Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016
Nhân quyền là gì?
12:56
Hoàng Phong Nhã
No comments
ỦY BAN NHÂN QUYỀN VIỆT NAM TRÂN TRỌNG
GIỚI THIỆU ẤN PHẨM “TÓM LƯỢC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” CỦA CHƯƠNG TRÌNH THÔNG
TIN QUỐC TẾ BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ THÁNG 3/2008.
TÓM LƯỢC VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế,
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 3/2008
TÓM TẮT PHỔ QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Sâu
thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn rằng
mỗi người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự do
không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi
tàn bạo. Theo
bản năng, hầu hết mọi người đều cảm nhận như vậy, ngay cả khi họ không
tin là có thể dễ dàng giành được những quyền đó. Trong suốt chiều dài
lịch sử, hầu hết các xã hội chỉ trao những quyền đó cho một số ít người
may mắn. Châu Âu thế kỷ XVIII xuất hiện khái niệm “luật tự nhiên” – dựa
trên một trật tự chung – trao những quyền đó cho tất cả mọi người.
Triết lý đó có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, và
những khái niệm
trong
Hiến pháp Mỹ, một văn kiện cho đến nay vẫn điều chỉnh mọi bộ luật của
Mỹ. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân
quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là:
nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là
con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân
quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị
trì hoãn – một cách chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc –
song ý tưởng về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi
những quyền này, con người sẽ không còn là con người nữa.
TIẾN BỘ QUA CÁC THẾ KỶ
Theo
truyền thống, tất cả các nhóm người từ các bộ lạc sinh sống nơi núi
rừng tới người dân thành thị đều có các quan niệm về công lý, sự bình
đẳng, phẩm giá và sự tôn trọng. Tuy nhiên, quan niệm rằng con người –
đơn giản bởi vì họ là con người – có những quyền bất khả xâm phạm nhất
định, có thể dùng để bảo vệ bản thân họ trong xã hội và trước những kẻ
cai trị vẫn là quan niệm của thiểu số trong kỷ nguyên trước năm 1500.
Nhiều xã hội tiền hiện đại cho rằng người cai trị có nghĩa vụ cai quản
một cách hợp lý và vì lợi ích của mọi người. Tuy nhiên, người ta cho
rằng nghĩa vụ này xuất phát từ mệnh lệnh của Đấng Tối cao hoặc xuất
phát từ truyền thống, chứ không dựa trên khái niệm các quyền của cá
nhân mà người dân thường có thể dựa vào để bảo vệ bản thân trước những
kẻ cai trị bất công.
Lý thuyết dành cho một số người
Người
đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về nhân
quyền là triết gia người Anh John Locke (1632-1704). Locke cho rằng
người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên các
chính phủ để đảm bảo quyền được hưởng các quyền “tự nhiên”. Locke định
nghĩa chính phủ là một “khế ước xã hội” giữa kẻ cai trị và người bị
trị. Ông cho rằng công dân chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính
phủ bảo vệ các quyền của họ. Thậm chí những quyền này có thể được ưu
tiên hơn so với những đòi hỏi và lợi ích khác của chính phủ. Tính hợp
pháp của chính phủ chỉ có được nếu tôn trọng và bảo vệ một cách có hệ
thống các quyền của công dân.
Tuy
nhiên, lý thuyết của Locke cũng có những hạn chế. Mặc dù cách viết của
ông hàm ý các quyền này có tính phổ quát, nhưng thực ra ông không xét
tới quyền của tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự của ông là bảo vệ
quyền của nam giới châu Âu, những người có sở hữu tài sản. Trong khi
đó, phụ nữ, những người bản địa, người hầu, lao động được trả lương
không được công nhận là những người được hưởng đầy đủ các quyền. Dù
vậy, những tư tưởng của Locke và những người khác cùng thời với ông là
một bước đột phá quan trọng.
Mở rộng các quyền con người
Rất
nhiều cuộc đấu tranh chính trị lớn trong hai thế kỷ qua liên quan đến
việc mở rộng một loạt quyền được bảo vệ. Xu hướng này bao gồm mở rộng
quyền bầu cử cho mọi công dân, cho phép người lao động được đấu tranh
đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc, và xóa bỏ tình trạng
phân biệt đối xử vì giới tính và chủng tộc. Trong tất cả các cuộc đấu
tranh này, các nhóm bị áp bức đã sử dụng các quyền tự do hạn chế của họ
để đấu tranh đòi sự công nhận pháp lý đối với các quyền cơ bản vẫn bị
phủ nhận. Trong mỗi cuộc đấu tranh, cốt lõi của lập luận đưa ra là
“chúng ta” chứ không chỉ “các anh” mới là con người. Điều đó có nghĩa
là tất cả chúng ta đều có các quyền cơ bản giống nhau, được nhà nước
tôn trọng và quan tâm như nhau. Việc những lập luận này được chấp nhận
đã dẫn tới những thay đổi chính trị xã hội cấp tiến trên toàn thế giới.
Trên
toàn cầu, chế độ nào phủ nhận các quyền con người cơ bản của công dân,
chế độ đó sẽ không ổn định lâu dài. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến
sự sụp đổ của Liên Xô chính là công dân ở khối các nước cộng sản càng
ngày càng không thể chấp nhận thực tế là các quyền con người được quốc
tế công nhận bị phủ nhận một cách có hệ thống. Ở Nam và Trung Mỹ, các
chính quyền quân sự áp bức đã sụp đổ trong những năm 1980. Ở châu Á và
châu Phi, tự do hóa và dân chủ hóa diễn ra không suôn sẻ nhưng đó là
một thực tế. Ví dụ Hàn Quốc và Nam Phi là hai quốc gia điển hình đã đạt
được những tiến bộ về nhân quyền. Bài học trong thời gian qua cho thấy
ở đâu người dân có cơ hội lựa chọn, ở đó họ chọn các quyền con người
được quốc tế công nhận. Mặc dù còn khó khăn, trở ngại, nhưng chúng ta
đang sống trong một thế giới mà ngày càng ít các chính phủ dám tước bỏ
của người dân quyền tự do lựa chọn đó.
NHÂN QUYỀN LÀ MỘT VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Ngày
nay, hầu hết các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi trình độ
phát triển, đều khẳng định cam kết về nhân quyền. Chính phủ nào liên
tục gây ra các vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn đều bị coi là bất hợp
pháp.
Nhưng
không phải lúc nào cũng đơn giản như vậy. Tiến bộ hay thiếu tiến bộ về
nhân quyền của một quốc gia mới trở thành một chủ đề quan hệ quốc tế
trong khoảng một nửa thế kỷ nay. Trước Chiến tranh Thế giới Thứ hai,
phản ứng trước những vụ tàn sát các nhóm thiểu số trong phạm vi một
quốc gia chỉ được thể hiện dưới hình thức các tuyên bố lịch sự là không
ủng hộ. Thậm chí những vụ vi phạm bớt trắng trợn hơn không được coi là
chủ đề thích hợp để có thể đối thoại ngoại giao. Việc một chính phủ
đối xử như thế nào với công dân trong phạm vi lãnh thổ của họ được coi
là vấn đề thuộc chủ quyền – nghĩa là quyền lực tối cao của chính phủ đó
đối với các vấn đề nội bộ. Trên thực tế, các nước khác và cộng đồng
quốc tế được cho là có nghĩa vụ pháp lý quốc tế không can thiệp vào các
vấn đề đó.
Cú sốc của cuộc tàn sát người Do Thái
Trong
cuộc thảm sát người Do Thái hồi Chiến tranh Thế giới Thứ hai, phátxít
Đức và những kẻ đồng lõa đã giết hại một cách có hệ thống hàng triệu
người – người Do Thái châu Âu, người La Mã, những người đồng tính – bao
gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Ý thức trách nhiệm trước cuộc thảm sát
người Do Thái đã dẫn đến cam kết rằng những hành vi tàn bạo của cuộc
thảm sát sẽ không được phép tái diễn. Nhân quyền đã trở thành dòng chảy
chính của quan hệ quốc tế. Trước khi xảy ra cuộc thảm sát người Do
Thái một số nước biện minh rằng việc nhà nước đối xử như thế nào đối
với công dân của họ là vấn đề nội bộ. Do vậy, việc tàn sát công dân của
một nước không phải là một tội danh được quy định theo luật pháp quốc
tế. Tòa án Xét xử Tội phạm Chiến tranh Nuremberg năm 1945 đã giúp thay
đổi thực tiễn này. Các phiên tòa xét xử – trong đó những tướng lĩnh
phát-xít cấp cao đã phải chịu bản án vì những hành vi của mình – đã cho
ra đời khái niệm về tội ác chống lại nhân loại. Lần đầu tiên, các quan
chức phải chịu trách nhiệm pháp lý trước cộng đồng quốc tế về những
tội danh chống lại cá nhân công dân. Tuy nhiên, tại Liên Hợp Quốc, nhân
quyền mới thực sự trở thành một chủ đề của quan hệ quốc tế. Nhân quyền
chiếm một vị trí nổi trội trong Hiến chương Liên Hợp Quốc đưa ra năm
1945. Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên
ngôn Nhân quyền Toàn cầu. Tuyên ngôn này khẳng định cách thức các nhà
nước đối xử với công dân họ là vấn đề quốc tế chính đáng cần quan tâm
và phải tuân theo các chuẩn mực quốc tế.
Tác động của Chiến tranh Lạnh
Tuy
nhiên, không phải mọi việc đều diễn ra suôn sẻ. Trong những năm sau
Chiến tranh Thế giới Thứ hai, một cuộc chiến ý thức hệ căng thẳng đã nổ
ra giữa các nước cộng sản và các nước tư bản có tác động tới toàn thế
giới.
“Chiến tranh Lạnh” kéo dài
cho đến khi Liên Xô sụp đổ năm 1991. Giống như Mỹ đôi lúc sẵn sàng bỏ
qua những vụ vi phạm nhân quyền ở các chế độ chống cộng sản “thân
thiện” thì Liên Xô sẵn sàng sử dụng vũ lực khi cần thiết để đảm bảo các
chế độ độc tài “thân thiện” ở trong vòng ảnh hưởng của mình. Hơn thế
nữa, một số quốc gia sẵn sàng chấp nhận sự kiểm soát đa phương đối với
các thực tiễn nhân quyền của họ, nói gì đến việc thực thi nhân quyền ở
cấp quốc tế. Liên Hợp Quốc không phải là một chính phủ thế giới. Tổ
chức này không thể làm gì nếu thành viên của nó – các quốc gia có chủ
quyền – không cho phép. Rốt cuộc thì trong hai thập kỷ đầu của Chiến
tranh Lạnh, không khối nước nào sẵn sàng cho phép Liên Hợp Quốc được
làm gì nhiều trong lĩnh vực nhân quyền. Tuy nhiên, vào giữa những năm
1960 khối Á-Phi đã trở thành nhóm lớn nhất tại Liên Hợp Quốc. Những
nước này – từng chịu sự cai trị của chế độ thực dân – có mối quan tâm
đặc biệt về nhân quyền. Họ nhận thấy sự cảm thông từ khối các nước
Xô-viết, một số nước ở châu Âu và châu Mỹ, trong đó có Mỹ. Do vậy, Mỹ
lại một lần nữa bắt đầu chú ý tới nhân quyền.
Điều
quan trọng nhất là thực tế này đã dẫn đến sự hoàn thành các Công ước
Quốc tế về Nhân quyền vào năm 1966. Cùng với Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn
cầu, những công ước này là sự khẳng định mạnh mẽ nhất về các quyền con
người được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, tính toàn diện của các Công
ước đòi hỏi Liên Hợp Quốc phải chuyển hoạt động vì nhân quyền của tổ
chức này từ việc định ra các tiêu chuẩn sang giám sát việc các quốc gia
tuân thủ những tiêu chuẩn này như thế nào. Đây là lĩnh vực mà Liên Hợp
Quốc đã không đạt được tiến bộ nào trong hai thập kỷ đầu tiên. Mặc dù
những khái niệm trụ cột về các chuẩn mực nhân quyền đã được làm rõ vào
giữa những năm 1960, nhưng việc thực hiện những chuẩn mực này về cơ bản
vẫn phụ thuộc vào thiện chí của từng chính phủ.
Sự hồi sinh của nhân quyền dưới thời Carter
Khi
Jimmy Carter trở thành Tổng thống Mỹ năm 1977, ông đã đưa nhân quyền
trở thành một vấn đề quốc tế. Carter đã biến các quyền phổ quát trở
thành một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và khuyến khích
những người ủng hộ nhân quyền trên toàn thế giới. Carter cố gắng tách
nhân quyền quốc tế khỏi nền chính trị Đông-Tây của Chiến tranh Lạnh và
cuộc tranh luận Bắc-Nam giữa các nước công nghiệp và các nước phi công
nghiệp về các vấn đề kinh tế. Cố gắng này đã mang đến động lực mới và
làm gia tăng tính hợp pháp của các tổ chức nhân quyền ở khắp mọi nơi.
Tiến trình Helsinki
Thời
kỳ giữa thập kỷ 1970 chứng kiến việc đưa nhân quyền trở thành nội dung
chính trong chính sách đối ngoại song phương và đa phương. Mỹ và các
nước châu Âu bắt đầu xem xét các thực tiễn nhân quyền trong các chính
sách viện trợ của họ. Và Đạo luật Cuối cùng Helsinki năm 1975 công khai
đưa nhân quyền vào nội dung quan hệ Mỹ-Liên Xô. Hội nghị An ninh và
Hợp tác châu Âu (CSCE) bắt đầu vào đầu những năm 1970 với một loạt đàm
phán trong đó có sự tham gia của Mỹ, Ca-na-đa, Liên Xô và hầu hết các
nước châu Âu. Các cuộc bàn thảo tập trung vào việc giải quyết các vấn
đề giữa phương Đông Cộng sản và phương Tây dân chủ. Đạo luật cuối cùng
của CSCE, đạt được năm 1975 tại Helsinki, Phần Lan và được 35 nước ký
kết được gọi là Thỏa ước Helsinki. Thỏa ước này nêu ra 10 nguyên tắc cụ
thể, trong đó có tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản như tự
do tư tưởng, tự do lương tri, tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Nhiều
chuyên gia cho rằng tiến trình Helsinki khiến các chế độ độc tài cộng
sản ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Cuối những năm 1980, Chiến tranh Lạnh
kết thúc và ngày 25/12/1991 không còn lá cờ Xô Viết tại điện Kremlin.
CSCE ở thời điểm đó tổ chức các hội nghị và hội thảo, nhưng giờ đây đã
có vai trò lớn hơn đó là quản lý những thay đổi lịch sử đang diễn ra ở
châu Âu. Tên của nó được đổi thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu
(OSCE). Hiện nay OSCE là tổ chức an ninh khu vực lớn nhất trên thế
giới, với 56 nước thành viên ở châu Âu, Trung Á và Bắc Mỹ. Tổ chức này
cũng có các đối tác ở châu Á và khu vực Địa Trung Hải. Nhiều người coi
OSCE là điển hình cho các nỗ lực hợp tác ở các khu vực khác nhằm thúc
đẩy sự tôn trọng nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. Tuyên bố
Copenhagen và những Nguyên tắc Paris của OSCE có ảnh hưởng lớn bởi
chúng là thước đo thực hiện nhân quyền, trong đó có thành tích của các
quốc gia dân chủ. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, Ủy ban Nhân quyền được
hồi sinh, đứng đầu là Ca-na-đa, Hà Lan và các nước khác, đã xây dựng
những công ước mới về Quyền Phụ nữ (1979), công ước Chống tra tấn
(1984) và công ước về Quyền Trẻ em (1989). Các chuyên gia đã được chỉ
định để nghiên cứu và báo cáo về các vụ vi phạm nhân quyền ở ngày càng
nhiều quốc gia. Vào giữa những năm 1980, hầu hết các nước phương Tây
nhất trí rằng nhân quyền phải là ưu tiên trong chính sách đối ngoại, và
hướng tới vấn đề giám sát và thực thi nhân quyền.
Thập
kỷ 1970 là giai đoạn trong đó các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt
động trên lĩnh vực nhân quyền xuất hiện với tư cách là một lực lượng
chính trị quốc tế nổi bật. Điển hình là giải thưởng Nobel Hòa bình dành
cho Tổ chức Ân xá Quốc tế năm 1977 vì đã giúp đỡ các tù nhân chính
trị. Năm 1980, có khoảng 200 tổ chức phi chính phủ ở Mỹ hoạt động trong
lĩnh vực nhân quyền và ở Anh cũng có số lượng như vậy. Sự xuất hiện
của các tổ chức phi chính phủ ở các nước châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh
cũng là một diễn biến quan trọng không kém. Những tổ chức này, bên cạnh
việc ủng hộ nạn nhân các vụ lạm dụng nhân quyền, còn có ảnh hưởng quan
trọng đối với các chính sách nhân quyền quốc gia và quốc tế.
Môi trường hậu Chiến tranh Lạnh
Từ
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nỗ lực quốc tế thúc đẩy nhân quyền được
tăng cường hơn nữa mà điển hình là sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền
Liên Hợp Quốc nhằm tăng cường hoạt động giám sát quốc tế. Ở hầu hết các
nước, bản chất và giới hạn của nhân quyền thể hiện rõ hơn trong chương
trình nghị sự quốc gia. Cũng như những ý tưởng tự do kinh tế lan rộng
thông qua quá trình toàn cầu hóa, các ý tưởng khác cũng vậy. Các tổ
chức nhân quyền phi chính phủ và những người ủng hộ cho nhân quyền ngày
càng có ảnh hưởng trên toàn thế giới.
Chắc
chắn, việc nêu ra các vấn đề nhân quyền đôi khi vẫn bị các nước phản
ứng, điển hình là mối quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và các đối tác
thương mại lớn của nước này trong những năm sau sự kiện Thiên An Môn
năm 1989. Hầu hết các nước vẫn không giải quyết hiệu quả các mối quan
ngại nhân quyền quốc tế theo yêu cầu của các tổ chức nhân quyền phi
chính phủ.
Vẫn còn các chế độ cầm
quyền – ở Cuba, Bắc Triều Tiên, và những nơi khác – tiếp tục vi phạm
có hệ thống các quyền con người được quốc tế công nhận. Như trong các
báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ và rất nhiều tổ chức phi chính phủ, hầu
hết các nước trên thế giới vẫn có những vấn đề nhân quyền nghiêm trọng.
Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế đã sẵn sàng giải quyết các vụ vi phạm
nhân quyền nghiêm trọng. Đáng tiếc là năm 1994 Liên Hợp Quốc đã không
can thiệp quân sự để chặn đứng được cuộc diệt chủng ở Ru-an-đa. Tuy
nhiên ở El Salvador, các nhà giám sát nhân quyền của Liên Hợp Quốc đóng
vai trò quan trọng trong việc đạt được một giải pháp chính trị và phi
quân sự hóa quốc gia này sau một thập kỷ nội chiến. Ở Sô-ma-li, khi
quốc gia này bị rơi vào cuộc chính biến, các lực lượng quân sự đa
phương đã can thiệp để cứu hàng nghìn dân khỏi bị nạn đói. Ở
Căm-pu-chia, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã giúp đẩy
lui lực lượng Việt Nam và kiềm chế Khơ-me Đỏ, thúc đẩy việc hình thành
một chính phủ được bầu lên tự do. Ở Bosnia, cộng đồng quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Mỹ, đã sử dụng sức mạnh quân sự để chấm dứt cuộc nội chiến
đẫm máu khiến 200.000 người bị giết hại và đẩy hai triệu người khác
vào cảnh nhà tan bằng cuộc “thanh lọc sắc tộc” có hệ thống.
Bất
chấp tầm quan trọng của nhân quyền và nền chính trị nhân đạo, những
năm đầu thế kỷ 21, cộng đồng quốc tế đang đấu tranh để ngăn chặn cuộc
xung đột sắc tộc kéo dài ở tỉnh miền tây Darfur của Su-đăng. Cuộc xung
đột này mà Liên Hợp Quốc và các tổ chức nhân quyền coi là diệt chủng đã
cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người và đẩy hơn hai triệu người khác
phải sống trong các trại tị nạn. Lực lượng của Liên minh châu Phi
không thể ngăn chặn được tình trạng giết chóc, cưỡng hiếp tùy tiện và
Mỹ đã phải kêu gọi Liên Hợp Quốc triển khai một lực lượng gìn giữ hòa
bình lớn ở nước này. Đồng thời, cộng đồng quốc tế, trong đó có các tổ
chức nhân quyền phi chính phủ, đã tham gia đối phó với phong trào khủng
bố quốc tế tăng mạnh điển hình là các cuộc tấn công khủng bố ở Mỹ ngày
11/9/2001 và các cuộc tấn công khủng bố khác của al Qaeda trên thế
giới, từ In-đô-nêxi-a tới Tây Ban Nha. Cũng chính những quan sát viên
này đã lên tiếng chỉ trích phản ứng của các chính phủ đối với chủ nghĩa
khủng bố.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MỸ
Mỹ
đóng vai trò đặc biệt trong việc phát triển và ủng hộ các ý tưởng và
thực tiễn về nhân quyền. Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 theo đó các thuộc
địa Mỹ tuyên bố tách khỏi nước Anh, khẳng định rằng “mọi người sinh ra
đều có quyền bình đẳng”. Quan trọng không kém, Tuyên ngôn Độc lập còn
khẳng định quyền của người dân được phá bỏ những ràng buộc chính trị áp
bức. Với Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền của Mỹ, thế giới lần đầu
tiên chứng kiến thử nghiệm trên thực tế việc xây dựng một chính phủ mà
sự vận hành của nó được đánh giá dựa trên mức độ tôn trọng và bảo vệ
các quyền của người dân. Do vậy, các quyền được người Mỹ coi là một đặc
điểm trong di sản quốc gia của họ. Những người Mỹ đầu tiên không nói
đến “nhân quyền” mà nói đến tự do và các quyền tự do. Rất nhiều trong
số những người dân thuộc địa đầu tiên đến Tân Thế giới để tìm kiếm
quyền tự do tôn giáo của họ đã bị tước bỏ ở châu Âu thế kỷ XVII. Khi
hình thành các cộng đồng, qua thời gian họ đã phát triển ý thức về sự
khoan dung tôn giáo và mong muốn xây dựng chính quyền tự trị. Khi thời
gian đã chín muồi để những người dân thuộc địa Mỹ tách khỏi nước Anh
thì lúc đó họ đã xây dựng được luật và các tập quán công nhận quyền tự
do ngôn luận, tự do hành đạo và tự do lập hội. Quyền kiến nghị chính
phủ, quyền có bồi thẩm đoàn và có tiếng nói trong việc quản lý những
vấn đề của chính họ là những quyền khác mà họ đã nuôi dưỡng, ấp ủ. Tât
cả những quyền này là những giá trị trụ cột trong Tuyên ngôn Độc lập
năm 1776, một đoạn sẽ được trích dưới đây. Tác giả chính của Tuyên ngôn
Độc lập, Thomas Jefferson, sau này trở thành tổng thống thứ ba của
nước Mỹ.
“Sự thật hiển nhiên
là mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được trong đó có quyền sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này, các chính phủ
phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của nhân dân. Nếu chính phủ
nào hủy hoại những mục tiêu này thì người dân có quyền thay đổi hoặc
lật đổ chính phủ và hình thành nên chính phủ mới, dựa trên những nguyên
tắc và tổ chức quyền lực theo hình thức mà người dân cho là chắc chắn
sẽ đảm bảo được sự an toàn và hạnh phúc của họ.
Tuyên ngôn nhân quyền
Năm
1787, đại diện của 12 trong số 13 bang đầu tiên đã gặp nhau ở
Philadelphia, bang Pennsylvania, để soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Họ đã soạn
thảo một văn kiện về nền dân chủ thỏa hiệp và đại diện, phù hợp với
những thay đổi trong suốt hơn 200 năm. Rất nhiều người lúc đầu phản đối
Hiến pháp mới. Họ chỉ chấp thuận văn kiện này nếu một loạt điều bổ
sung đảm bảo các quyền tự do dân sự – những quyền tự do đã được quy
định trong hầu hết hiến pháp các nước – được thêm vào Hiến pháp. Do
vậy, 10 điều bổ sung dưới đây, được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền, đã
được đưa vào Hiến pháp năm 1791. Kể từ khi Tuyên ngôn Nhân quyền được
đưa ra, Hiến pháp Mỹ chỉ có thêm 17 điều sửa đổi bổ sung nữa.
Điều bổ sung sửa đổi I -
Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo
hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của
dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây
bất bình.
Điều bổ sung sửa đổi II -
Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm chỉnh là rất cần thiết cho
nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng được giữ và sử
dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.
Điều bổ sung sửa đổi III -
Không một quân nhân nào trong thời bình được đóng quân trong bất cứ
nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và ngay trong thời
chiến cũng chỉ theo qui định của luật pháp.
Điều bổ sung sửa đổi IV -
Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài
sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm.
Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn cứ vào
lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa
điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ.
Điều bổ sung sửa đổi V -
Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay
một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi
thẩm đoàn, trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc
trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc
trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai sẽ bị kết án hai lần
về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị
ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự
và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá
trình xét xử theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng
vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.
Điều bổ sung sửa đổi VI -
Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử một
cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng của bang
hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp luật chỉ định
trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được
đối chất với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những
nhân chứng để biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
Điều bổ sung sửa đổi VII -
Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu giá trị tranh chấp quá
20 đôla, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm đoàn sẽ được tôn trọng và
không một vụ việc nào đãđược Bồi thẩm đoàn xét xử lại phải xem xét lại
lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Hoa Kỳ, mà phải căn cứ theo các quy tắc
của thông luật.
Điều bổ sung sửa đổi VIII -
Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá cao, không áp đặt những
khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình phạt dã man và khác
thường.
Điều bổ sung sửa đổi IX - Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân.
Điều bổ sung sửa đổi thứ X -
Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không bị
ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ thể hoặc nhân dân.
Các vấn đề về nhân quyền
Dĩ
nhiên trong di sản Mỹ cũng có những mảng tối. Chế độ nô lệ được chấp
nhận ở các bang miền Nam trong suốt 75 năm đầu tiên của nền Cộng hòa
Mỹ. Tình trạng phân biệt chủng tộc tại các trường học, các khu công
cộng và định kiến xã hội là những vấn đề nổi cộm trong suốt thế kỷ thứ
hai. Người Mỹ bản địa bị buộc phải di chuyển về phía tây.
Họ
bị mất nhà cửa, đất đai và nhiều khi còn mất mạng. Phụ nữ không được
quyền bầu cử, không được tham gia bồi thẩm đoàn, thậm chí không có
quyền sở hữu tài sản trong vai trò người vợ. Tuy nhiên, một trong những
đặc điểm của nền dân chủ Mỹ là các cơ chế tự điều chỉnh bầu cử và các
tòa án đều có xu hướng sửa chữa những sai lầm của những thời kỳ trước.
Riêng ý tưởng bình đẳng cũng đã giúp giải quyết các tệ nạn xã hội.
Trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã ủng hộ một số chế độ quân sự độc tài
tàn bạo thông qua hỗ trợ tài chính và quân sự miễn là họ ủng hộ các lợi
ích kinh tế và địa chính trị của Mỹ. Gần đây sau sự kiện 11/9, Mỹ bị
chỉ trích về việc đối xử với những kẻ bị tình nghi khủng bố và một số
vụ lạm dụng tù nhân của quân đội Mỹ trong chiến tranh I-rắc. Ranh giới
các quyền trong các trường hợp xung đột liên quan đến khủng bố – những
kẻ rút cục chỉ cố gắng để phá hoại quyền của mọi người – vẫn đang được
tranh luận ở các xã hội văn minh.
Một
số nhóm bày tỏ quan ngại về hình phạt tử hình, sự hiện diện pháp lý
đầy đủ trong các vụ án tử hình, cũng như số lượng nam giới là người
thiểu số bị tù vì các tội hình sự. Đã có các tranh luận về việc những
người bị kết án sau khi mãn hạn tù bị tước quyền công dân, và có cả các
cuộc thảo luận về những nhóm sắc tộc thiểu số. Một lần nữa người ta
lại nhận thấy sức mạnh của một ý tưởng – ví dụ ý tưởng về sự bình đẳng –
tạo ra một cuộc tranh luận không ngừng.
Những hành động tích cực
Mặc
dù vậy, Mỹ cũng có nhiều thành tích về những hành động quốc tế tích
cực nhân danh nhân quyền. Sau Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, Tổng thống
Mỹ Woodrow Wilson đấu tranh cho quyền tự quyết dân tộc và bảo vệ người
thiểu số của cộng đồng quốc tế. Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ
đổ nhiều công sức, tiền của để duy trì và tái thiết nền dân chủ ở châu
Âu và xây dựng nền dân chủ ở Nhật Bản. Mỹ đi tiên phong trong quá trình
phi thực dân hóa, trao trả độc lập cho Phi-líp-pin năm 1946. Cùng với
sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, Mỹ nổi lên là nước đi đầu trong các
sáng kiến đa phương về nhân đạo và nhân quyền ở Xô-ma-li, Su-đăng,
Hai-i-ti, Bosnia và nhiều quốc gia khác.
Báo cáo Quốc hội
Theo luật, Bộ Ngoại giao Mỹ hàng năm phải trình lên Quốc hội một số báo cáo tổng hợp về tình hình nhân quyền như sau:
· Báo cáo tình hình nhân quyền các nước đánh giá chi tiết tình hình nhân quyền ở các nước trên thế giới.
·
Ủng hộ Nhân quyền và Dân chủ mô tả những việc mà Chính phủ Mỹ đang làm
để giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền nêu trong báo cáo tình hình
nhân quyền các nước.
· Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế đánh giá mức độ tự do hành đạo của người dân.
·
Báo cáo về nạn Buôn người điều tra hình thức nô lệ thời hiện đại. Sau
khi hoàn thiện, các báo cáo này được trình lên Quốc hội và đưa lên
Internet phổ biến trên khắp thế giới.
Ở
bên ngoài, việc Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và luôn cho mình là
đúng đôi khi gây nên oán giận, ngay cả ở những nước chia sẻ những giá
trị trụ cột trong các chính sách của Mỹ. Không khó để chỉ ra nơi mà
những lý tưởng của Mỹ thất bại. Tuy nhiên, nước Mỹ ngày nay cũng như
trong hai thế kỷ trước vẫn là nước lãnh đạo thế giới trong cuộc đấu
tranh vì nhân quyền đang tiếp diễn. Mặc dù được chấp nhận rộng rãi,
nhưng cuộc đấu tranh để thực hiện những ý tưởng đó vẫn đang diễn ra
trên toàn cầu.
GIÁM SÁT QUỐC TẾ VÀ CƠ CHẾ THỰC THI
ít
nhất về mặt lý thuyết, các quốc gia ngày càng có trách nhiệm trước
cộng đồng quốc tế về tình hình nhân quyền của họ. Hơn 3/4 quốc gia trên
thế giới đã phê chuẩn các Công ước Quốc tế về Nhân quyền. Công ước
Quốc tế của Liên Hợp Quốc về các Quyền Dân sự và Chính trị đã thành lập
một ủy ban giám sát gồm các chuyên gia độc lập – gọi là Ủy ban Nhân
quyền. Chức năng chính của Ủy ban này là xem xét các báo cáo định kỳ mà
các nước trình lên. Các ủy ban tương tự cũng đã được thành lập thông
qua các Công ước Nhân quyền Quốc tế về phân biệt chủng tộc, quyền của
phụ nữ, chống tra tấn, quyền trẻ em cũng như các Công ước mới về quyền
của người tàn tật và lao động di cư.
Động lực cải thiện tình hình nhân quyền
Giám
sát và báo cáo không thể buộc các quốc gia thay đổi thực tiễn nhân
quyền của họ. Tuy nhiên, còn có những động lực khác đối với những nước
muốn cải thiện hoặc bảo vệ thành tích nhân quyền của họ. Trong quá
trình chuẩn bị báo cáo, họ có thể phát hiện ra những lĩnh vực cần phải
được cải thiện. Điều này có thể là một nhắc nhở đối với các quan chức
về nghĩa vụ pháp lý quốc tế của họ. Ủy ban Nhân quyền châu Âu thuộc Hội
đồng châu Âu có một hệ thống khiếu nại rất mạnh. Ủy ban này sau đó
chuyển thành Tòa án Nhân quyền châu Âu đã đưa ra những quyết định ràng
buộc về pháp lý trong hàng trăm vụ kiện liên quan đến hàng loạt vấn đề,
trong đó có những vấn đề nhạy cảm như tình trạng khẩn cấp. Trong hệ
thống châu Âu, các quốc gia đã trao một phần thẩm quyền thực thi nhân
quyền cho một cộng đồng chính trị khu vực lớn hơn.
Trong
lĩnh vực này các tổ chức khu vực ở châu Mỹ và châu Phi không mấy thành
công. Thế giới A-rập và châu Á vẫn chưa có các ủy ban nhân quyền khu
vực, mặc dù Diễn đàn châu Á Thái Bình Dương được thành lập năm 1996 với
sứ mệnh ủng hộ nỗ lực hợp tác khu vực để “thành lập và phát triển các
thể chế quốc gia nhằm bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong khu vực”.
Cũng đã có kế hoạch thành lập Ủy ban Nhân quyền ASEAN mới và một Tòa án
Nhân quyền châu Phi mới. Sức mạnh và phạm vi áp dụng các biện pháp
giám sát quốc tế phụ thuộc vào việc các nước sẵn sàng sử dụng và tham
gia thực hiện các biện pháp đó. Tình trạng này vẫn là một vấn đề nghiêm
trọng và dai dẳng.
Báo cáo điều tra và ủng hộ
Một
loại hình cơ chế giám sát nhân quyền đa phương khác là báo cáo điều
tra và ủng hộ. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là Ủy ban Nhân quyền
liên Mỹ. Những báo cáo về Chi-lê của tổ chức này trong những năm 1970
và 1980 là một nhân tố quan trọng trong việc phơi bày những vụ vi phạm
nhân quyền của chính phủ Pinochet. Báo cáo của tổ chức này về Nicaragua
năm 1978 đã đóng góp quan trọng đưa chính phủ Somoza đến hồi kết.
Trong
hai thập kỷ qua, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã nỗ lực đáng kể
trong việc nghiên cứu tình hình các nước, trong đó có những nước tình
hình chính trị đáng quan tâm như Guatemala, I-ran và My-an-ma. Cụ thể,
ủy ban đã hoạt động thông qua “báo cáo viên đặc biệt” – một chuyên gia
độc lập kiêm điều tra viên. “Báo cáo viên đặc biệt” này bên cạnh nhiệm
vụ việc báo cáo chính thức cho ủy ban còn cố gắng duy trì đối thoại
liên tục với các chính phủ đang bị điều tra nhằm duy trì sự hiện diện
lâu dài và thiết lập một kênh ảnh hưởng. Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp
Quốc cũng cử ra các báo cáo viên hoặc thành lập các nhóm làm việc để
điều tra các vụ mất tích, giết hại và giam giữ tuỳ tiện, không khoan
dung tôn giáo, các vụ vi phạm nhân quyền vì toan tính vụ lợi và phân
biệt chủng tộc. Năm 2006, Ủy ban Nhân quyền đã bị giải tán để thành lập
một Hội đồng Nhân quyền nhỏ hơn. Hội đồng Nhân quyền mới này có sự
khởi đầu đầy khó khăn. Hội đồng bị chỉ trích vì bỏ các báo cáo viên đặc
biệt ở các nước như Belarus và Cuba mà không có lý do rõ ràng. Hơn
nữa, Hội đồng còn duy trì tình trạng phân biệt đối xử khi xây dựng
chương trình nghị sự lâu dài cho riêng một nước, đó là Israel liên quan
tới tình hình Palestin. Cơ chế nhân quyền mới ở Geneva cũng khiến vai
trò của các tổ chức phi chính phủ trong các phiên họp chính thức của
Hội đồng bị suy giảm và tiếp tục loại Israel ra khỏi bất cứ nhóm khu
vực nào hoạt động ở Geneva. Cũng có hy vọng rằng cái gọi là “đánh giá
định kỳ tình hình toàn cầu” có thể là một động lực để các thành viên
Hội đồng để cải thiện thực tiễn nhân quyền của họ. Rõ ràng là uy tín
đạo lý của mỗi cơ chế nhân quyền phần lớn phải phụ thuộc vào sự công
bằng của nó.
CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC QUỐC GIA: NHỮNG VAI TRÒ ĐỐI LẬP NHAU
Hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ cũng rất quan trọng đối với nền
chính trị nhân quyền quốc tế. Các tổ chức Ân xá Quốc tế, Americas
Watch, Liên minh các quyền Tự do Dân sự Mỹ và một số tổ chức khác đóng
vai trò quan trọng trong các cuộc tranh luận về chính sách Trung Mỹ
những năm 1980. Ở cả Bắc Mỹ và châu Âu, các tổ chức phi chính phủ đóng
một vai trò lớn trong các cuộc tranh luận quốc gia về lệnh cấm vận đối
với Nam Phi trong những năm 1980.
Các
tổ chức phi chính phủ – với tư cách tư nhân – có thể hoạt động mà
không chịu sự kiểm soát chính trị của chính phủ. Hơn nữa, do không có
những tham vọng chính trị lớn có thể xung đột với các mục tiêu nhân
quyền nên các tổ chức phi chính phủ thường ở vị trí thuận lợi hơn khi
nêu ra những quan ngại về nhân quyền. Do tính chất phi đảng phái và
hoạt động có tiêu điểm, nên đôi khi các tổ chức phi chính phủ có thể
nêu lên những vấn đề nhân quyền trong phạm vi một quốc gia mà các tổ
chức khác không làm được, điển hình ở những quốc gia mà hoạt động chính
trị độc
lập bị đàn áp và xã hội dân sự yếu.
Những điểm mạnh và yếu
Tuy nhiên, sức mạnh của các tổ chức phi chính phủ có giới hạn. Họ phải dựa vào sức mạnh của việc công khai các
vụ
vi phạm và tính thuyết phục. Rất nhiều quốc gia đã sử dụng quyền hạn
để ép thành viên các nhóm nhân quyền địa phương thành những nạn nhân
mới. Một số quốc gia cấm tài trợ bên ngoài cho các tổ chức phi chính
phủ, hoặc đặt ra những quy định đăng ký hoạt động phiền phức nhằm cản
trở công việc của họ. Các quốc gia có chủ quyền có hầu hết những điểm
mạnh và điểm yếu giống các tổ chức phi chính phủ. Các quốc gia phải
điều hòa nhiều lợi ích khác nhau trong chính sách đối ngoại của họ. Các
chính phủ có xu hướng xây dựng chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích
quốc gia của họ, và điều này có nghĩa là việc ủng hộ nhân quyền có thể
bị hạn chế để ưu tiên cho các mục tiêu khác.Tuy nhiên, khi các quốc
gia quyết định theo đuổi các mục tiêu nhân quyền, họ sẽ sở hữu các
nguồn lực, các kênh ảnh hưởng lớn và cả khả năng công khai mà các tổ
chức phi chính phủ không có.
NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY VỀ NHÂN QUYỀN
Hội
nghị Quốc tế về Nhân quyền ở Viên năm 1993 giúp thu hút lại sự quan
tâm của quốc tế đối với vấn đề nhân quyền trên thế giới thời kỳ sau
Chiến tranh Lạnh. Việc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thành lập các tòa
án xét xử tội phạm chiến tranh ở Nam Tư cũ và Ru-an-đa năm 1993 và 1994
dẫn tới sự hình thành Luật về xung đột vũ trang và Luật nhân đạo quốc
tế nhằm bảo vệ dân thường và những người không tham chiến trong các
cuộc nội chiến này. Các tòa án đặc biệt cũng thành lập ở Sierra Leone
năm 2002 và Căm-pu-chia năm 2003 để truy tố các nhà lãnh đạo chính trị
và quân sự vì những hành vi tàn bạo trong thời kỳ chiến tranh và diệt
chủng. Mặc dù Mỹ không tham gia Hiệp ước Rome và tỏ ra e dè về phạm vi
điều chỉnh của Hiệp ước, nhưng Tòa án Hình sự Quốc tế đã được thành lập
năm 1998 theo Hiệp ước này và được Hội đồng Bảo an ủy nhiệm truy tố
các vụ vi phạm nhân quyền trong cuộc xung đột Darfur, Su-đăng.
Hội
nghị Phụ nữ Thế giới lần thứ 4 của Liên Hợp Quốc tại Bắc Kinh năm 1995
đã cố gắng đưa các vấn đề của phụ nữ vào nội dung chính của các cuộc
thảo luận về nhân quyền quốc tế. Ngân hàng Thế giới với việc nhấn mạnh
“quản lý hiệu quả” đã nêu bật những vấn đề nhân quyền quan trọng.
Ủy
ban châu Âu và Liên minh châu Âu nhấn mạnh quốc gia nào muốn gia nhập
các cơ cấu chính trị của châu Âu đều phải có chính sách bảo vệ nhân
quyền. Năm 2002, Mỹ đã thành lập Quỹ đối phó với các Thách thức Thiên
niên kỷ nhằm hỗ trợ kinh tế cho các nước quản lý đất nước một cách dân
chủ, đầu tư cho người dân và khuyến khích tự do kinh tế.
Công khai hóa các vụ vi phạm
Một
phát triển tích cực khác nữa là cộng đồng quốc tế ngày càng tập trung
lên án những kẻ vi phạm nhân quyền. Các tổ chức ở cấp độ quốc gia, khu
vực và toàn cầu đã tạo áp lực lớn khiến các quốc gia không thể không có
trách nhiệm công khai về thực tiễn nhân quyền của họ. Chúng ta không
nên đánh giá thấp giá trị của việc công khai các vụ vi phạm khiến các
quốc gia phải thấy hổ thẹn mà có những hành vi tốt hơn. Ngay cả những
chính phủ hà khắc cũng quan tâm đến uy tín quốc tế của họ.
Ví
dụ, cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, chính quyền quân sự
Argentina đã có những nỗ lực ngoại giao đáng kể nhằm ngăn chặn các
cuộc điều tra của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Hơn nữa, việc công
khai các vụ vi phạm ít nhất cũng giúp được một vài trong số rất nhiều
nạn nhân nổi bật bị đàn áp giành lại được một mức độ tự do nào đó, thậm
chí đôi khi còn tránh được hình phạt. Internet tạo điều kiện dễ dàng
hơn để các nhóm nhân quyền liên kết với nhau và công khai hóa các vụ vi
phạm nhân quyền. Những kỳ vọng và các chuẩn mực quốc gia và quốc tế
đang được thay đổi theo hướng tốt hơn. Trong thế giới ngày nay, ý tưởng
nhân quyền có sức mạnh đạo lý và khả năng huy động khó có thể kháng cự
được. Và khi ngày càng nhiều người dân trên thế giới ý thức được bản
thân họ có những quyền bất khả xâm phạm, thì đòi hỏi về nhân quyền
khiến những kẻ độc tài phải trốn chạy, còn chính phủ của họ sẽ tan
thành mây khói. Về ngắn hạn, thanh gươm có thể mạnh hơn lời nói. Nhưng
nhiệm vụ của những người ủng hộ nhân quyền – dù ở bất cứ đâu – là một
nhiệm vụ lâu dài và cao cả, đó là nói lên sự thật. Và một trong những
bài học tâm huyết nhất trong lịch sử hiện đại của chúng ta là sự thật
sẽ chiến thắng.
Trung tâm Hoa Kỳ
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov
http://vietnamhumanrightscommitte.wordpress.com/nhan-quyen-la-gi/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét