Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

Nhân quyền là gì?

ỦY BAN NHÂN QUYỀN VIỆT NAM TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU ẤN PHẨM “TÓM LƯỢC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” CỦA CHƯƠNG TRÌNH THÔNG TIN QUỐC TẾ BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ THÁNG 3/2008.
TÓM LƯỢC VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế,
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 3/2008
TÓM TẮT PHỔ QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Sâu thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn rằng mỗi người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi tàn bạo. Theo bản năng, hầu hết mọi người đều cảm nhận như vậy, ngay cả khi họ không tin là có thể dễ dàng giành được những quyền đó. Trong suốt chiều dài lịch sử, hầu hết các xã hội chỉ trao những quyền đó cho một số ít người may mắn. Châu Âu thế kỷ XVIII xuất hiện khái niệm “luật tự nhiên” – dựa trên một trật tự chung – trao những quyền đó cho tất cả mọi người. Triết lý đó có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, và những khái niệm

Triết gia người Anh John
Locke là đại diện cho Phong
trào Khai sáng của thế kỷ
XVII. (© Print Collector/
Heritage-Imagestate, UK)
trong Hiến pháp Mỹ, một văn kiện cho đến nay vẫn điều chỉnh mọi bộ luật của Mỹ. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì hoãn – một cách chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc – song ý tưởng về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này, con người sẽ không còn là con người nữa.
TIẾN BỘ QUA CÁC THẾ KỶ
Theo truyền thống, tất cả các nhóm người từ các bộ lạc sinh sống nơi núi rừng tới người dân thành thị đều có các quan niệm về công lý, sự bình đẳng, phẩm giá và sự tôn trọng. Tuy nhiên, quan niệm rằng con người – đơn giản bởi vì họ là con người – có những quyền bất khả xâm phạm nhất định, có thể dùng để bảo vệ bản thân họ trong xã hội và trước những kẻ cai trị vẫn là quan niệm của thiểu số trong kỷ nguyên trước năm 1500. Nhiều xã hội tiền hiện đại cho rằng người cai trị có nghĩa vụ cai quản một cách hợp lý và vì lợi ích của mọi người. Tuy nhiên, người ta cho rằng nghĩa vụ này xuất phát từ mệnh lệnh của Đấng Tối cao hoặc xuất phát từ truyền thống, chứ không dựa trên khái niệm các quyền của cá nhân mà người dân thường có thể dựa vào để bảo vệ bản thân trước những kẻ cai trị bất công.
Lý thuyết dành cho một số người
Người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về nhân quyền là triết gia người Anh John Locke (1632-1704). Locke cho rằng người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên các chính phủ để đảm bảo quyền được hưởng các quyền “tự nhiên”. Locke định nghĩa chính phủ là một “khế ước xã hội” giữa kẻ cai trị và người bị trị. Ông cho rằng công dân chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính phủ bảo vệ các quyền của họ. Thậm chí những quyền này có thể được ưu tiên hơn so với những đòi hỏi và lợi ích khác của chính phủ. Tính hợp pháp của chính phủ chỉ có được nếu tôn trọng và bảo vệ một cách có hệ thống các quyền của công dân.
Tuy nhiên, lý thuyết của Locke cũng có những hạn chế. Mặc dù cách viết của ông hàm ý các quyền này có tính phổ quát, nhưng thực ra ông không xét tới quyền của tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự của ông là bảo vệ quyền của nam giới châu Âu, những người có sở hữu tài sản. Trong khi đó, phụ nữ, những người bản địa, người hầu, lao động được trả lương không được công nhận là những người được hưởng đầy đủ các quyền. Dù vậy, những tư tưởng của Locke và những người khác cùng thời với ông là một bước đột phá quan trọng.
Mở rộng các quyền con người
Rất nhiều cuộc đấu tranh chính trị lớn trong hai thế kỷ qua liên quan đến việc mở rộng một loạt quyền được bảo vệ. Xu hướng này bao gồm mở rộng quyền bầu cử cho mọi công dân, cho phép người lao động được đấu tranh đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc, và xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử vì giới tính và chủng tộc. Trong tất cả các cuộc đấu tranh này, các nhóm bị áp bức đã sử dụng các quyền tự do hạn chế của họ để đấu tranh đòi sự công nhận pháp lý đối với các quyền cơ bản vẫn bị phủ nhận. Trong mỗi cuộc đấu tranh, cốt lõi của lập luận đưa ra là “chúng ta” chứ không chỉ “các anh” mới là con người. Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta đều có các quyền cơ bản giống nhau, được nhà nước tôn trọng và quan tâm như nhau. Việc những lập luận này được chấp nhận đã dẫn tới những thay đổi chính trị xã hội cấp tiến trên toàn thế giới.
Trên toàn cầu, chế độ nào phủ nhận các quyền con người cơ bản của công dân, chế độ đó sẽ không ổn định lâu dài. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô chính là công dân ở khối các nước cộng sản càng ngày càng không thể chấp nhận thực tế là các quyền con người được quốc tế công nhận bị phủ nhận một cách có hệ thống. Ở Nam và Trung Mỹ, các chính quyền quân sự áp bức đã sụp đổ trong những năm 1980. Ở châu Á và châu Phi, tự do hóa và dân chủ hóa diễn ra không suôn sẻ nhưng đó là một thực tế. Ví dụ Hàn Quốc và Nam Phi là hai quốc gia điển hình đã đạt được những tiến bộ về nhân quyền. Bài học trong thời gian qua cho thấy ở đâu người dân có cơ hội lựa chọn, ở đó họ chọn các quyền con người được quốc tế công nhận. Mặc dù còn khó khăn, trở ngại, nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà ngày càng ít các chính phủ dám tước bỏ của người dân quyền tự do lựa chọn đó.
NHÂN QUYỀN LÀ MỘT VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Ngày nay, hầu hết các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi trình độ phát triển, đều khẳng định cam kết về nhân quyền. Chính phủ nào liên tục gây ra các vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn đều bị coi là bất hợp pháp.

Eleanor Roosevelt, góa phụ của Tổng thống Franklin
D. Roosevelt, đang cầm trên tay Tuyên ngôn Nhân
quyền Toàn cầu của Liên Hợp Quốc. (Ảnh của UN)
Nhưng không phải lúc nào cũng đơn giản như vậy. Tiến bộ hay thiếu tiến bộ về nhân quyền của một quốc gia mới trở thành một chủ đề quan hệ quốc tế trong khoảng một nửa thế kỷ nay. Trước Chiến tranh Thế giới Thứ hai, phản ứng trước những vụ tàn sát các nhóm thiểu số trong phạm vi một quốc gia chỉ được thể hiện dưới hình thức các tuyên bố lịch sự là không ủng hộ. Thậm chí những vụ vi phạm bớt trắng trợn hơn không được coi là chủ đề thích hợp để  có thể đối thoại ngoại giao. Việc một chính phủ đối xử như thế nào với công dân trong phạm vi lãnh thổ của họ được coi là vấn đề thuộc chủ quyền – nghĩa là quyền lực tối cao của chính phủ đó đối với các vấn đề nội bộ. Trên thực tế, các nước khác và cộng đồng quốc tế được cho là có nghĩa vụ pháp lý quốc tế không can thiệp vào các vấn đề đó.
Cú sốc của cuộc tàn sát người Do Thái
Trong cuộc thảm sát người Do Thái hồi Chiến tranh Thế giới Thứ hai, phátxít Đức và những kẻ đồng lõa đã giết hại một cách có hệ thống hàng triệu người – người Do Thái châu Âu, người La Mã, những người đồng tính – bao gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Ý thức trách nhiệm trước cuộc thảm sát người Do Thái đã dẫn đến cam kết rằng những hành vi tàn bạo của cuộc thảm sát sẽ không được phép tái diễn. Nhân quyền đã trở thành dòng chảy chính của quan hệ quốc tế. Trước khi xảy ra cuộc thảm sát người Do Thái một số nước biện minh rằng việc nhà nước đối xử như thế nào đối với công dân của họ là vấn đề nội bộ. Do vậy, việc tàn sát công dân của một nước không phải là một tội danh được quy định theo luật pháp quốc tế. Tòa án Xét xử Tội phạm Chiến tranh Nuremberg năm 1945 đã giúp thay đổi thực tiễn này. Các phiên tòa xét xử – trong đó những tướng lĩnh phát-xít cấp cao đã phải chịu bản án vì những hành vi của mình – đã cho ra đời khái niệm về tội ác chống lại nhân loại. Lần đầu tiên, các quan chức phải chịu trách nhiệm pháp lý trước cộng đồng quốc tế về những tội danh chống lại cá nhân công dân. Tuy nhiên, tại Liên Hợp Quốc, nhân quyền mới thực sự trở thành một chủ đề của quan hệ quốc tế. Nhân quyền chiếm một vị trí nổi trội trong Hiến chương Liên Hợp Quốc đưa ra năm 1945. Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu. Tuyên ngôn này khẳng định cách thức các nhà nước đối xử với công dân họ là vấn đề quốc tế chính đáng cần quan tâm và phải tuân theo các chuẩn mực quốc tế.
Tác động của Chiến tranh Lạnh
Tuy nhiên, không phải mọi việc đều diễn ra suôn sẻ. Trong những năm sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, một cuộc chiến ý thức hệ căng thẳng đã nổ ra giữa các nước cộng sản và các nước tư bản có tác động tới toàn thế giới.
“Chiến tranh Lạnh” kéo dài cho đến khi Liên Xô sụp đổ năm 1991. Giống như Mỹ đôi lúc sẵn sàng bỏ qua những vụ vi phạm nhân quyền ở các chế độ chống cộng sản “thân thiện” thì Liên Xô sẵn sàng sử dụng vũ lực khi cần thiết để đảm bảo các chế độ độc tài “thân thiện” ở trong vòng ảnh hưởng của mình. Hơn thế nữa, một số quốc gia sẵn sàng chấp nhận sự kiểm soát đa phương đối với các thực tiễn nhân quyền của họ, nói gì đến việc thực thi nhân quyền ở cấp quốc tế. Liên Hợp Quốc không phải là một chính phủ thế giới. Tổ chức này không thể làm gì nếu thành viên của nó – các quốc gia có chủ quyền – không cho phép. Rốt cuộc thì trong hai thập kỷ đầu của Chiến tranh Lạnh, không khối nước nào sẵn sàng cho phép Liên Hợp Quốc được làm gì nhiều trong lĩnh vực nhân quyền. Tuy nhiên, vào giữa những năm 1960 khối Á-Phi đã trở thành nhóm lớn nhất tại Liên Hợp Quốc. Những nước này – từng chịu sự cai trị của chế độ thực dân – có mối quan tâm đặc biệt về nhân quyền. Họ nhận thấy sự cảm thông từ khối các nước Xô-viết, một số nước ở châu Âu và châu Mỹ, trong đó có Mỹ. Do vậy, Mỹ lại một lần nữa bắt đầu chú ý tới nhân quyền.
Điều quan trọng nhất là thực tế này đã dẫn đến sự hoàn thành các Công ước Quốc tế về Nhân quyền vào năm 1966. Cùng với Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu, những công ước này là sự khẳng định mạnh mẽ nhất về các quyền con người được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, tính toàn diện của các Công ước đòi hỏi Liên Hợp Quốc phải chuyển hoạt động vì nhân quyền của tổ chức này từ việc định ra các tiêu chuẩn sang giám sát việc các quốc gia tuân thủ những tiêu chuẩn này như thế nào. Đây là lĩnh vực mà Liên Hợp Quốc đã không đạt được tiến bộ nào trong hai thập kỷ đầu tiên. Mặc dù những khái niệm trụ cột về các chuẩn mực nhân quyền đã được làm rõ vào giữa những năm 1960, nhưng việc thực hiện những chuẩn mực này về cơ bản vẫn phụ thuộc vào thiện chí của từng chính phủ.
Sự hồi sinh của nhân quyền dưới thời Carter
Khi Jimmy Carter trở thành Tổng thống Mỹ năm 1977, ông đã đưa nhân quyền trở thành một vấn đề quốc tế. Carter đã biến các quyền phổ quát trở thành một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và khuyến khích những người ủng hộ nhân quyền trên toàn thế giới. Carter cố gắng tách nhân quyền quốc tế khỏi nền chính trị Đông-Tây của Chiến tranh Lạnh và cuộc tranh luận Bắc-Nam giữa các nước công nghiệp và các nước phi công nghiệp về các vấn đề kinh tế. Cố gắng này đã mang đến động lực mới và làm gia tăng tính hợp pháp của các tổ chức nhân quyền ở khắp mọi nơi.
Tiến trình Helsinki
Thời kỳ giữa thập kỷ 1970 chứng kiến việc đưa nhân quyền trở thành nội dung chính trong chính sách đối ngoại song phương và đa phương. Mỹ và các nước châu Âu bắt đầu xem xét các thực tiễn nhân quyền trong các chính sách viện trợ của họ. Và Đạo luật Cuối cùng Helsinki năm 1975 công khai đưa nhân quyền vào nội dung quan hệ Mỹ-Liên Xô. Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) bắt đầu vào đầu những năm 1970 với một loạt đàm phán trong đó có sự tham gia của Mỹ, Ca-na-đa, Liên Xô và hầu hết các nước châu Âu. Các cuộc bàn thảo tập trung vào việc giải quyết các vấn đề giữa phương Đông Cộng sản và phương Tây dân chủ. Đạo luật cuối cùng của CSCE, đạt được năm 1975 tại Helsinki, Phần Lan và được 35 nước ký kết được gọi là Thỏa ước Helsinki. Thỏa ước này nêu ra 10 nguyên tắc cụ thể, trong đó có tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản như tự do tư tưởng, tự do lương tri, tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Nhiều chuyên gia cho rằng tiến trình Helsinki khiến các chế độ độc tài cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.  Cuối những năm 1980, Chiến tranh Lạnh kết thúc và ngày 25/12/1991 không còn lá cờ Xô Viết tại điện Kremlin. CSCE ở thời điểm đó tổ chức các hội nghị và hội thảo, nhưng giờ đây đã có vai trò lớn hơn đó là quản lý những thay đổi lịch sử đang diễn ra ở châu Âu. Tên của nó được đổi thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Hiện nay OSCE là tổ chức an ninh khu vực lớn nhất trên thế giới, với 56 nước thành viên ở châu Âu, Trung Á và Bắc Mỹ. Tổ chức này cũng có các đối tác ở châu Á và khu vực Địa Trung Hải. Nhiều người coi OSCE là điển hình cho các nỗ lực hợp tác ở các khu vực khác nhằm thúc đẩy sự tôn trọng nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. Tuyên bố Copenhagen và những Nguyên tắc Paris của OSCE có ảnh hưởng lớn bởi chúng là thước đo thực hiện nhân quyền, trong đó có thành tích của các quốc gia dân chủ. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, Ủy ban Nhân quyền được hồi sinh, đứng đầu là Ca-na-đa, Hà Lan và các nước khác, đã xây dựng những công ước mới về Quyền Phụ nữ (1979), công ước Chống tra tấn (1984) và công ước về Quyền Trẻ em (1989). Các chuyên gia đã được chỉ định để nghiên cứu và báo cáo về các vụ vi phạm nhân quyền ở ngày càng nhiều quốc gia. Vào giữa những năm 1980, hầu hết các nước phương Tây nhất trí rằng nhân quyền phải là ưu tiên trong chính sách đối ngoại, và hướng tới vấn đề giám sát và thực thi nhân quyền.
Thập kỷ 1970 là giai đoạn trong đó các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị quốc tế nổi bật. Điển hình là giải thưởng Nobel Hòa bình dành cho Tổ chức Ân xá Quốc tế năm 1977 vì đã giúp đỡ các tù nhân chính trị. Năm 1980, có khoảng 200 tổ chức phi chính phủ ở Mỹ hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền và ở Anh cũng có số lượng như vậy. Sự xuất hiện của các tổ chức phi chính phủ ở các nước châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh cũng là một diễn biến quan trọng không kém. Những tổ chức này, bên cạnh việc ủng hộ nạn nhân các vụ lạm dụng nhân quyền, còn có ảnh hưởng quan trọng đối với các chính sách nhân quyền quốc gia và quốc tế.
Môi trường hậu Chiến tranh Lạnh
Từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nỗ lực quốc tế thúc đẩy nhân quyền được tăng cường hơn nữa mà điển hình là sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhằm tăng cường hoạt động giám sát quốc tế. Ở hầu hết các nước, bản chất và giới hạn của nhân quyền thể hiện rõ hơn trong chương trình nghị sự quốc gia. Cũng như những ý tưởng tự do kinh tế lan rộng thông qua quá trình toàn cầu hóa, các ý tưởng khác cũng vậy. Các tổ chức nhân quyền phi chính phủ và những người ủng hộ cho nhân quyền ngày càng có ảnh hưởng trên toàn thế giới.
Chắc chắn, việc nêu ra các vấn đề nhân quyền đôi khi vẫn bị các nước phản ứng, điển hình là mối quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và các đối tác thương mại lớn của nước này trong những năm sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Hầu hết các nước vẫn không giải quyết hiệu quả các mối quan ngại nhân quyền quốc tế theo yêu cầu của các tổ chức nhân quyền phi chính phủ.
Vẫn còn các chế độ cầm quyền – ở Cuba, Bắc Triều Tiên, và những nơi khác – tiếp tục vi phạm có hệ thống các quyền con người được quốc tế công nhận. Như trong các báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ và rất nhiều tổ chức phi chính phủ, hầu hết các nước trên thế giới vẫn có những vấn đề nhân quyền nghiêm trọng. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế đã sẵn sàng giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Đáng tiếc là năm 1994 Liên Hợp Quốc đã không can thiệp quân sự để chặn đứng được cuộc diệt chủng ở Ru-an-đa. Tuy nhiên ở El Salvador, các nhà giám sát nhân quyền của Liên Hợp Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được một giải pháp chính trị và phi quân sự hóa quốc gia này sau một thập kỷ nội chiến. Ở Sô-ma-li, khi quốc gia này bị rơi vào cuộc chính biến, các lực lượng quân sự đa phương đã can thiệp để cứu hàng nghìn dân khỏi bị nạn đói. Ở Căm-pu-chia, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã giúp đẩy lui lực lượng Việt Nam và kiềm chế Khơ-me Đỏ, thúc đẩy việc hình thành một chính phủ được bầu lên tự do. Ở Bosnia, cộng đồng quốc tế dưới sự lãnh đạo của Mỹ, đã sử dụng sức mạnh quân sự để chấm dứt cuộc nội chiến đẫm máu khiến 200.000 người bị giết hại và đẩy hai triệu người khác vào cảnh nhà tan bằng cuộc “thanh lọc sắc tộc” có hệ thống.
Bất chấp tầm quan trọng của nhân quyền và nền chính trị nhân đạo, những năm đầu thế kỷ 21, cộng đồng quốc tế đang đấu tranh để ngăn chặn cuộc xung đột sắc tộc kéo dài ở tỉnh miền tây Darfur của Su-đăng. Cuộc xung đột này mà Liên Hợp Quốc và các tổ chức nhân quyền coi là diệt chủng đã cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người và đẩy hơn hai triệu người khác phải sống trong các trại tị nạn. Lực lượng của Liên minh châu Phi không thể ngăn chặn được tình trạng giết chóc, cưỡng hiếp tùy tiện và Mỹ đã phải kêu gọi Liên Hợp Quốc triển khai một lực lượng gìn giữ hòa bình lớn ở nước này. Đồng thời, cộng đồng quốc tế, trong đó có các tổ chức nhân quyền phi chính phủ, đã tham gia đối phó với phong trào khủng bố quốc tế tăng mạnh điển hình là các cuộc tấn công khủng bố ở Mỹ ngày 11/9/2001 và các cuộc tấn công khủng bố khác của al Qaeda trên thế giới, từ In-đô-nêxi-a tới Tây Ban Nha. Cũng chính những quan sát viên này đã lên tiếng chỉ trích phản ứng của các chính phủ đối với chủ nghĩa khủng bố.

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MỸ
Mỹ đóng vai trò đặc biệt trong việc phát triển và ủng hộ các ý tưởng và thực tiễn về nhân quyền. Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 theo đó các thuộc địa Mỹ tuyên bố tách khỏi nước Anh, khẳng định rằng “mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Quan trọng không kém, Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định quyền của người dân được phá bỏ những ràng buộc chính trị áp bức. Với Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền của Mỹ, thế giới lần đầu tiên chứng kiến thử nghiệm trên thực tế việc xây dựng một chính phủ mà sự vận hành của nó được đánh giá dựa trên mức độ tôn trọng và bảo vệ các quyền của người dân. Do vậy, các quyền được người Mỹ coi là một đặc điểm trong di sản quốc gia của họ. Những người Mỹ đầu tiên không nói đến “nhân quyền” mà nói đến tự do và các quyền tự do. Rất nhiều trong số những người dân thuộc địa đầu tiên đến Tân Thế giới để tìm kiếm quyền tự do tôn giáo của họ đã bị tước bỏ ở châu Âu thế kỷ XVII. Khi hình thành các cộng đồng, qua thời gian họ đã phát triển ý thức về sự khoan dung tôn giáo và mong muốn xây dựng chính quyền tự trị. Khi thời gian đã chín muồi để những người dân thuộc địa Mỹ tách khỏi nước Anh thì lúc đó họ đã xây dựng được luật và các tập quán công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do hành đạo và tự do lập hội. Quyền kiến nghị chính phủ, quyền có bồi thẩm đoàn và có tiếng nói trong việc quản lý những vấn đề của chính họ là những quyền khác mà họ đã nuôi dưỡng, ấp ủ. Tât cả những quyền này là những giá trị trụ cột trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, một đoạn sẽ được trích dưới đây. Tác giả chính của Tuyên ngôn Độc lập, Thomas Jefferson, sau này trở thành tổng thống thứ ba của nước Mỹ.
 “Sự thật hiển nhiên là mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của nhân dân. Nếu chính phủ nào hủy hoại những mục tiêu này thì người dân có quyền thay đổi hoặc lật đổ chính phủ và hình thành nên chính phủ mới, dựa trên những nguyên tắc và tổ chức quyền lực theo hình thức mà người dân cho là chắc chắn sẽ đảm bảo được sự an toàn và hạnh phúc của họ.
Tuyên ngôn nhân quyền
Năm 1787, đại diện của 12 trong số 13 bang đầu tiên đã gặp nhau ở Philadelphia, bang Pennsylvania, để soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Họ đã soạn thảo một văn kiện về nền dân chủ thỏa hiệp và đại diện, phù hợp với những thay đổi trong suốt hơn 200 năm. Rất nhiều người lúc đầu phản đối Hiến pháp mới. Họ chỉ chấp thuận văn kiện này nếu một loạt điều bổ sung đảm bảo các quyền tự do dân sự – những quyền tự do đã được quy định trong hầu hết hiến pháp các nước – được thêm vào Hiến pháp. Do vậy, 10 điều bổ sung dưới đây, được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền, đã được đưa vào Hiến pháp năm 1791. Kể từ khi Tuyên ngôn Nhân quyền được đưa ra, Hiến pháp Mỹ chỉ có thêm 17 điều sửa đổi bổ sung nữa.

Trong bức tranh này, Thomas Jefferson trình Tuyên ngôn Độc lập tại
Đại hội Lục địa. (Phòng In ấn và Ảnh, Thư viện Quốc hội Mỹ)
Điều bổ sung sửa đổi I - Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.
Điều bổ sung sửa đổi II - Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm chỉnh là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.
Điều bổ sung sửa đổi III - Không một quân nhân nào trong thời bình được đóng quân trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và ngay trong thời chiến cũng chỉ theo qui định của luật pháp.
Điều bổ sung sửa đổi IV - Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ.
Điều bổ sung sửa đổi V - Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai sẽ bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.
Điều bổ sung sửa đổi VI - Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử một cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng của bang hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp luật chỉ định trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được đối chất với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những nhân chứng để biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
Điều bổ sung sửa đổi VII - Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu giá trị tranh chấp quá 20 đôla, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm đoàn sẽ được tôn trọng và không một vụ việc nào đãđược Bồi thẩm đoàn xét xử lại phải xem xét lại lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Hoa Kỳ, mà phải căn cứ theo các quy tắc của thông luật.
Điều bổ sung sửa đổi VIII - Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá cao, không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình phạt dã man và khác thường.
Điều bổ sung sửa đổi IX - Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân.
Điều bổ sung sửa đổi thứ X - Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không bị ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ thể hoặc nhân dân.
Các vấn đề về nhân quyền
Dĩ nhiên trong di sản Mỹ cũng có những mảng tối. Chế độ nô lệ được chấp nhận ở các bang miền Nam trong suốt 75 năm đầu tiên của nền Cộng hòa Mỹ. Tình trạng phân biệt chủng tộc tại các trường học, các khu công cộng và định kiến xã hội là những vấn đề nổi cộm trong suốt thế kỷ thứ hai. Người Mỹ bản địa bị buộc phải di chuyển về phía tây.

Tổng thống Abraham Lincoln tại chiến trường
Antietam năm 1862. Cuộc Nội chiến của Mỹ là
cuộc đọ sức giữa những người không sở hữu nô lệ
ở miền Bắc với những chủ nô ở miền Nam, cuộc
chiến này đã kết thúc vĩnh viễn chế độ nô lệ ở Bắc
Mỹ và đưa nhân quyền trở thành mối quan tâm
thường xuyên trong xã hội và văn hóa Mỹ.
(Phòng In ấn và Ảnh, Thư viện Quốc hội Mỹ)
Họ bị mất nhà cửa, đất đai và nhiều khi còn mất mạng. Phụ nữ không được quyền bầu cử, không được tham gia bồi thẩm đoàn, thậm chí không có quyền sở hữu tài sản trong vai trò người vợ. Tuy nhiên, một trong những đặc điểm của nền dân chủ Mỹ là các cơ chế tự điều chỉnh bầu cử và các tòa án đều có xu hướng sửa chữa những sai lầm của những thời kỳ trước. Riêng ý tưởng bình đẳng cũng đã giúp giải quyết các tệ nạn xã hội.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã ủng hộ một số chế độ quân sự độc tài tàn bạo thông qua hỗ trợ tài chính và quân sự miễn là họ ủng hộ các lợi ích kinh tế và địa chính trị của Mỹ. Gần đây sau sự kiện 11/9, Mỹ bị chỉ trích về việc đối xử với những kẻ bị tình nghi khủng bố và một số vụ lạm dụng tù nhân của quân đội Mỹ trong chiến tranh I-rắc. Ranh giới các quyền trong các trường hợp xung đột liên quan đến khủng bố – những kẻ rút cục chỉ cố gắng để phá hoại quyền của mọi người – vẫn đang được tranh luận ở các xã hội văn minh.
Một số nhóm bày tỏ quan ngại về hình phạt tử hình, sự hiện diện pháp lý đầy đủ trong các vụ án tử hình, cũng như số lượng nam giới là người thiểu số bị tù vì các tội hình sự. Đã có các tranh luận về việc những người bị kết án sau khi mãn hạn tù bị tước quyền công dân, và có cả các cuộc thảo luận về những nhóm sắc tộc thiểu số. Một lần nữa người ta lại nhận thấy sức mạnh của một ý tưởng – ví dụ ý tưởng về sự bình đẳng – tạo ra một cuộc tranh luận không ngừng.
Những hành động tích cực
Mặc dù vậy, Mỹ cũng có nhiều thành tích về những hành động quốc tế tích cực nhân danh nhân quyền. Sau Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đấu tranh cho quyền tự quyết dân tộc và bảo vệ người thiểu số của cộng đồng quốc tế. Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ đổ nhiều công sức, tiền của để duy trì và tái thiết nền dân chủ ở châu Âu và xây dựng nền dân chủ ở Nhật Bản. Mỹ đi tiên phong trong quá trình phi thực dân hóa, trao trả độc lập cho Phi-líp-pin năm 1946. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, Mỹ nổi lên là nước đi đầu trong các sáng kiến đa phương về nhân đạo và nhân quyền ở Xô-ma-li, Su-đăng, Hai-i-ti, Bosnia và nhiều quốc gia khác.
Báo cáo Quốc hội
Theo luật, Bộ Ngoại giao Mỹ hàng năm phải trình lên Quốc hội một số báo cáo tổng hợp về tình hình nhân quyền như sau:
· Báo cáo tình hình nhân quyền các nước đánh giá chi tiết tình hình nhân quyền ở các nước trên thế giới.
· Ủng hộ Nhân quyền và Dân chủ mô tả những việc mà Chính phủ Mỹ đang làm để giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền nêu trong báo cáo tình hình nhân quyền các nước.
· Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế đánh giá mức độ tự do hành đạo của người dân.
· Báo cáo về nạn Buôn người điều tra hình thức nô lệ thời hiện đại. Sau khi hoàn thiện, các báo cáo này được trình lên Quốc hội và đưa lên Internet phổ biến trên khắp thế giới.
Ở bên ngoài, việc Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và luôn cho mình là đúng đôi khi gây nên oán giận, ngay cả ở những nước chia sẻ những giá trị trụ cột trong các chính sách của Mỹ. Không khó để chỉ ra nơi mà những lý tưởng của Mỹ thất bại. Tuy nhiên, nước Mỹ ngày nay cũng như trong hai thế kỷ trước vẫn là nước lãnh đạo thế giới trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền đang tiếp diễn. Mặc dù được chấp nhận rộng rãi, nhưng cuộc đấu tranh để thực hiện những ý tưởng đó vẫn đang diễn ra trên toàn cầu.
 GIÁM SÁT QUỐC TẾ VÀ CƠ CHẾ THỰC THI
ít nhất về mặt lý thuyết, các quốc gia ngày càng có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế về tình hình nhân quyền của họ. Hơn 3/4 quốc gia trên thế giới đã phê chuẩn các Công ước Quốc tế về Nhân quyền. Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về các Quyền Dân sự và Chính trị đã thành lập một ủy ban giám sát gồm các chuyên gia độc lập – gọi là Ủy ban Nhân quyền. Chức năng chính của Ủy ban này là xem xét các báo cáo định kỳ mà các nước trình lên. Các ủy ban tương tự cũng đã được thành lập thông qua các Công ước Nhân quyền Quốc tế về phân biệt chủng tộc, quyền của phụ nữ, chống tra tấn, quyền trẻ em cũng như các Công ước mới về quyền của người tàn tật và lao động di cư.
Động lực cải thiện tình hình nhân quyền

Lễ khai mạc Hội thảo Nhân quyền
Thế giới của Liên Hợp Quốc tại
Viên, 1993. (Ảnh của AP)
Giám sát và báo cáo không thể buộc các quốc gia thay đổi thực tiễn nhân quyền của họ. Tuy nhiên, còn có những động lực khác đối với những nước muốn cải thiện hoặc bảo vệ thành tích nhân quyền của họ. Trong quá trình chuẩn bị báo cáo, họ có thể phát hiện ra những lĩnh vực cần phải được cải thiện. Điều này có thể là một nhắc nhở đối với các quan chức về nghĩa vụ pháp lý quốc tế của họ. Ủy ban Nhân quyền châu Âu thuộc Hội đồng châu Âu có một hệ thống khiếu nại rất mạnh. Ủy ban này sau đó chuyển thành Tòa án Nhân quyền châu Âu đã đưa ra những quyết định ràng buộc về pháp lý trong hàng trăm vụ kiện liên quan đến hàng loạt vấn đề, trong đó có những vấn đề nhạy cảm như tình trạng khẩn cấp. Trong hệ thống châu Âu, các quốc gia đã trao một phần thẩm quyền thực thi nhân quyền cho một cộng đồng chính trị khu vực lớn hơn.
Trong lĩnh vực này các tổ chức khu vực ở châu Mỹ và châu Phi không mấy thành công. Thế giới A-rập và châu Á vẫn chưa có các ủy ban nhân quyền khu vực, mặc dù Diễn đàn châu Á Thái Bình Dương được thành lập năm 1996 với sứ mệnh ủng hộ nỗ lực hợp tác khu vực để “thành lập và phát triển các thể chế quốc gia nhằm bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong khu vực”. Cũng đã có kế hoạch thành lập Ủy ban Nhân quyền ASEAN mới và một Tòa án Nhân quyền châu Phi mới. Sức mạnh và phạm vi áp dụng các biện pháp giám sát quốc tế phụ thuộc vào việc các nước sẵn sàng sử dụng và tham gia thực hiện các biện pháp đó. Tình trạng này vẫn là một vấn đề nghiêm trọng và dai dẳng.
Báo cáo điều tra và ủng hộ
Một loại hình cơ chế giám sát nhân quyền đa phương khác là báo cáo điều tra và ủng hộ. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ. Những báo cáo về Chi-lê của tổ chức này trong những năm 1970 và 1980 là một nhân tố quan trọng trong việc phơi bày những vụ vi phạm nhân quyền của chính phủ Pinochet. Báo cáo của tổ chức này về Nicaragua năm 1978 đã đóng góp quan trọng đưa chính phủ Somoza đến hồi kết.

Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây
Tạng, phát biểu tại Hội nghị Nhân quyền ở New
Đê-li, Ấn Độ. (Ảnh của AP)
Trong hai thập kỷ qua, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã nỗ lực đáng kể trong việc nghiên cứu tình hình các nước, trong đó có những nước tình hình chính trị đáng quan tâm như Guatemala, I-ran và My-an-ma. Cụ thể, ủy ban đã hoạt động thông qua “báo cáo viên đặc biệt” – một chuyên gia độc lập kiêm điều tra viên. “Báo cáo viên đặc biệt” này bên cạnh nhiệm vụ việc báo cáo chính thức cho ủy ban còn cố gắng duy trì đối thoại liên tục với các chính phủ đang bị điều tra nhằm duy trì sự hiện diện lâu dài và thiết lập một kênh ảnh hưởng. Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc cũng cử ra các báo cáo viên hoặc thành lập các nhóm làm việc để điều tra các vụ mất tích, giết hại và giam giữ tuỳ tiện, không khoan dung tôn giáo, các vụ vi phạm nhân quyền vì toan tính vụ lợi và phân biệt chủng tộc. Năm 2006, Ủy ban Nhân quyền đã bị giải tán để thành lập một Hội đồng Nhân quyền nhỏ hơn. Hội đồng Nhân quyền mới này có sự khởi đầu đầy khó khăn. Hội đồng bị chỉ trích vì bỏ các báo cáo viên đặc biệt ở các nước như Belarus và Cuba mà không có lý do rõ ràng. Hơn nữa, Hội đồng còn duy trì tình trạng phân biệt đối xử khi xây dựng chương trình nghị sự lâu dài cho riêng một nước, đó là Israel liên quan tới tình hình Palestin. Cơ chế nhân quyền mới ở Geneva cũng khiến vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong các phiên họp chính thức của Hội đồng bị suy giảm và tiếp tục loại Israel ra khỏi bất cứ nhóm khu vực nào hoạt động ở Geneva. Cũng có hy vọng rằng cái gọi là “đánh giá định kỳ tình hình toàn cầu” có thể là một động lực để các thành viên Hội đồng để cải thiện thực tiễn nhân quyền của họ. Rõ ràng là uy tín đạo lý của mỗi cơ chế nhân quyền phần lớn phải phụ thuộc vào sự công bằng của nó.
CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC QUỐC GIA: NHỮNG VAI TRÒ ĐỐI LẬP NHAU
Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ cũng rất quan trọng đối với nền chính trị nhân quyền quốc tế. Các tổ chức Ân xá Quốc tế, Americas Watch, Liên minh các quyền Tự do Dân sự Mỹ và một số tổ chức khác đóng vai trò quan trọng trong các cuộc tranh luận về chính sách Trung Mỹ những năm 1980. Ở cả Bắc Mỹ và châu Âu, các tổ chức phi chính phủ đóng một vai trò lớn trong các cuộc tranh luận quốc gia về lệnh cấm vận đối với Nam Phi trong những năm 1980.
Các tổ chức phi chính phủ – với tư cách tư nhân – có thể hoạt động mà không chịu sự kiểm soát chính trị của chính phủ. Hơn nữa, do không có những tham vọng chính trị lớn có thể xung đột với các mục tiêu nhân quyền nên các tổ chức phi chính phủ thường ở vị trí thuận lợi hơn khi nêu ra những quan ngại về nhân quyền. Do tính chất phi đảng phái và hoạt động có tiêu điểm, nên đôi khi các tổ chức phi chính phủ có thể nêu lên những vấn đề nhân quyền trong phạm vi một quốc gia mà các tổ chức khác không làm được, điển hình ở những quốc gia mà hoạt động chính trị độc
lập bị đàn áp và xã hội dân sự yếu.
Những điểm mạnh và yếu
Tuy nhiên, sức mạnh của các tổ chức phi chính phủ có giới hạn. Họ phải dựa vào sức mạnh của việc công khai các
vụ vi phạm và tính thuyết phục. Rất nhiều quốc gia đã sử dụng quyền hạn để ép thành viên các nhóm nhân quyền địa phương thành những nạn nhân mới. Một số quốc gia cấm tài trợ bên ngoài cho các tổ chức phi chính phủ, hoặc đặt ra những quy định đăng ký hoạt động phiền phức nhằm cản trở công việc của họ. Các quốc gia có chủ quyền có hầu hết những điểm mạnh và điểm yếu giống các tổ chức phi chính phủ. Các quốc gia phải điều hòa nhiều lợi ích khác nhau trong chính sách đối ngoại của họ. Các chính phủ có xu hướng xây dựng chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia của họ, và điều này có nghĩa là việc ủng hộ nhân quyền có thể bị hạn chế để ưu tiên cho các mục tiêu khác.Tuy nhiên, khi các quốc gia quyết định theo đuổi các mục tiêu nhân quyền, họ sẽ sở hữu các nguồn lực, các kênh ảnh hưởng lớn và cả khả năng công khai mà các tổ chức phi chính phủ không có.
NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY VỀ NHÂN QUYỀN
Hội nghị Quốc tế về Nhân quyền ở Viên năm 1993 giúp thu hút lại sự quan tâm của quốc tế đối với vấn đề nhân quyền trên thế giới thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Việc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thành lập các tòa án xét xử tội phạm chiến tranh ở Nam Tư cũ và Ru-an-đa năm 1993 và 1994 dẫn tới sự hình thành Luật về xung đột vũ trang và Luật nhân đạo quốc tế nhằm bảo vệ dân thường và những người không tham chiến trong các cuộc nội chiến này. Các tòa án đặc biệt cũng thành lập ở Sierra Leone năm 2002 và Căm-pu-chia năm 2003 để truy tố các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự vì những hành vi tàn bạo trong thời kỳ chiến tranh và diệt chủng. Mặc dù Mỹ không tham gia Hiệp ước Rome và tỏ ra e dè về phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước, nhưng Tòa án Hình sự Quốc tế đã được thành lập năm 1998 theo Hiệp ước này và được Hội đồng Bảo an ủy nhiệm truy tố các vụ vi phạm nhân quyền trong cuộc xung đột Darfur, Su-đăng.

Tòa án hình sự của Liên Hợp Quốc xét xử vụ
Nam Tư cũ tại La Hay, 1995. (Ảnh của AP)
Hội nghị Phụ nữ Thế giới lần thứ 4 của Liên Hợp Quốc tại Bắc Kinh năm 1995 đã cố gắng đưa các vấn đề của phụ nữ vào nội dung chính của các cuộc thảo luận về nhân quyền quốc tế. Ngân hàng Thế giới với việc nhấn mạnh  “quản lý hiệu quả” đã nêu bật những vấn đề nhân quyền quan trọng.
Ủy ban châu Âu và Liên minh châu Âu nhấn mạnh quốc gia nào muốn gia nhập các cơ cấu chính trị của châu Âu đều phải có chính sách bảo vệ nhân quyền. Năm 2002, Mỹ đã thành lập Quỹ đối phó với các Thách thức Thiên niên kỷ nhằm hỗ trợ kinh tế cho các nước quản lý đất nước một cách dân chủ, đầu tư cho người dân và khuyến khích tự do kinh tế.
Công khai hóa các vụ vi phạm
Một phát triển tích cực khác nữa là cộng đồng quốc tế ngày càng tập trung lên án những kẻ vi phạm nhân quyền. Các tổ chức ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu đã tạo áp lực lớn khiến các quốc gia không thể không có trách nhiệm công khai về thực tiễn nhân quyền của họ. Chúng ta không nên đánh giá thấp giá trị của việc công khai các vụ vi phạm khiến các quốc gia phải thấy hổ thẹn mà có những hành vi tốt hơn. Ngay cả những chính phủ hà khắc cũng quan tâm đến uy tín quốc tế của họ.

Người dân đang đọc các quyền của họ trên
một tờ áp phích treo trên tường một công sở ở
Albani. (Fejzon Numani/OSCE)
Ví dụ, cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, chính quyền quân sự Argentina đã có những nỗ lực ngoại  giao đáng kể nhằm ngăn chặn các cuộc điều tra của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Hơn nữa, việc công khai các vụ vi phạm ít nhất cũng giúp được một vài trong số rất nhiều nạn nhân nổi bật bị đàn áp giành lại được một mức độ tự do nào đó, thậm chí đôi khi còn tránh được hình phạt. Internet tạo điều kiện dễ dàng hơn để các nhóm nhân quyền liên kết với nhau và công khai hóa các vụ vi phạm nhân quyền. Những kỳ vọng và các chuẩn mực quốc gia và quốc tế đang được thay đổi theo hướng tốt hơn. Trong thế giới ngày nay, ý tưởng nhân quyền có sức mạnh đạo lý và khả năng huy động khó có thể kháng cự được. Và khi ngày càng nhiều người dân trên thế giới ý thức được bản thân họ có những quyền bất khả xâm phạm, thì đòi hỏi về nhân quyền khiến những kẻ độc tài phải trốn chạy, còn chính phủ của họ sẽ tan thành mây khói. Về ngắn hạn, thanh gươm có thể mạnh hơn lời nói. Nhưng nhiệm vụ của những người ủng hộ nhân quyền – dù ở bất cứ đâu – là một nhiệm vụ lâu dài và cao cả, đó là nói lên sự thật. Và một trong những bài học tâm huyết nhất trong lịch sử hiện đại của chúng ta là sự thật sẽ chiến thắng.

Trung tâm Hoa Kỳ
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov

http://vietnamhumanrightscommitte.wordpress.com/nhan-quyen-la-gi/

0 nhận xét:

Đăng nhận xét