Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2016
Tự do là gì?
12:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Quốc Thanh
Tự
do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó
gắn liền với con người như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát
triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự do vẫn phần nào bí ẩn; chúng
ta, dường như, chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác
và sử dụng nó như một công nghệ phát triển.
Thời
kỳ Khai sáng đã đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử mà còn
trong nhận thức của con người. Các học giả của thời kỳ ấy không phải
những người đầu tiên bàn về tự do nhưng họ là những người có công rất
lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới về tự do và thức tỉnh nhân
loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã đón nhận những đóng góp ấy và
là những người đầu tiên được nếm vị ngọt của tự do và hưởng thụ những
thành quả của nó.
Tuy nhiên, ở
một số vùng kém phát triển, con người vẫn mơ hồ trước tự do và dừng lại
ở việc nhận thức nó như một công cụ thỏa mãn các đòi hỏi mang tính bản
năng. Vậy đâu là căn nguyên của hiện tượng này và phải chăng, có mối
liên hệ giữa tình trạng kém phát triển với trạng thái thiếu hoặc không
có tự do? Bài viết “Biện chứng của tự do” sẽ góp phần trả lời câu hỏi
ấy.TỰ DO NHƯ MỘT PHẠM TRÙ TRIẾT HỌC
Những quan niệm về tự do
Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào (Locke)
Đây
là định nghĩa nguyên thủy nhất về tự do và cũng từng được khá nhiều
người tán đồng. Tuy nhiên, định nghĩa này có những hạn chế nhất định,
thể hiện ở chỗ nếu tự do chỉ thuần túy là khả năng con người có thể làm
bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào thì sẽ
có rất nhiều người nhân danh tự do để thỏa mãn những mong muốn hay tham
vọng cá nhân của mình, phá hoại trật tự xã hội, và do đó, làm phương
hại đến sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng.
Tự do là cái tất yếu được nhận thức (Hegel)
Nhận
thức được sự hạn chế của định nghĩa về tự do của Locke, Hegel đã xây
dựng một định nghĩa mới về tự do. Đó là, tự do là cái tất yếu được nhận
thức. Câu hỏi đặt ra là, vậy cái tất yếu là gì? Ở đây, cái tất yếu
được hiểu là các quy luật tự nhiên. Do vậy, có thể viết lại định nghĩa
về tự do của Hegel như sau: tự do là các quy luật tự nhiên được nhận
thức. Hegel cho rằng con người càng nhận thức một cách chính xác, rõ
ràng và toàn diện về cái tất yếu bao nhiêu thì càng có tự do bấy nhiêu.
Định
nghĩa này đã phát triển hơn một bước so với định nghĩa của Locke, tức
đã đưa tự do từ một trạng thái bản năng đến tự do trong mối tương quan
với cái tất yếu. Như vậy, ranh giới của trạng thái tự do và trạng thái
không có tự do chính là cột mốc nhận thức được cái tất yếu. Nhận thức
được cái tất yếu, con người sẽ không nhân danh tự do để thực hiện những
hành vi kìm hãm sự phát triển của bản thân anh ta và cả cộng đồng.
Chính lúc ấy, tự do sẽ là điều kiện tinh thần giúp con người tiếp cận
với sự phát triển thực thụ và toàn diện.
Trong
khi ở phương Tây, các học giả bàn về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm
hứng thì ở phương Đông, tự do chưa phải là một khái niệm hoàn chỉnh mà
mới chỉ được hiểu theo nghĩa tự do bản năng, hay như cái cho phép, hệ
quả là, cái gì không cho phép nghĩa là không tự do. Chẳng hạn, giải
thoát là một trong những phạm trù triết học tôn giáp Ấn Độ để chỉ trạng
thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát ra khỏi mọi sự
ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ ải của cuộc đời. Có thể nói,
triết học Ấn Độ chỉ xoay quanh giải thoát con người trong đời sống
tinh thần (gần như tiệm cận trạng thái siêu thoát) thay vì đưa ra các
tư tưởng phát triển con người bằng cách giải phóng con người khỏi những
ràng buộc. Triết học Trung Hoa cổ đại từng đề xướng tư tưởng “vô vị”
nghĩa là tự do tuyệt đối không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng dục
vọng, đam mê, ham muốn nào; tức sống, tồn tại theo bản tính tự nhiên,
không cần sự tham gia có tính chất xã hội.
Tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi
Tự
do được hiểu một cách rất khác nhau giữa các dân tộc và thậm chí, giữa
các thành viên của dân tộc. Thực ra, người ta chỉ nhận ra giá trị của
tự do khi đã bị mất tự do, hay nói cách khác, người ta chỉ cảm thấy giá
trị của tự do khi vướng phải những giới hạn của nó bởi chính những
giới hạn ấy sẽ đánh thức con người, giúp con người thoát ra khỏi trạng
thái thụ động đón nhận một phần của tự do như sự nhân nhượng của bề
trên đối với kẻ dưới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, tự do không phải
là một loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ thể chế nào mà nó là bản
chất tự nhiên của con người, tức là nó gắn liền với con người ngay từ
khi sinh ra. Có thể nói, tự do là không gian sống của mỗi cá nhân, ai
cũng có thể khai thác không gian ấy, thậm chí mở rộng nó, nếu hiểu được
bản chất và giá trị của tự do.
Tuy
nhiên, trước khi bàn về phép biện chứng của tự do, chúng ta cần phải
xây dựng một định nghĩa về tự do. Chúng tôi cho rằng, tự do là quá
trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi, hệ quả là, bất cứ xã
hội nào cho phép sự dịch chuyển song song này diễn ra một cách thuận
lợi trong một trật tự hài hòa và cân đối, xã hội ấy sẽ đạt tới trạng
thái tự do. Phép biện chứng của tự do cần phải góp phần vào việc thay
đổi nhận thức của con người về tự do, trên cơ sở ấy hỗ trợ quá trình
dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi ở mỗi cá nhân cũng như cả
cộng động. Đó chính là tiền đề của sự phát triển.
TỰ DO VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
Tự
do là một khái niệm phức tạp, đa chiều và gồm có nhiều thành tố. Nó
không phải là một cảm giác mặc dù nếu thiếu cảm giác về tự do thì cũng
không thể tạo thành khái niệm tự do. Điều quan trọng nhất là khi nghiên
cứu tự do là chúng ta phải phân tích các thành tố tạo thành khái niệm
tự do, vị trí và ảnh hưởng của từng thành tố đối với đời sống. Trên cơ
sở đó, con người sẽ nhận thức được mình nên chuyển nhượng bộ phận nào
của tự do, chuyển nhượng cho ai và vào thời điểm nào để phần tự do mình
cống hiến không trở nên vô nghĩa.
Tự
do là một trong những điều kiện ban đầu để hình thành hạnh phúc. Đồng
thời, nó là nguyên liệu đầu vào của đời sống con người, hạnh phúc chính
là kết quả của việc chuyển hóa tự do thành những sức mạnh nhất định và
toàn bộ quá trình chuyển hóa chính là tiến trình phát triển. Vì vậy,
có thể nói, phân tích tự do, hạnh phúc và quá trình phát triển chính là
phân tích quá trình vận động của tự do.
Điều
quan trọng nhất là, trên cơ sở các phân tích về tự do, chúng ta cần
phải xác lập ranh giới giữa các loại đối tượng, đó là loại đối tượng có
năng lực sử dụng và khai thác tự do và loại đối tượng không có năng
lực khai thác và sử dụng tự do, bởi tự do chỉ dành cho những người có
trình độ nhận thức nhất định. Mặc dù tự do là sở hữu tự nhiên của con
người, nhưng không phải tất cả mọi người đều có năng lực và xứng đáng
được khai thác thứ tài sản vô giá ấy. Xác lập ranh giới giữa những loại
đối tượng khác nhau sẽ giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra trong quá
trình xây dựng tự do như một công nghệ phát triển. Chỉ có như thế, tự
do mới trở thành điểm xuất phát của mọi quá trình phát triển cả về mặt
nhận thức lẫn hành vi.
Mối quan hệ giữa các thành tố của tự do
Có
thể hiểu, tự do gồm có hai thành tố quan trọng nhất là tự do nhận thức
và tự do hành động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Vậy, đâu là
mối liên hệ giữa hai thành tố này?
Tôi
cho rằng tự do nhận thức là nền tảng để con người đi tới tự do hành
động. Không có tự do nhận thức tức là không có tự do tinh thần, con
người sẽ không thể có tự do hành động bởi luôn vấp phải các rào cản về
mặt nhận thức, và do đó, con người sẽ cảm thấy bị hạn chế, bị mất tự do
ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong hành vi của mình. Điều này
hoàn toàn trái ngược với tinh thần về tự do mà chúng tôi đã đưa ra
trong phần trên, đó là tự do là sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và
hành vi. Phải hiểu rằng, tự do nhận thức sẽ tạo điều kiện cho sự phát
triển và dịch chuyển của ý nghĩ, trong khi đó, tự do hành động sẽ tạo
điều kiện cho sự dịch chuyển của hành vi song song và tương ứng với sự
dịch chuyển của ý nghĩ.
Mặt khác,
tự do nhận thức chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng các mô-đun
nhận thức, biến không gian nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng thành
một vườn ươm các mô-đun tư duy của con người. Khu vườn đó chỉ đa dạng
và phong phú chừng nào tự do hạnh phúc được công nhận như một trong
những nguyên lý căn bản nhất. Sự phong phú và đa dạng về mặt nhận thức
sẽ dẫn tới sự phong phú và đa dạng của hành động. Điều này sẽ tạo ra
không gian đa chiều trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa –
điều kiện cần và đủ để mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi nhà nước, mỗi
thể chế duy trì và phát triển sự đúng đắn của mình. Mặt khác, đến lượt
mình, tự do hành động lại tạo điều kiện cho việc mở rộng không gian
nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi thông qua tự do hành động,
con người sẽ có điều kiện làm phong phú kinh nghiệm sống, kinh nghiệm
văn hóa của mình, và do đó, có thể xúc tiến những cái mới về nhận thức
và tự điều chỉnh nhận thức của mình. Đây chính là mối liên hệ hữu cơ
giữa hai thành tố cơ bản nhất của tự do.
Mối quan hệ giữa tự do và phát triển
Chúng
ta đã trăn trở rất nhiều trước vấn đề tại sao trong lịch sử cận đại và
hiện đại phương Đông lại chậm phát triển hơn phương Tây. Để trả lời
cho câu hỏi ấy, chúng ta đã tốn rất nhiều công sức và nhiệt huyết mà
vẫn chưa tìm ra lời giải thích xác đáng. Phần lớn tài nguyên của nhân
loại nằm ở phương Đông, nhưng phương Tây là cả chiến thắng trong hầu
hết các cuộc chạy đua đến sự phát triển. Trong khi đó, ngụy biện với
chính mình, phương Đông đắm chìm và tự cổ vũ mình trong những giá trị
Châu Á đến khi nhận ra những giá trị ấy cũng chỉ là một dạng tài nguyên
chứ không thể và không phải là sự phát triển thực. Vậy đâu là căn
nguyên và lời giải của hiện tượng này?
Các
phân tích về tự do cho thấy rằng chính sự thiếu tự do ở phương Đông là
nguyên nhân sâu xa nhất gây nên tình trạng chậm phát triển, và do đó,
nhận thức lại tự do, ý nghĩa và vai trò của nó đối với đời sống cũng
như công nhận tự do như quyền và sở hữu tự nhiên của con người chính là
giải pháp triệt để để phương Đông tiếp cận sự phát triển.
Chúng
tôi tán đồng luận điểm của Amartya Sen, một trong những nhà kinh tế
học đoạt giải Nobel, khi ông cho rằng “Phát triển như là tự do”. Sở dĩ
có thể nói như vậy là bởi cấu trúc tự do, nói chung, gồm có tự do kinh
tế, tự do chính trị và tự do tinh thần. Tự do kinh tế chính là nguyên
khí của nền kinh tế thị trường – giải pháp duy nhất để phát triển kinh
tế. Tự do chính trị chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nhà
nước dân chủ – phương thức quản lý ưu việt cho phép phát triển con
người một cách toàn diện. Tự do tinh thần, tức không lệ thuộc vào nhận
thức của người khác, chính là nguyên khí của khoa học nhận thức, nó
chính là yếu tố quan trọng nhất tạo ra sự sáng tạo và sự đa dạng của
khoa học nhận thức, tức sự đa dạng về mặt tinh thần.
Mối
quan hệ giữa tự do và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng
là một khía cạnh quan trọng trong các phân tích về tự do. Cần lưu ý
rằng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ thể hiện ở sự
hiện đại của tư liệu sản xuất mà quan trọng hơn là ở sự tiến bộ của
nhận thức. Tự do đánh thức các năng lực phát triển, đó là điều không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, sự phát triển của trình độ
lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò đáng kể vào việc mở rộng không
gian tự do của con người. Nói cách khác, lực lượng sản xuất phát triển
đến đâu thì không gian tự do sẽ mở rộng đến đó, và do đó, có thể kết
luận giữa hai cặp phạm trù này luôn có một sự dịch chuyển song song và
tương ứng.
Phải khẳng định rằng
tự do bao giờ cũng là điểm xuất phát của sự phát triển và không thể có
sự phát triển nào đi trước tự do. Sự phân biệt rành mạch hai khái niệm
tự do và bản lĩnh tự do sẽ giúp nhà cầm quyền nhận ra nỗi sợ về sự mất
ổn định do sự thiếu kinh nghiệm tự do của người dân tạo ra là một nỗi
sợ hoàn toàn vô lý bởi kinh nghiệm tự do, hay bản lĩnh tự do chỉ hình
thành khi người dân có tự do và có quyền sử dụng và khai thác nó trong
đời sống của mình. Đó cũng chính là một trong những ý nghĩa căn bản của
các phân tích về tự do.
Bên
cạnh đó, tự do còn là hạt nhân của mọi cuộc cải cách, trong đó có bốn
cuộc cải cách quan trọng nhất, đó là cải cách chính trị, cải cách kinh
tế, cải cách văn hóa và cải cách giáo dục. Tự do kinh tế đi trước để
con người nếm được các thành quả sự phát triển. Chừng nào cảm nhận được
vị ngọt, tức các thành quả thu được từ tự do kinh tế, con người sẽ
nhận thức được giá trị của tự do chính trị. Tự do chính trị chính là
nhu cầu đòi hỏi thể chế khẳng định các quyền tự do. Tuy nhiên, con
người còn là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nói cách khác, con người
chính là sản phẩm của văn hóa. Do vậy, nếu không có tự do văn hóa, con
người sẽ không thể ra khỏi quá khứ và không tìm được yếu tố bảo trợ
tinh thần cho tự do kinh tế và tự do chính trị. Mặt khác, thiếu yếu tố
bảo trợ tinh thần là tự do văn hóa, tự do kinh tế và tự chính trị sẽ
tạo ra trạng thái phát triển không ổn định vì luôn bị níu kéo bởi sự
lạc hậu về mặt văn hóa. Cải cách giáo dục là tiền đề của việc xây dựng
một lực lượng tiên tiến hùng hậu của xã hội, đủ năng lực để duy trì và
nâng cao chất lượng của sự phát triển. Tựu trung lại, bốn cuộc cải cách
này với hạt nhân là tự do đều nhằm tiếp cận trạng thái phát triển bền
vững. Phát triển bền vững không thuần túy là sự phát triển ổn định và
liên tục mà còn là sự ổn định của các nguồn phát triển. Nếu cải cách
kinh tế tạo ra được sức mạnh hữu hình của sự phát triển thì tự do về
chính trị và tự do về văn hóa sẽ tạo ra tính ổn định của các nguồn của
sự phát triển, hay nói cách khác chính là tạo ra phạm trù phát triển
bền vững. Đó chính là một trong những điểm mấu chốt quan hệ giữa tự do
và phát triển.
Mối quan hệ giữa tự do và dân chủ
Ở
phương Tây, người ta cho rằng, tự do là một quyền tự nhiên, là không
gian vốn có của mỗi con người, và do đó, Nhà nước dân chủ là kết quả
của sự nhượng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ để nhà nước có
vốn liếng điều hành xã hội. Từ đó, có thể khẳng định, sự tự nguyện
nhượng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ như một hình thức góp
vốn chính là bản chất khế ước xã hội. Điều hành đất nước bằng pháp
luật, hay các khế ước xã hội chính là điểm ưu việt của phương thức quản
lý theo mô hình dân chủ.
Russeau
viết “Với khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và
hạn chế cái quyền được làm những điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt
khác, con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà
anh ta có”. Cũng trong phần này, ông viết “làm theo kích thích của dục
vọng là nô lệ, mà tuân theo các quy tắc mà mình đặt ra là tự do”. Như
vậy, bản chất của tự do là gì và đâu là giá trị cao quý của nó? Có thể
khẳng định ngay rằng, bản chất của tự do chính là việc tuân theo các
quy tắc của nhận thức của mình chứ không lệ thuộc vào nhận thức của
người khác. Do đó, giá trị cao quý của tự do chính là đảm bảo và trao
trả một cách nguyên vẹn không gian sống của con người và tạo điều kiện
cho hành vi của mỗi con người phản ánh một cách trung thực gương mặt
của nhận thức của mình. Câu hỏi được đặt ra: Hình thái nhà nước nào đảm
bảo được tính ổn định hay giá trị bền vững của tự do công dân? Lịch sử
hình thành và phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng chế độ chính
trị tiên tiến có thể đảm bảo quyền tự do công dân chính là chế độ dân
chủ. Khi bàn đến tự do, người ta mới nói dân chủ là tất yếu, tức là xã
hội không thể tiếp tục duy trì tình trạng độc tài.
Nền
dân chủ được hình thành trên cơ sở các quyền tự do được thể chế hóa,
nói cách khác, tự do chính là nguyên liệu quan trọng nhất để xây dựng
nền dân chủ. Có thể nói, sở dĩ nền dân chủ ngày càng phát triển và
chứng minh vai trò của nó trong việc xúc tiến sự phát triển và tiến bộ
xã hội là bởi nó đã nhận thức đúng đắn về tự do thể hiện ở việc xây
dựng các khế ước xã hội. Khế ước xã hội không phải là những mệnh lệnh
mà là những thỏa thuận của con người trên cơ sở nhận thức về tự do và
tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân để xác lập trạng thái phát
triển hài hòa và cân đối.
Trên cơ
sở đó, cần phải đi đến nhận thức rằng, không có một môi trường nào có
thể hỗ trợ sự phát triển của con người tích cực bằng một môi trường đảm
bảo tự do cá nhân thông qua sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá
nhân, tức một nhà nước dân chủ.
Một
khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa tự do và dân chủ là, tự do là
thứ tài sản tự nhiên vô giá nhất của con người và xã hội được cấu thành
từ sự góp vốn của con người, ở đây, vốn được hiểu là một phần tự do cá
nhân. Vì vậy, bản chất của nhà nước là một khế ước, mà ở đó, con người
tự nguyện góp một phần tự do. Gia đình là một đơn vị xã hội mà mỗi
người, ngoài quan hệ huyết thống, còn tự nguyện góp một phần tự do. Do
đó, chế độ độc tài là chế độ chiếm đoạt vốn liếng tự nhiên của đời sống
con người tự do. Đó chính là bản chất của sự tham nhũng tinh thần, tức
chiếm đoạt tự do của người khác thay vì sử dụng sự tự nguyện chuyển
nhượng tự do của họ một cách minh bạch. Đó cũng chính là hạn chế của các
nhà nước phi dân chủ. Các phân tích về tự do phải chỉ ra ai chiếm dụng
vốn liếng của con người và phải giúp con người đi tới nhận thức rất
quan trọng, đó là trạng thái không có tự do của nhiều người sẽ tạo ra
quyền tự do tuyệt đối của một hay một số con người. Luận điểm này đã
được khẳng định từ thời kỳ Khai sáng – thời kỳ của những tên tuổi vĩ
đại như Voltaire, Didro, Montesquieu hay Russeau.
Hết
thảy con người khi sinh ra đều bình đẳng, và được tự nhiên ban cho
những quyền không thể phủ nhận, trong đó có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này, các nhà nước được
hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các thành viên trong một xã
hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một khái niệm rất nhân văn,
nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con người (nói riêng).
Tự
do còn là một phạm trù văn hóa, nói khác đi, văn hóa chính là không
gian tinh thần của tự do. Ý nghĩa và hành vi của con người “lội bộ”
trong một cánh đồng mênh mông các đối tượng hình thành từ quá khứ, hay
các ý niệm, khái niệm và nhận thức về văn hóa. Do đó, chính văn hóa mới
có khả năng điều chỉnh hành vi và ý nghĩ của con người. Văn hóa điều
chỉnh tự do cá nhân trở thành tự do cộng đồng tức là nó xây dựng các
khái niệm sơ khai của khế ước xã hội, mọi khế ước xã hội đều xây dựng
trên kinh nghiệm văn hóa chứ không phải kinh nghiệm pháp lý.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét