải có sự khoan dung. Từ góc độ này, chúng
ta phải nhận thức được rằng nhiều xung đột trong xã hội dân chủ không
phải là sự xung đột giữa “đúng” hay “sai”, mà là xung đột về cách diễn
giải thế nào là quyền dân chủ và ưu tiên xã hội.
Giáo dục và dân chủ
Giáo
dục là một phần thiết yếu của bất cứ xã hội nào, đặc biệt quan trọng
đối với một nền dân chủ. Thomas Jeferson viết: “Nếu một quốc gia muốn
được ngu dốt và tự do trong một nền văn minh hóa có nghĩa là họ mong
muốn những gì chưa bao giờ xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra”.
Có
sự gắn kết trực tiếp giữa giáo dục và các giá trị dân chủ. Trong các
xã hội dân chủ, nội dung và thực tiễn giáo dục hỗ trợ cho những thực
tiễn trong quản lý dân chủ. Quá trình truyền bá giáo dục này cực kỳ
quan trọng ở một nền dân chủ bởi vì các nền dân chủ hiệu quả đều năng
động, xây dựng những mô hình quản lý yêu cầu người dân phải tư duy một
cách độc lập. Cơ hội tạo ra những thay đổi tích cực về chính trị – xã
hội nằm trong tay của người dân. Chính phủ không được
Công dân có giáo dục là công dân tự do (© Ted Spiegel/CORBIS)
coi
hệ thống giáo dục là phương tiện truyền bá cho học sinh mà cần dành
nguồn lực cho giáo dục giống như nỗ lực đảm bảo những nhu cầu cơ bản
khác của người dân. Đối lập với các xã hội chuyên chế tìm cách áp đặt
thái độ tiếp thu bị động, mục tiêu của nền giáo dục dân chủ là đào tạo
ra những công dân độc lập, biết đặt vấn đề và thực sự quen với những
quan niệm và thực tiễn dân chủ. Chester.E. Finn Jr., nghiên cứu viên
cao cấp của Viện Chính sách Giáo dục Hoover nói: “mọi người sinh ra vốn
đã có ham muốn tự do cá nhân, nhưng lại không biết về những dàn xếp
chính trị và xã hội giúp mang lại tự do lâu dài cho bản thân và con cái
họ…Cần phải có những dàn xếp đó. Họ cần phải biết về chúng”. Tìm hiểu
về dân chủ bắt đầu từ trường học và tiếp tục khi chúng ta tham gia vào
đời sống công dân, đồng thời xuất phát từ sự tò mò muốn biết những loại
thông tin có thể tiếp cận được trong một xã hội tự do.
Xã hội và dân chủ
Chủ
nghĩa hợp hiến dân chủ về cơ bản là nền tảng theo đó các xã hội đạt
đến sự thật – dù không hoàn thiện – thông qua xung đột và thỏa hiệp các
ý tưởng, các thể chế và cá nhân. Dân chủ là thực dụng. Ý tưởng và giải
pháp cho các vấn đề không được kiểm nghiệm trên nền tảng một hệ tư
tưởng cứng nhắc mà được kiểm nghiệm trong một thế giới thực, ở đó người
ta tranh luận, trao đổi, chấp nhận hay loại bỏ chúng. Như học giả
Diane Ravitch nhận xét: “xây dựng liên minh là bản chất của hành động
dân chủ. Xây dựng liên minh là chỉ cách cho các nhóm lợi ích thương
lượng với nhau, thỏa hiệp và vận hành trong hệ thống hiến pháp. Bằng
việc thiết lập liên minh, các nhóm có quan điểm khác nhau tìm hiểu cách
tranh luận một cách hòa bình, theo đuổi mục tiêu của họ một cách dân
chủ và cuối cùng để tồn tại trong một thế giới đa dạng”.
Chính
phủ tự quản không phải lúc nào cũng tránh được sai lầm, chấm dứt được
xung đột dân tộc, đảm bảo phát triển kinh tế hoặc giữ vững hạnh phúc.
Tuy nhiên, nó cho phép tranh luận công khai để xác định và sửa chữa
những sai lầm; cho phép các nhóm gặp gỡ và giải quyết những khác biệt;
mang đến cơ hội phát triển kinh tế và giúp nâng cao tiến bộ xã hội và
sự bày tỏ của cá nhân.
Khai thác hết năng lượng của một người vì những mục tiêu của người đó sẽ làm tăng bản sắc cá nhân (© Jupiterimages)
Josef
Brodsky, cố thi sĩ người Nga và là người đoạt giải Nobel viết: “Một
người tự do khi thất bại anh ta sẽ không đổ lỗi cho ai”. Điều này hoàn
toàn đúng đối với công dân ở các nền dân chủ. Họ phải chịu trách nhiệm
về vận mệnh của xã hội nơi họ sinh sống. Bản thân dân chủ không đảm bảo
điều gì. Thay vào đó, nó đưa đến những cơ hội thành công và cả nguy cơ
thất bại. Trong lời khẳng định mang tính cảnh báo nhưng đầy triết lý
của Thomas Jeferson, dân chủ hứa hẹn “cuộc sống, sự tự do và mưu cầu
hạnh phúc”.
Dân chủ khi đó vừa là
sự hứa hẹn và là một thách thức. Dân chủ hứa hẹn loài người tự do, hợp
tác với nhau, tự quản lý theo cách hướng tới thực hiện những khát vọng
về tự do cá nhân, cơ hội kinh tế và công bằng xã hội. Dân chủ là thách
thức bởi vì sự thành công của nền dân chủ phụ thuộc vào chính các công
dân chứ không phải ai khác.
Tự do cho phép con người một cuộc sống riêng tư và hòa bình (© Robert Crandell/The Image Works)
Trung tâm Hoa Kỳ
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội