link: http://en.wikipedia.org/wiki/Tom%C3%A1s_de_Torquemada
Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014
AI ĐI BUÔN THƯỢNG ĐẾ ?
23:09
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trần Văn Kha
Thế giới sẽ không bị hủy diệt
bởi những người làm điều xấu,
nhưng bởi những người nhìn họ
hành động mà không chịu can
thiệp.
(Trích ra từ “Chống Cộng...”
trang 343 và "Yoga 2008", trang
53). (Le monde ne sera pas
détruit par ceux qui font le
mal, mais par ceux qui les
regardent agir et qui refusent
d’intervenir.) - Albert
Einstein
-------------
I.- CHỐNG ĐỐI.
Đã có người cho rằng không nên
víết về tôn giáo, dù đó là sự
thật, vì víết ra sẽ bị chống
đối. Tôn giáo thuộc về đức tin,
ai muốn tin thế nào, thờ cúng
như thế nào, là do sự tin tưởng
của người ta. Khẩu hịêu tranh
đấu thường được đưa ra để đòi là
“Tự Do Tôn Gíao”. Đòi “Tự Do Tôn
Gíao” thì đúng, nhưng nếu giáo
điều của tôn giáo ấy khuyến
khích giết người và mê tín dị
đoan, thì có nên chống không?
Gíao sư Tíên sĩ Vật lý Trần
Chung Ngọc và Gíao sư Nguyễn
Mạnh Quang chỉ víết những bài
chống mê tín dị đoan, và những
tín đìều đòi hỏi tín đồ giết
người không cùng đạo, chứ đâu có
chống đạo Ca-tô, mà cứ bị những
tín đồ Ca-tô Vịêt Nam cuồng tín
chống đối với những lời lẽ thiếu
văn hóa. Nhưng chống đối với
những lời lẽ thiếu văn hóa
là tự mình bôi nhọ mình, tự mình
hạ giá mình. Riêng giáo sư
Nguyễn Mạnh Quang còn bị đe dọa
thanh tóan.
Nhưng ở Mỹ đâu phải ở Vịêt Nam
dưới chế độ gia đình trị, độc
tài tòan trị Ngô Đình Dịêm, mà
bảo muốn giết ai thì giết. Họ
thường lên tiếng chỉ trích những
ai nói lên sự thật không có lợi
cho đạo Ca-tô là Bôi nhọ Đạo
Công giáo, chống Công giáo,
“Public Religion”. “Public
Religion” là chúng tôi dịch
ngược trở lại danh từ “Công
giáo” mà họ thường dùng. Chúng
ta có Jardin Publique hay Public
Garden dịch là Công viên, chứ
làm gì có Public Religion.
Nói
bôi nhọ là nói sai, bởi vì nếu
đạo “Public Religion” là một đạo
không mê tín dị đoan, không gây
đổ máu vì tôn giáo, không buôn
thần bán thánh, không khai thác
Thượng Đế cho những lợi ích thế
gian, và nhất là không gây ra
những vụ thảm sát giữa người
Việt Nam chúng ta với nhau, v.v…
mà lại phục vụ cho hạnh phúc của
nhân loại, thì không ai có thể
bôi nhọ được. Thử đem cục vàng y
ra bôi nhọ, làm sao bôi nhọ
được. Có bôi nhọ cách nào, dấu
kín cách nào, thì vàng vẫn là
vàng. Chỉ cái gì đã nhọ sẵn thì
mới có thể bôi nhọ thêm, nhưng
nếu nó đã nhọ quá, đen kịt rồi,
thì cũng không bôi nhọ vào chỗ
nào được.
Bảo bôi nhọ đạo Công Giáo tức
là gián tiếp công nhận đạo ấy đã
nhọ rồi. Đạo Công Giáo nhọ nhiều
hay nhọ ít, hay đen kịt rồi,
thần thánh hay phàm tục?
Bảo chúng tôi bôi nhọ đạo Công
Giáo, chúng tôi xin thưa, chúng
tôi không có khả năng đó. Làm
sao mà một người Việt Nam tầm
thường như tôi lại có thể bôi
nhọ được đạo Công Giáo với
khoảng một tỷ tín đồ, và gia tài
Vatican thì lên đến cả nghìn tỷ
đô-la? Ngoài ra đó cũng hoàn
toàn không phải là chủ trương
của chúng tôi.
Bôi nhọ đạo Công Giáo chỉ có
thể là những người Công Giáo.
Chúng tôi nghĩ là các linh mục
hiếp dâm con nít, hiếp dâm nữ
tu, hiếp dâm lẫn nhau, hiếp dâm
tín đồ trong nhà thờ, như đã
trình bày trong các bài “Lạm
Dụng Tình Dục” và “Linh Mục Hiếp
Dâm”, trang 843 và 882, v.v… mới
chính là những người “bôi nhọ”
đạo Công giáo.
II. TỔ CHỨC ĐI BUÔN.
Tổ chức đi Buôn Thượng Đế lớn
nhất là Gíao Hội Ca-tô Rô-ma, mà
người đứng đầu là Gíao Hòang,
đóng đô ở Vatican. Gíao Hòang là
vua tôn giáo. Vua thời xưa ờ Tàu
và ở Ta thường được gọi là Thiên
Tử, tức Con Trời. Gíao Hòang là
vua tôn giáo, vậy để phân bịêt
Vua tôn gíao với Vua thế tục,
xin thêm một chữ G sau Con Trời,
mỗi khi nói đến Gíao Hòang,
Con Trời G.
Không có tổ chức đi buôn nào đem
lại nhiều quyền, nhiều lợi, hơn
là Đi Buôn Thượng Đế.
2.1. Quyền.
Con Trời G Greùgoire VII
(1073-1085) với
Thông Điệp Dictatus Papae tự
ban cho mình cái quyền
truất phế các vị Hòang Đế. (Xin
coi chi tiết “Nhân Quyền...”).
Với những tín đồ bị giáo dục
đìều kịên hóa từ người xuống làm
lòai vật, thành con chiên, người
chăn chiên bảo sao nó nghe vậy,
cầm gậy dắt đi đâu nó theo đó,
nếu Con Trời G bảo bỏ Con Trời,
thì con chiên nghe theo. Trong
lịch sử chỉ có hai người không
sợ Con Trời G, là vua Napoléon
và Hitler.
a)
Napoléon. Cuộc cách mạng Pháp
1789 đã tịch thu của cải của
Giáo hội Ca-tô, tước hết quyền
hành của giới tu sĩ, nên Giáo
hoàng không có khả năng ra lệnh
cho tín đồ bất tuân lệnh của nhà
vua. Sau khi Giáo hoàng Pie VII
khai trừ vua Napoléon, thì bị
nhà vua bắt giam ở Savone năm
1809. Được thả ra, giáo hoàng
cưỡng lại những đòi hỏi của vua
Napolon, và bị vua bắt giam lần
thứ hai năm 1812, ở
Fontainebleau. (“Petit
Larousse”, ấn bản 1986, trang
1604).
b)
Hitler. Trong cuộc Thế Chiến II,
khi bắt đầu chiến tranh, Hitler
toàn thắng ở Âu-châu. Ở nước Ý
thì có nhà độc tài Mussolini là
đồng minh, Hitler có thể bắt
giam giáo hoàng, nếu cần. Giáo
Hoàng sợ Hitler, không dám lên
tiếng bênh vực dân Do-thái bị
Đức Quốc Xã thủ tiêu.
Ngòai cái quyền truất phế vua,
Con Trời G còn lập ra tòa án để
bắt và giết những người mà Gíao
Hội cho là theo tà đạo, hay phù
thủy, hay những nhà khoa học mà
mhững khám phá của họ trái ngược
với Kinh Thánh.
Giáo điều.
Exodus 22: 20. Ai dâng
đồ cúng bất cứ thần nào không
phải Jehovah mà thôi thì đều
phải tiêu diệt. (Exodus
22:20. One who sacrifices
to any gods but Jehovah alone is
to be devoted to destruction)
Đó là nguyên nhân gây ra “Những
tàn sát dã man, đẫm máu”:
a)
Trong lịch sử nhân loại mà sau
đây chỉ là bốn tỉ dụ:
- Năm 1481 quan tòa Tomas
Torkvenada
(Torquemada) thiêu sống một
lúc 12.000 người Do-thái trên
giàn hỏa chỉ vì họ không chịu
làm dấu Thánh giá.
- Từ năm 1200 đến 1500, các tòa
hình án đã tra tấn, rồi đem
thiêu sống hay treo cổ, một số
nạn nhân không thể đếm được, gồm
đàn ông, đàn bà, trẻ em...
(Tài liệu trên mạng Giao Điểm ).
- Người ta ước lượng Giáo hội
Ca-tô Rô-ma đã giết hơn
11.000.000 người trong thời
kỳ của tòa hình án.
It has been estimated that the
Roman Catholic Church killed
over eleven million people
during the course of the
Inquisition.- (“Pope John Paul
II The Criminal” by Frank R.
Zindler).
- Từ ngày tên bạo chúa La Mã
Constantine biến nó thành tôn
giáo chính thức của đế quốc vào
năm 325 đến nay, nó đã giết hại
trên 200 triệu người.
(“Công giáo trên Bờ vực thẳm”
trang 227, Charlie Nguyễn).
b)
Và ở thời đại chúng ta ở :
- Croatia từ 1941 đến
1945. Những người bị tàn sát dã
man đã lên tới con số khủng
khiếp 800.000 người. Một tín đồ
Ca-tô trẻ Peter Brzica đã cắt cổ
được 1.360 người tù bằng con dao
đồ tể đặc biệt.
Hồng y Stepinac, lãnh đạo phong
trào giết người dã man (với sự
đồng ý của Giáo hoàng Pius XII),
đã bị một tòa án thành lập sau
chiến tranh kết án 16 năm tù ở.
(Xin coi thêm chi tiết trong
“Thời Đại Mới II”, trang 332-33,
và “John Paul II” bài “Thánh
Stepinac” trang 343, 355, 371).
- Rwanda, năm 1994. Số
người bị giết là từ 500.000 đến
800.000.
Hai linh mục Ca-tô (Cha cũng như
Chúa) tham gia vào những vụ tàn
sát diệt chủng bị tòa án kết tội
tử hình. (John Paul II, trang
256);
- Việt Nam, dưới triều
đại Ca-tô toàn trị Ngô Đình
Diệm, từ 1954 đến 1963, số người
bị tàn sát khoảng 300.000 cũng
dã man không kém. Có người bị
bóp cổ chết, chôn sống... (“Thời
Đại Mới II”, trang 333).
Trước khi bị giết, các nạn nhân
thường bị tra tấn hết sức dả
man.
Tra tấn.
Những cặp kìm đỏ lửa dứt từng
miếng thịt của Dolcino, đốt cháy
mũi và bộ phận sinh dục. Nhưng
theo truyền thống, Dolcino đương
đầu với sự tra tấn đó một cách
tỉnh táo.
(Des tenailles rougeoyantes
arrachent les chairs de Dolcino,
mutilent le nez et lea parties
geùnitales. D’apreøs la
leùgende, il affronte ce
supplice en demeurant serein.-
“Le Livre Noir de
l’Inquisition”, Page 51).
Nhưng cách tra tấn sau đây mới
thật rùng rợn:
Trước hết là sợi “dây thừng”;
nạn nhân bị trói hai tay ra sau
lưng bởi một sợi dây thừng luồn
qua một cái ròng rọc (poulie):
sợi dây căng thẳng bất ngờ gây
nên một chấn động dữ dội vào
những khớp xương bên trên, trong
khi sức nặng của thân người bị
giựt mạnh lên cao làm cho nạn
nhân hết sức đau đớn. Có khi,
đối với một nghi can rất cứng
đầu, sự kéo xác banh ra được gia
tăng bởi hai quả cân cột vào mắt
cá chân. Rồi đến, “tra tấn bằng
nước”, gọi là “cho đi tàu thủy”.
Nạn nhân được đặt trên một sàn
dốc và mặt ngửa lên trên, được
đổ nước vào mồm, không phải đổ
thẳng vào mồm, mà qua một tấm
khăn lọc nhét vào mồm, để cho
sức nặng của nước làm trôi tấm
khăn vào cuống họng, gây nên một
cảm giác nghẹt thở, nhưng không
bị nghẹt. Cuối cùng, dùng dây
thắt mạch chân hay cánh tay (garrot);
thường thường là một sợi dây
thừng làm căng ra bởi một vòng
cung, mỗi khi vòng cung xoay đi,
thì sợi dây thừng xiết mạnh vào
bắp thịt làm cho gân cốt đau đớn
không chịu nổi.
Tomás de Torquemada,
link: http://en.wikipedia.org/wiki/Tom%C3%A1s_de_Torquemada
link: http://en.wikipedia.org/wiki/Tom%C3%A1s_de_Torquemada
Trong trường hợp Conceciòn (vợ
của nạn nhân), sự tra tấn đầu
tiên có tính cách tâm lý: người
ta cho bà đứng xem nhiều lần ông
chồng bị treo trên sợi dây
thừng; rồi chính bà bị
Torquemada (chính Torqemada,
người ta cho biết thế) hành hung
dữ dội; ngày hôm sau bà bị quất
roi lên người (cũng lại chính
quan tòa Ca-tô, mặt che đi bởi
cái mặt nạ đen); rồi người chồng
lại tiếp tục bị tra tấn: người
ta bẻ gẩy xương cổ tay và xương
mắt cá, cho ông đi tàu thủy và
lấy sắt nung đỏ đốt cháy chân và
tay, trước khi lấy chì đun lỏng
đổ vào đùi và cánh tay, cho đến
khi bà vợ la lên, chấp nhận bất
cứ cái gì, miễn là người ta
ngừng tra tấn. Quan tòa Ca-tô
Torquemada cuối cùng đã được
điều mà ông mong muốn: con người
Conceciòn. Nhưng một khi đứng
trước mặt bà, ông ta sợ hãi
trước sự tàn phá trên con người
bà (bị quất bằng roi), và chỉ
còn biết khóc. Tôn giáo và tình
dục còn tranh đấu trong con
người ông. Cuối cùng quan tòa
Ca-tô thắng được lòng ham muốn
và hứa với người đàn bà là từ
nay ông yêu bà theo như lời
Thượng Đế. Quan tòa Ca-tô đã
thắng được con người. Câu chuyện
chấm hết”.
(D’abord la “corde”: la victime
a les mains liées derrière le
dos par une corde qui passe dans
une poulie; la tension soudaine
provoque de violentes secousses
dans les articu-lations
supérieures, tandis que le poids
du corps soulevé produit un
écartèlement très douloureux. Il
arrive, dans le cas d’un suspect
particulièrement obstiné, que la
trac-tion de son corps soit
augmenté par deux poids fixés
aux chevilles. Puis, la “torture
de l’eau”, dite du “chevalet”.
La victime, placée sur un plan
incliné et le visage tourné vers
le haut, se voit verser de l’eau
dans la bouche, non pas
directement, mais à travers un
linge filtrant placé dans la
bouche, de facon à ce que le
poids de l’eau fasse descendre
le tissu dans la gorge,
provoquant une impres-sion
d’étouffement, sans le produire.
Enfin, le “garrot”, appliqué aux
jambes ou aux bras; c’est le
plus souvent une corde tendue
par un arc qui, à chaque
torsion, serre les muscles,
provoquant d’abord une forte
étreinte suivie ensuite d’une
insupportable douleur aux nerfs.
Dans le cas de Conceciòn, la
premiète torture est
psycho-logique: on lui montre
plusieurs fois son mari suspendu
à la corde; puis elle-même est
violentée par Torquemada (“en
personne”, ajoute-t-on); le jour
suivant, on la flagelle (c’est
encore l’inquisiteur, le visage
couvert d’un masque noir); à
nouveau on s’acharne sur le
mari: on lui casse les poignets
et chevilles, on lui fait subir
le chevalet et on lui brule au
fer rouge les pieds et les
mains, avant de faire couler du
plomg fondu sur ses cuisses et
ses bras, jusqu’à ce que la
femme s’écrie qu’elle consentira
à n’importe quoi, pourvu que
l’on cesse. Torquemada a enfin
obtenu ce qu’il voulait: le
corps de Conceciòn. Mais une
fois seul en face d’elle, il est
saisi d’effroi devant le mal
dévastateur qui l’habite, et ne
réussit qu’à pleurer. Religion
et sen-sualité luttent encore en
lui. Enfin, le prélat surmonte
son désir et promet à la femme
qu’il l’aimera désormais selon
Dieu. L’inquisiteur a vaincu
l’homme. Fin du récit.- Pages
92-93).
.....
Nhân danh những người đàn ông,
đàn bà đã bị đau khổ bất
công và cho đến giới hạn
cuối cùng, tư cách con người của
chúng ta bắt buộc chúng ta không
được giảm thiểu tội ác
của Tòa án Ca-tô bằng
cách đổ thừa cho yếu tố này yếu
tố kia đã quyết định hay giải
thích cho nó, và đặc biệt là bối
cảnh lịch sử đã dung dưỡng nó.
Thực ra, tất cả những khía cạnh
mà chúng tôi đã đem lại trong
lời dẫn nhập này phải đi song
đôi với sự thừa nhận sáng suốt
một điều xấu tuyệt đối mãi mãi.
(Au nom de ces hommes et de ces
femmes qui ont souffert
injustement et jusqu’aux
dernières limites, la décence
nous impose de ne pas minimiser
le fait inquisitorial en
alléguant tel élément qui le
déterminerait ou l’expliquerait,
et en particulier le contexte
historique qui l’a porté. En
effet, toutes les nuances que
nous avons apportéees dans cette
introduction se doivent d’aller
de pair avec la reconnaissance
lucide d’un mal qui demeure
absolu.- Page 16. Trích ra từ
“Sách Nhọ...”).
Giáo Hội bảo:
- “Thượng Đế là Cha và Giáo Hội
là Mẹ”. (Xin coi chi tiết trong
bài “Ký ức và Hòa giải”, mục “Tư
cách Mẹ của Giáo Hội”). Nói một
cách khác thì Thượng Đế là
Chồng, và Giáo Hôi là vợ.
Và
- Con Trời G là đại diện
Thiên Chúa, “Vicar of
Christ”.
Trước những tra tấn dã man nêu
trên, do vợ của Thượng Đế, và
đại diện Thượng Đế, là chánh
phạm, không biết thái độ của
Thượng Đế ra sao? Im lặng tức là
đồng lõa?
Con Trời G John Paul II đại diện
cho Giáo Hội đã lên tiếng xin
lỗi Thượng Đế, chồng của Giáo
Hội, vì những tội ác trong quá
khứ.
Để cho công bằng, Thượng Đế cũng
nên lên tiếng xin lỗi Giáo Hội,
vợ Thượng Đế, vì những tra tấn
dã man nêu trên. Còn
nạn nhân thì họ chết rồi, khỏi
xin lỗi!
2.2. Tiền.
Sách “Rich Church Poor Church”
của Malachi Martin cho biết con
số chính xác như sau, vào năm
1984, trang bìa:
“300 ti đô-la. Vàng gửi trong
ngân hàng nhiều hơn của nhiều
nước kỹ nghệ. Đất đai nhà chung
diện tích lớn hơn nhiều nước. Đó
chỉ là một phần tài sản của Giáo
Hội Gia-tô La-mã. Nhưng hàng
triệu người mỗi ngày đang chết
đói”.
(Three hundred billion dollars.
Gold deposits that exceed those
of many industrial nations. Real
estate holdings larger than the
total area of many countries.
These are but some of the riches
of the Roman Catholic Church.
Yet millions are starving
daily.)
Vatican không đem tiền gửi ngân
hàng mà đầu tư vào các hãng như,
General Foods, Chase Manhattan,
Colgate, Standard Oil,
Westinghouse, Procter & Gamble,
và Dan River. (T.l.đ.d. trang
65).
300 tỉ đô-la năm 1984, với vàng
gửi ngân hàng, và đất đai, nếu
bảo bây giờ, năm 1998, Giáo Hội
Gia-tô La-mã có 1.000 tỉ thì có
lẽ không có gì quá đáng. (Đạo
Gia-tô La-m).
Đất đai nhà chung diện tích lớn
hơn nhiều nước. Sau đây là một
chút chi tiết trích ra từ sách
“Le Vatican Contre l’Europe”,
tác giả Edmond Paris (link:
http://en.wikipedia.org/wiki/Edmond_Paris
), trang 335-36:
“Công chúng không thể không biết
những tài sản về đất đai của
Giáo hội Rô-ma, nhưng phần nhiều
họ không thể tưởng tượng được
tầm quan trọng của nó. Có bao
giờ họ ngờ rằng ở nước Ý, Giáo
hội là sở hữu chủ khoảng 250.000
mẫu? - rằng 1/3 đất của
Tây-ban-nha là thuộc Giáo hội? –
và ở Nam Mỹ Giáo hội có những
vùng đất đai bao la? Đó là chưa
kể những vùng đất đai rải rác
trên quả địa cầu.
Nhưng ngày nay, sở hữu đất đai
không quan trọng bằng sức mạnh
tài chánh. Cái quỹ của Thánh
Pierre cung cấp bởi 400 triệu
tín
đồ (năm 1959, bây giờ là 1 tỉ),
những đồ dâng lễ, những thánh lễ
Mi-sa, bảo đảm cho Tòa Thánh
những lợi tức mà người ta bảo là
vĩ đại. Cái suối vàng cứ chảy
không ngừng vào két của Vatican
cuối cùng đã phát sinh ra sự
tích trữ vốn. Và, đúng như lời
M. Roger Garaudy mà nhờ có ông
chúng ta mới biết được những
tiết lộ quí giá liên quan tới
tài chánh thần thánh: “Từ tích
trữ cho đến đầu cơ chỉ có một
bước”.
(L’existence des propriétés
foncières de l’Eglise romaine
n’est pas ignorée du public,
mais en général il est loin d’en
imaginer l’importance. Se
doute-t-on qu’elle possède en
Italie quelque deux cent
cinquante mille hectares? – que
le tiers des terres d’Espagne
lui appartient? – et qu’en
Amérique du Sud elle détient
d’immenses étendues? Cela sans
préjudice d’innombrables
propriétés disséminés sur le
reste du globe.
Mais aujourd’hui, c’est moins la
possession des terres qu’il
convient de considérer que la
puissance financière. Déjà le
denier de Saint-Pierre provenant
de 400 millions de fidèles, les
offrandes, les messes assurent
au Saint-Siège des revenus que
l’on peut qualifier
d’astronomiques. Ce Pactole qui
coule sans arrêt dans les
caisses du Vatican a fini par
donner naissance à une
accumulation de capitaux, Et,
comme l’écrit justement M.Roger
Garaudy auquel nous devons de
précieuses révélations touchant
les finances sacrées: “De
l’accumulation à la spéculation,
il n’y a qu’un pas”.)
Với tiền bạc và đất đai nhiều
như thế, Giáo hội Ca-tô Rô-ma là
một chính phủ giàu có nhất thế
giới, nhưng cái chính phủ ấy cai
trị mà không có trách nhiệm gì
về đời sống thế gian của dân bị
trị. Không lo chữa bệnh, không
lo kiếm việc làm, không lo nhà
ở. Dân bị trị không biết gì về
tài chánh của Giáo hội, không có
quyền bầu cử, ứng cử. Theo như
nhận định của linh mục Ca-tô
Maurice Weitlauff thì Giáo hội
được chia thành hai giai cấp,
một giai cấp cai trị, và một
giai cấp bị trị. Giai cấp trên
gồm khoảng 1 % con số tín đồ,
nắm giữ hết quyền hành. Giai cấp
dưới gồm hơn 99 % chỉ có mỗi một
cái quyền là câm mồm.
(“Tổng Kết”. Xin coi chi tiết
trang 1084-85).
Qúy vị có thể thấy không có tổ
chức đi buôn nào đem lại nhiều
quyền và nhìêu lợi hơn là đi
buôn Thượng Đế. Nhưng Thượng Đế
ở đâu? Như thế nào? Giống ai?
III.- THƯỢNG ĐẾ.
Chúng tôi đã viết :
“Thượng Đế “không” chế tạo ra
con người theo hình ảnh của
Thượng Đế. Con người đã chế tạo
ra Thượng Đế theo hình ảnh của
chính họ. Rồi khúm núm, sợ
sệt, đem dâng đồ lễ lên vị
Thượng Đế do chính họ chế tạo,
trong âm mưu hối lộ, để cầu mong
được ban nhiều ơn phước khi
sống, lên Thiên Đàng (mù)
sau khi chết. (“John Paul
II”, trang 515).
Trước những chứng minh khoa học
càng ngày càng trở nên rõ rệt,
con người không do Thượng Đế chế
tạo ra từ đất sét, mà từ một
loài thấp hơn tiến hóa
lên mà thành, Giáo Hoàng John
Paul II với sự cố vấn của Viện
Khoa Học Tòa Thánh đành phải
công khai xác nhận, “Thân xác
con người có thể không phải là
sự sáng tạo trực tiếp của Thượng
Đế, mà là sản phẩm của một tiến
trình tiến hóa từ từ” (The
human body may not have been the
immediate creation of God, but
is the product of a gradual
process of evolution).
Tại sao Giáo Hoàng John Paul II
lại đưa ra lời tuyên bố có tính
cách chống “Lời của Thượng Đế”
không bao giờ sai lầm được ghi
trong Kinh Thánh: “Thượng Đế
chế tạo ra người đàn ông đầu
tiên, thủy tổ loài người, ông
Adam, từ đất sét?” Câu hỏi
đặt ra đã có người trả lời:
Lời tuyên bố có vẻ như là hành
động cuối cùng của Giáo Hoàng để
sửa chữa điều mà Ngài coi như là
những giáo điều sai lầm
được giảng dạy trong quá khứ.
Năm 1992, trong một bản tuyên bố
tương tự gửi cho Viện Khoa Học,
Viện này cố vấn cho Giáo Hoàng
về vấn đề khoa học, Giáo Hoàng
tìm cách sửa chữa một trong
những sai lầm xấu xa nhất đối
với khoa học: sự hành hạ Galileo
vì ông này đã xác nhận Trái Đất
xoay quanh mặt trời”
(chứ không phải ngược lại, như
được ghi trong Kinh Thánh). (The
statement appears to be the
pope’s latest action in amending
what he views as wrong teachings
adhered to in the past. In 1992,
in a similar statement to the
academy, a group that advises
the papacy on scientific
matters, the pope sought to
rectify one of the church’s most
infamous wrongs toward science:
the persecution of Galileo for
asserting that the Earth moved
around the sun. “The Register”,
Friday, October 25, 1996.-)
Như thế là khoa học đã bác bỏ
Kinh Thánh, phá vỡ thành trì mê
tín dị đoan Vatican, bởi vì nếu
Adam không là thủy tổ lòai
người, thì không có tội tổ tông,
và không có chuỵên Thượng Đế cho
con một giáng sinh để chuộc tội
tổ tông! Đó là lý do bỏ đạo càng
ngày càng nhìêu của dân Âu Châu.
Jesus Christ không phải là
Thượng Đế như họ vẫn đề cao ca
tụng. Chức vụ ấy do vua
Constantine phong cho Jesus vào
Thế Kỷ IV. Như thế là vua
Constantine đã ngẫu nhiên thành
lập Giáo hội Ca-tô Rô-ma Quốc
doanh Lịch sử, mà Giáo hội
hiện đại là thừa kế.
Geoffrey Post (The Orange County
Register, Sept. 25/ 1988) đã
viết về cái Giáo hội ấy:
“Hồi đó có rất nhiều giáo phái
Ca-tô, lớn có, nhỏ có. Những
người của giáo phái lớn nhất
được gọi là Arians, theo tên của
một vị giám mục Ai-cập, Arius.
Môn phái này tin rằng Christ chỉ
là một ông thày giảng Do-thái,
và chỉ là một người đặc biệt do
Thượng Đế tạo ra. Tuy nhiên
Christ chưa bao giờ được coi là
Thượng Đế. (However, Christ
was never thought of as divine).
“Nhà vua Constantine với quyền
năng rất mạnh quyết định rằng
đạo Ca-tô của ông phải có nhiều
đặc tính, và sách Phúc Âm phải
viết lại cho phù hợp với
chân lý mới của ông”. (All
powerful Constantine decreed
that his Christianity would have
to have several key features and
“the Gospel would have to be
rewritten to show his new truth”).
Những đặc tính ấy là:
Thứ Nhất.- “Christ phải được coi
là Thượng Đế, vì vào thời đại
ấy, khi đa số Vua đều được
thượng đế hóa, nên điều này dễ
dàng được chấp nhận bởi đại đa
số dân Rô-ma không có đạo sẽ
phải trở lại đạo”... (First,
Christ must be pictured as a God
since in those days when most
emperors were deified, it was
more acceptable to the majority
of the Romans who were pageants
and would have to convert.- Xin
coi “John Paul II”, trang
142-43).
Những người Việt Nam theo đạo
Ca-tô thường đề cao thượng đế
của họ và gọi vị thượng đế ấy là
“Chúa Chiên Lành”. Nghe như thế
quen tai, ta không thấy nó
chướng. Họ quên mất rằng gọi như
thế là hạ giá Thiên Chúa xuống
hàng Thiên Chúa của một thứ lòai
vật. Ở Vịêt Nam ít chiên, nhưng
có những lòai vật khác, như
trâu, bò, ngựa, chó, lợn, dê...
Nếu chúng ta lấy một con vật nêu
trên thay cho chiên, xem
có nghe được không?
Trinity.
Six weeks after the 300 bishops
first gathered at Nicea in
325, the doctrine of the
Trinity was hammered out. The
God of the Christians was now
seen as having three essences,
or natures, in the form of the
Father, the Son, and the Holy
Spirit
(Holy Ghost).
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sáu tuần lễ sau khi 300 tổng
giám mục họp lần đầu tiên ở
Nicea năm 325, học thuyết Ba
Ngôi được hình thành. Gốt của
Ki-tô được coi như có ba thực
chất hay bản chất, dưới hình
thức Cha, Con, và Thánh Thần
(Thánh Ma).
Brutal punishments and even
death did not stop the
controversy over the doctrine of
the Trinity, however, and the
said controversy continues even
today.
Hình phạt nặng nề và kể cả tử
hình tuy nhiên không ngăn chặn
được tranh cãi về học thuyết Ba
Ngôi, và sự tranh cãi ấy vẫn
tiếp tục kể cả bây giờ.
The majority of Christians, when
asked to explain this
fundamental doctrine of their
faith, can offer nothing more
than "I believe it because I was
told to do so." It is explained
away as "mystery" - yet the
Bible says in I Corinthians
14:33 that "... God is not
the author of confusion..."
Đa số tín đồ Ki-tô, khi được yêu
cầu giải thích giáo điều căn bản
này của họ không nói gì hơn là
bảo “Tôi tin điều đó vì được bảo
là phải tin”. Nó được giải thích
như là một bí mật -
nhưng Kinh Thánh ở I Corinthians
14:33 bảo... “Gốt là tác giả
của sự lộn xộn”.
Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh
Thần, rõ ràng là ba ngôi, nhưng
Giáo Hội bảo ba mà là một.
“Encyclopaedia Britannica”,
trang 479, volume 22, cho biết
định nghĩa “Thiên Chúa Ba
Ngôi” của Giáo Hội Gia-tô
như sau:
“Cha là Thượng Đế, Con là Thượng
Đế, và Thánh Ma là Thượng Đế,
nhưng họ không phải là ba Thượng
Đế mà chỉ là một Thượng Đế”.
(The Father is God, the Son is
God, and the Holy Ghost is God,
and yet they are not three Gods
but one God).
Như vậy giáng sinh xuống trần để
chuộc tội là con một
Thượng Đế, nhưng cũng lại là
chính Thượng Đế?
Truyện ngụ ngôn của Kinh Thánh
thật ly kỳ, nhưng lộn xộn, không
hợp lý. Càng suy nghĩ, càng
không tin.
Vì những chuyện lẩm cẩm như vậy,
nên Thomas Paine đã viết trong
sách của ông:
“Các nhà thần thoại Ky-tô, mà họ
tự gọi là Giáo Hội Ky-tô dựng
truyện ngụ ngôn của họ, mà về
phần vô lý, phi lý, thì không
có cái gì trong truyện thần
thoại của người xưa có thể vượt
qua được”. (The Christian
Mythologists, calling themselves
the Christian Church, have
erected their fable, which for
absurdity and extravagance, is
not exceeded by any thing that
is to be found in the mythology
of the ancients.- “The Age of
Reason”, page 290).
An oil painting
of Thomas
Paine by
Auguste Millière (1880)
Có một lập luận của Thomas Paine
mà tôi lấy làm thích thú: “Sự
đau khổ độc nhất và thực sự mà
Jesus phải chịu, chính là phải
sống (chứ không phải bị đóng
đinh). Sự hiện hữu của Jesus
trên thế gian là trường hợp bị
đi đày”. (Xin coi lại chi
tiết, trang 180).
Khi sinh ra làm người là Chúa
Con, tức Chúa Cha, tức Thánh Ma,
đã đau khổ rồi, vì phải sống
kiếp lưu đày, y như người Việt
Nam chúng ta sống kiếp lưu đày ở
Mỹ. Khổ quá! Như thế, nếu Chúa
Jesus, muốn chịu khổ để chuộc
tội, thì Ngài nên sống mãi kiếp
lưu đày.
Tín đồ Ca-tô Việt Nam tin rằng,
Thánh Ma làm cho Đức Bà thụ
thai, nên mặc dù sinh con mà Đức
Bà vẫn đồng trinh. (Họ không
biết rằng Thánh Ma chỉ được chế
tạo ra năm 325, thì lm sao cĩ
thể lm cho Đức Bà mang bàu năm
số một?).
Theo như những hiểu biết khoa
học hiện đại, thì mỗi tế bào có
46 nhiễm sắc thể (chromosomes),
nhưng đặc biệt trong vấn đề thụ
thai thì trứng của mẹ, và tinh
trùng của cha, mỗi tế bào ấy chỉ
có 23. Khi hai nửa tế bào ấy gặp
nhau trong dạ con, thì người mẹ
thụ thai. Chúa Giê-su sinh ra
làm người như tất cả mọi người,
vậy thì Thánh Ma phải đem tinh
trùng của Ngài vào trong dạ con
của Đức Bà. Đem vào như thế nào?
Ngủ với Đức Bà như một người đàn
ông ngủ với một người đàn bà?
Nếu như thế thì Đức Bà không còn
trinh? Điều này Giáo Hội Ca-tô
không chấp nhận. Nhưng nếu thụ
thai mà không ngủ vói đàn ông,
thì khoa học và lý trí lại không
chấp nhận.
Lạ lùng hơn nữa, Đức Bà không
phải chỉ sinh ra có một mình
Giê-su là Thượng Đế, để được làm
mẹ Thượng Đế, mà lại sinh ra tất
cả 7 người con (Xin coi chi tiết
trong “John Paul II”, trang
99-100). Sinh ra 7 người con, mà
vẫn đồng trinh, chắc là Thánh Ma
vẫn tiếp tục làm cho Đức Bà thụ
thai?
Nếu Thánh Ma sản xuất ra tinh
trùng để làm cho Đức Bà thụ
thai, thì Ngài cũng phải ăn.
Phải ăn thì phải làm, phải cày
ruộng. Như thế thì trên Thiên
Đàng cũng có ruộng đất như dưới
trần thế chúng ta? Để giải quyết
sự nan giải đó, người ta bảo,
Thượng Đế không cần ăn. Nếu
không cần ăn, thì dạ dày không
cần thiết. Không có dạ dày, thì
không có xương máu thịt, không
có đầu óc, không có tinh trùng
để làm cho một người đàn bà thụ
thai. Thượng Đế rốt cuộc lại trở
thành một bóng ma. Nếu là bóng
ma (Holy Ghost), thì không thể
làm cho bất cứ người đàn bà nào
thụ thai cả?
Thượng Đế đuợc ca tụng là toàn
trí, toàn năng, sáng tạo ra vũ
trụ, chế tạo ra người đàn ông
đầu tiên, Adam, bằng đất sét,
nhưng lại không chế tạo được ra
chính mình. Khi sinh ra đời phải
chui vào bụng một người đàn bà
trong 9 tháng 10 ngày, y như tất
cả những đứa trẻ khác. Đâu có gì
là thần thánh? Giê-su là Thượng
Đế, Đức Bà là mẹ Thượng Đế, chỉ
là chuyện bịa đặt rất ư là con
nít, không thể tin được. (Trích
ra từ “Đức Tin v Lý Trí.
J.P.II”).
Thấy dân Âu Châu mà trình độ văn
hóa cao, không đánh lừa được
nữa, Con Trời G John Paul II bảo
:
“Tương lai Giáo Hội Thiên Chúa
Giáo nằm ở lục địa Á Châu”.
Nhưng chắc cũng không được lâu,
vì “Khi dân của Thế Giới Thứ
Ba được giáo dục hơn, thì họ lại
phát hiện ra cũng những câu hỏi
và những nghi ngờ mà nhiều người
theo đạo Ca-tô ở những nước mở
mang hơn đã đặt ra trước đây”.
Schoenherr of the University
of Wisconsin says that as people
in the Third Word countries
become more educated, they will
develop “the same kind of
questions and doubts” that many
Catholics in more developed
countries already have.-
( "Los Angeles Times, số ra
ngày thứ Ba April 18, 1995, -
Trích ra từ :John Paul II:,
trang 437) . Xem link: http://issuu.com/vietsu49/docs/tong-huan-cai-dao-a-chau
Christ không những không là
Thượng Đế, mà còn bị Jeffery L.
Sheler, học giả nghiên cứu Kinh
Thánh, bảo là đứa con hoang
của một người lính Rô-ma.
(Xin coi chi tiết và nguyên văn
tiếng Anh, trong sách đã dẫn,
trang 132-33).
Chúa Jesus chết đi ba ngày rồi
sống lại và lên Trời bằng cả
thân xác. Huyền thoại này đều đã
bị các nhà thần học Thomas
Paine, Robert Funk, Russell
Watson, và Giám Mục John Selby
Spong, bác bỏ:
a)
Thomas Paine: “Sự sống lại và
lên trời, giả thuyết rằng đã
xảy ra, như sự bay lên của một
quả bóng, hay như mặt trời lúc
giữa trưa, thì ít ra tất cả
những người ở Jerusalem phải
trông thấy và xác nhận. Một việc
đòi hỏi tất cả mọi người phải
tin, đòi hỏi rằng bằng chứng và
sự hiển nhiên phải đồng đều cho
tất cả mọi người, và phổ quát;
và vì sự công khai nhìn thấy
trong đoạn chót của câu chuyện
là bằng chứng độc nhất để chứng
minh cho đoạn trên, tất cả câu
chuyện rơi xuống đất, vì bằng
chứng ấy không bao giờ đưa ra.
Thay vào đó, một số ít người,
không quá tám hay chín, được
giới thiệu như là trung gian cho
toàn thể thế giới, để nói rằng
họ trông thấy, và tất cả thế
giới còn lại phải tin như thế.
(The resurrection and ascension,
supposing them to have taken
place, admitted of public and
occular demonstration, like that
of the ascension of a balloon,
or the sun at noon day, to all
Jerusalem at least. A thing
which every body is required to
believe, requires that the proof
and evidence of it should be
equal to all, and universal; and
as the public visibility of this
last related act, was the only
evidence that could give
sanction to the former part, the
whole of it falls to the ground,
because that evidence never was
given. Instead of this, a small
number of persons, not more than
eight or nine, are introduced as
proxies for the whole world, to
say they saw it, and all the
rest of the world are called
upon to believe it.- [S.đ.d.,
trg. 166-67]).
b) Robert Funk. “Cái mộ
trống không là giả tưởng. Jesus
không sống lại từ những
người chết”. (The empty tomb is
fiction. Jesus did not rise
bodily from the dead.- “The
Register”, Sat. Oct. 16, 1999).
c)
Russell Watson: “Jesus
vẫn tiếp tục sống trong tim
những người theo ông vừa cũ vừa
mới, nhưng ông không sống
lại sau khi chết. Đem từ
cây thập tự xuống, thân xác ông
có lẽ được chôn trong một ngôi
mộ nông - và có thể bị chó ăn
thịt. Nếu đó là Jesus, thì
tất cả mọi tài liệu về đức tin
truyền thống bay ra ngoài cửa sổ
- không có sự sinh đồng trinh,
không có bản chất thánh thiện.
Và nguy hại hơn cả, không có
Sống Lại”. (Xin coi chi
thêm tiết trong sách “Phá Ngục
Tù”, trang 401 và kế tiếp).
(Jesus lived on in the hearts of
followers old and new, but he
did not physically rise from the
dead. Taken down from the cross,
his body was probably buried in
a shallow grave - and may have
been eaten by dogs. If
that’s who Jesus was, then every
important article of the
traditional christian faith goes
out the window - no virgin
birth, no divine nature and,
most devastating of all, no
Resurrection. (Newsweek April 4,
1994).
d) John Shelby Spong.
“Những người thuộc thời đại
không gian khó có thể thoát khỏi
kết luận rằng, nếu Chúa Jesus
thực sự lên trời, và dù rằng
Người di chuyển với tốc độ của
ánh sáng (300.000 cây số một
giây), thì Người vẫn chưa ra
khỏi biên giới của ngân hà độc
nhất này”. (Can space-age people
escape the conclusion that if
Jesus literally rose from this
earth, and even if he traveled
at the speed of light [186,000
miles per second], he has still
not escaped the boundaries of
this single galaxy.-. “Born of a
Woman”, page 10).
Chúa Jesus lên Trời, nhưng chỗ
nào ở trên Trời? Những người
viết Kinh Thánh cách đây 2.000
năm, không có kiến thức về khoa
học, khi nhìn lên trời, thấy cái
vòm, họ tưởng đến đó là hết, và
ở bên trên có chỗ ở của Thượng
Đế, và các vị thần thánh, mà họ
gọi là nước Thiên Đàng. Nhưng đó
chỉ là ảo giác. Tất cả chỉ là
không gian vô tận. Có những ngân
hà ở cách xa chúng ta hàng tỉ
năm ánh sáng. Chúa Jesus mới
chết đi cách đây trong khoảng
2.000 năm, vậy thì đúng là Ngài
vẫn còn quanh quẩn trong ngân hà
này. (“John Paul II”, trang
403).
IV.- ĐÌỀU KIỆN HÓA TÍN ĐỒ
- Phá
hủy một định kiến còn khó hơn
phá hủy một nguyên tử. Il
est plus difficile de détruire
un préjugé qu’un atome ( Albert
Einstein )
- Loại bỏ những niềm tin sai lầm
đã ăn sâu vào tâm thức còn khó
hơn là sự tan rã của nguyên tử.
Le rejet de fausses croyances
profondment ancres dans les
esprits est beaucoup difficile
que la dsintgration de l’atome.
Maurice Weitlauff, Linh mục
Ca-tô Rô-ma
(“Tôn Giáo Đối Chiếu”, Tập
III, trang 1075-76).
Ivan Petrovich Pavlov
(1849-1936) làm một cuộc thử
nghiệm. Mỗi khi rung chuông, ông
cho con chó một miếng thịt. Về
sau rung chuông mà không có
thịt, con chó vẫn nhỏ nước
miếng. Hiện tượng nhỏ nước miếng
được gọi là “phản ứng điều kiện
hóa” (conditioned reflex).
Những gia đình Ca-tô thường đem
con tới nhà thờ làm lễ rửa tội.
Những đứa trẻ ấy vẫn được cha mẹ
tiếp tục đưa đến nhà thờ ngày
Chủ Nhật để nghe cha giảng đạo,
nghĩa là tiếp tục để cho cha
nhồi sọ. Không những bị cha nhồi
sọ, mà chính cha mẹ đứa trẻ và
đứa trẻ phải học tập để tự mình
đìêu kịên hóa mình. Tối tối họ
phải cầu kinh đấm ngực đọc lại
lời giảng của cha “Lỗi tại tôi,
lỗi tại tôi mọi đàng”. Mà lỗi
ấy, tội ấy chỉ có thể giải bởi
giáo hội. Tín đồ bị ràng buộc
bởi giáo hội, không thể thóat ra
được. Lâu dần niềm tin ấy ăn sâu
vào tâm thức, trở thành bản
năng, nên dù là trí thức, họ
cũng không thể thóat ra khỏi
niềm tin đã trở thành bản năng
của họ.
V.- VẠCH ÁO XEM LƯNG.
“Quyển sách Vatican cấm bán bây
giờ bán chạy nhất”.
(Book banned by Vatican now a
best seller). Đó là đầu
đề của bo “The
Register” ngày Thứ Bảy, 17 tháng
7, 1999.
Sách nói gì mà ghê gớm vậy?
Trả lời cuộc phỏng vấn của một
tờ báo Ý, Ngài Luigi Marinelli,
linh mục hồi hưu của Giáo Hội
La-mã, và là đồng tác giả quyển
sách mang tên “Cuốn Theo Chiều
Gió ở Vatican” (Gone With the
Wind in the Vatican) có một nhận
định đả phá bản chất thần thánh
của Vatican. Lời Ngài: “Quyển
sách cho thấy là Vatican gồm
những người, giống như tôi, có
khuyết điểm”. (It [the book]
just points out that the Vatican
is made up of men who, like me,
are flawed). Như vậy là Ngài
gián tiếp cho rằng, Đức Thánh
Cha cũng có khuyết điểm, và
chẳng thần thánh gì cả. Chúng
tôi xin dịch bản tin trên, kèm
theo tiếng Anh để quý vị đọc
giải buồn.
Tai Tiếng:
Quan chức của Giáo Hội giận dữ
vì sự mô tả thiếu lễ độ những
người lãnh đạo và hành động của
họ, nhưng độc giả lại thích thú.
(Scandal:
Church officials are outraged by
the unflattering portrayal of
Catholics and practices, but
readers are intrigued.- By
Alessandra Stanley. The New York
Times).
Rome –
Khi “Cuốn Theo Chiều Gió ở
Vatican” (Gone With the Wind in
the Vatican) lần đầu tiên xuất
hiện ở các hiệu sách vào tháng
Hai (1999). Ít người nhận thấy
những chuyện âm mưu, đồng giống
luyến ái và đồi bại trong hệ
thống hành chánh Vatican.
Vatican, tuy nhiên, đã thực sự
lưu tâm, và các độc giả lập tức
làm theo ngay. Kể từ khi tòa án
của Giáo Hội ra lệnh cho linh
mục đã hồi hưu của Vatican, một
trong số những tác giả, phải
ngưng cho phổ biến sách và đích
thân giải thích trước những quan
tòa của Giáo Hội, thì sách bán
chạy và bán hết.
Sách đã làm cho, người đọc tức
giận (vì những chuyện xấu xa của
một nơi được coi là thần thánh),
quan chức của Giáo Hội Gia-tô
La-mã giận dữ, và một tác giả có
tên (những người khác ẩn danh),
Ngài Luigi Marinelli, trở nên
một ca về phát hành sách nổi
tiếng, vị này lo sợ bị truất mất
quyền làm Thánh Lễ. Vào hôm Thứ
Sáu, Marinelli không ra hầu tòa
của Giáo Hội dù đã nhận được
trát tòa, qua một thư viết bằng
tiếng La-tinh, Ngài được lệnh
phải thâu hồi quyển sách nhục mạ
đã được bày bán ở các hiệu sách
và ngưng việc in thêm sách mới.
“Tôi phải trả lời thế nào?”
Marinelli hỏi. Ngài giải thích
rằng, tôi không thể chối bỏ, bởi
vì như thế cũng không khác gì
thú nhận là “tôi nói láo”, và
rằng cá nhân tôi không có thẩm
quyền thu hồi sách ở các hiệu
sách hay cấm không cho in thêm
sách hay dịch sách ra tiếng
ngoại quốc. Vatican cũng không
có thẩm quyền về việc này, dù
rằng Vatican có thể tìm cách
kiện nhà xuất bản. Các báo ở Ý,
thích thú theo dõi cố gắng của
Vatican để kiểm duyệt sách, đã
in lại một số những chuyện ngắn
màu mè hơn, từ chuyện một linh
mục không nêu danh đã tìm cách
chuyển lậu một va-li đầy
nhóc tiền sang Thụy-sĩ, cho đến
chuyện một linh mục có những
chuyện dâm ô cùng giống
(đàn ông làm tình với đàn ông)
nhưng không bị trừng phạt mà còn
được thăng cấp với một chức vụ
mới, để chôn dấu sự tai tiếng
dưới tấm thảm.
Nhưng những chuyện tục tỉu và
ghê tởm hơn đã xảy ra ở những
thập niên trước đây. Chuyện tai
tiếng gần đây nhất, vụ ám sát
một đại úy chỉ huy toán Lính Gác
Thụy-sĩ năm vừa qua bởi một sĩ
quan bất mãn trẻ, thì chỉ được
nhắc đến qua loa, mà không gợi ý
tới một âm mưu độc ác ngầm
nào.
Không một hồng y dâm đãng hay
gian dối nào bị nêu tên đích
danh. Marinelli bảo, “sách không
dùng tên thật, nên rất khó truy
tố về tội phỉ báng. Nếu một vài
nhân vật nào muốn nhận ra họ ở
trong đó, thì tôi phải kính phục
sự khiêm nhượng của họ”. (Vì tội
quá bẩn và có thật, nên không ai
dám nhận, và không ai dám truy
tố tác giả. Truy tố thì vừa xấu,
vừa thua kiện).
Trong một cuộc phỏng vấn tại căn
phòng của Ngài, nhìn xuống cái
vòm của Đền Thánh Peter,
Marinelli, 72 tuổi, bảo rằng
Ngài cảm thấy bị hành hạ bất
công chỉ vì nói thật.
Ngài so sánh hoàn cảnh của Ngài
với Savanarola, nhà cải cách đã
bị đem trói vào cọc rồi thiêu
sống, và Padre Pio, một thày
dòng thần bí đã bị giáo hội điều
tra nhiều lần trước khi được
phong chuẩn thánh năm nay.
Marinelli, trong nhiều năm đã
làm việc cho Thánh Hội của Giáo
Hội Đông (Congregation of
Eastern Churches), một bộ của
Vatican, bảo rằng trong khi “gần
như hầu hết mọi người” trong văn
phòng thư lại của Vatican đã đọc
sách và rất nhiều người trong số
đó nói riêng với Ngài là họ đồng
ý với đa số những điều phê bình,
nhưng không một đồng liêu cũ nào
của Ngài muốn công khai bào chữa
cho Ngài. Ngài bảo bạn bè của
tôi không dám điện thoại cho tôi
ở nhà, sợ rằng điện thoại bị móc
dây nghe lén. (Vatican có cơ
quan làm mật vụ?)
Ngài than phiền, “sách không đặt
lại vấn đề thần thánh của Jesus
Christ, Thánh Lễ hay Giáo Hội
Gia-tô. Sách chỉ nêu ra rằng
Vatican cũng gồm những người,
giống như tôi, có khuyết điểm.
Ngài nói là Ngài và nhiều người
bên trong giáo hội bất mãn vì
những vận động ồn ào thăng cấp
cá nhân và hủ hóa của một vài
quan chức, và cảm thấy nhu cầu
phải “trong sạch hóa” giáo hội
khi giáo hội sắp bước vào thiên
niên kỷ thứ ba. Ngài bảo “sách
là một hành động thương yêu đối
với giáo hội”.
Marinelli bảo đã được một người,
mà Ngài dấu tên, tiếp xúc, người
ấy nói rằng đã nghe thấy những
lời phê bình về chuyện nội bộ
của Vatican và yêu cầu Ngài viết
những suy tư đó ra trên giấy.
Ngài bảo, Ngài muốn trình bày
bốn điểm than phiền chính – vận
động thăng cấp cá nhân, sự lựa
chọn bí mật các vị giám mục, Tam
điểm trong Vatican và thiếu một
nghiệp đoàn cho các nhân viên ở
Vatican – để khuyến khích cải
cách.
Những chuyện nhỏ nhặt tầm phào
cũng được in vào sách “để làm
nổi bật những nguyên tắc chính”.
Nhưng những truyện ngắn là điều
đã thuyết phục Lorenzo Ruggiero,
chủ bút chính của Kaos, một nhà
xuất bản nhỏ ở Milan, cho xuất
bản quyển sách. Kaos chuyên về
những sách chống giới tu sĩ và
những bí mật của Vatican.
Ruggiero giải thích rằng lúc đầu
ông chống lại “bởi vì quyển sách
quá thiên về tôn giáo, quá tôn
giáo đối với chúng tôi”.
Ông bảo, “chúng tôi đã thay đổi
thái độ, nhận thấy rằng nếu
chúng tôi không cho in ra, thì
không ai khác dám làm”. Ruggiero
bảo, ông cho in đợt đầu 7.000
quyển và nghĩ rằng chỉ bán cầm
chừng. Nhưng bây giờ đã bán hết,
và ông cho biết đã nhận được đơn
đặt hàng từ khắp nơi, kể cả Mỹ
quốc, cho 100.000 cuốn nữa.
“Vatican đã làm một sự nhầm lẫn
lớn lao”, ông ấy nói với vẻ mặt
vui mừng rõ rệt. “Một khi
Vatican để ý tới quyển sách, thì
tất cả mọi người để ý tới”.
Book banned by Vatican now a
best seller
Scandal:
Church officials are outraged by
the unflattering portrayal of
Catholic leaders and practices,
but readers are intrigued. By
Alessandra Stanley.- The New
York Time
Rome
– When “Gone With the Wind in
the Vatican” first appeared in
bookstores in February, few
people noticed the account of
intrigue, homosexuality and
corruption within the Vatican
bureaucracy.
The Vatican, however, did pay
heed, and readers instantly
followed. Ever since a church
tribunal ordered one of the
authors, a priest who is a
retired Vatican official, to
cease publication and explain
himself before church judges,
the book has become a runaway
best seller.
It has tantalized readers,
infuriated Roman Catholic Church
officials and turned the one
acknowledged author (the others
remain anonymous), the Rev.
Luigi Marinelli, into a
publishing-cause celebrity who
fears he will be stripped of his
right to say Mass.
On Friday (July 16), Marinelli
did not appear before the church
tribunal that had summoned him,
via a letter written in Latin,
and ordered him to remove the
offending book from stores and
stop new printing runs.
“How can I answer?” Marinelli
said. He explained he could not
recant because “that would be a
lie””, and that he personally
has no authority to remove the
books from stores or prevent new
printings or foreign
translations. Neither does the
Vatican, for that matter,
although it can try to sue the
publisher.
Italian newspapers have
gleefully covered the Vatican’s
effort to censor the book,
reprinting some of the more
colorful anecdotes, frome one
about an unamed priest who tried
to smuggle a suitcase full of
cash into Switzerland, to
another about a priest who had
engaged in homosexual acts and
was reassigned and promoted to
sweep the scandal under the rug.
But the more salacious and
shocking anecdotes date back
decades. The most recent Vatican
scandal, the murder last year of
the captain of the Swiss Guards
by a disgruntled junior officer,
is fleetingly mentioned, without
any suggestion of sinister
subplots.
No dissolute priests or scheming
cardinals are identified by
name. “The book does not use
people’s real names so it is
difficult to accuse the authors
of defamation”, Marinelli said.
“If some figures want to
recognize themselves, then I
admire their humility”.
In an interview in his
apartment, which overlooks the
dome of St. Peter’s Basilica,
Marinelli, 72, said he felt he
was being unfairly persecuted
for telling the truth. He
compared his situation to that
of Savanarola, the reformer who
was burned at the stake, and
Padre Pio, the mystic friar who
was investigated by the church
many times before he was
beatified this year.
Marinelli, who for years worked
in the Congregation of Eastern
churches, a department of the
Vatican, said while “almost
everyone in the Vatican
bureaucracy had read the book
and many had let him know they
privately agreed with a large
number of its criticisms, none
of his former colleagues were
willing to defend him publicly.
He said friends were afraid to
call him at home. Fearing his
phone had been tapped.
“The book does not question the
sanctity of Jesus Christ, the
Eucharist or the Catholic
Church”, he said plaintively.
“It just points out that the
Vatcian is made up of men who,
like me, are flawed”.
He said he and many others
within the church were disgusted
by the rampant careerism and
corruption of some officials,
and felt that a “purification”
of the church was neeeded as it
entered the third millennium.
“The book was an act of love for
the church”, he said.
Marinelli said he had been
approached to collaborate on the
book by someone he declined to
identify, who had heard him
criticize the inner workings of
the Vatican and asked him to put
his thoughts on paper. He said
he was interested in presenting
his four main grievances about
Vatican operations – careerism,
the secretive selection of
bishops, Freemasons in the
Vatican and the lack of a union
for Vatican employees – to
encourage reform.
The gossipy details were
included “to illustrate the main
principles of the book”.
But the anecdotes were what
persuaded Lorenzo Ruggiero, the
editor in chief of Kaos, a small
publishing house in Milan, to
publish the book. Kaos
specializes in anticlerical
books and Vatican exposes.
Ruggiero explained he was at
first resistant “because the
book was quite religious, too
religious for us”.
“We changed our minds because we
realized that if we didn’t
publish it, nobody else would
dare”, he said.
Ruggiero said he had ordered a
first printing of 7,000 books
and had expected modest sales.
It has now sold out, and he said
he has requests from all over,
including the United States, for
100,000 more copies.
“The Vatican made a huge
mistake”, he said with obvious
glee.
“Once they paid attention to the
book, everybody paid attention”.
(Xin ñoïc theâm chi tieát trong
baøi “Thaâm Cung Bí Söû”, trang
729)
VI.- KẾT LUẬN.
Vatican
là một “Tổ Chức Đi Buôn Thượng
Đế” độc tài và tàn bạo.
6.1 Độc Tài.
Theo như nhận định của linh mục
Ca-tô Maurice Weitlauff thì Giáo
hội được chia thành hai giai
cấp, một giai cấp cai trị, và
một giai cấp bị trị. Giai cấp
trên gồm khoảng 1 % con số tín
đồ, nắm giữ hết quyền hành. Giai
cấp dưới gồm hơn 99 % chỉ có mỗi
một cái quyền là câm mồm.
Tác giả Jean-Michel Demetz báo
l'Express số ra ngày
12-18/8/1999, thì bảo:
Trong bản chất, đó là quang cảnh
triều đình của một thể chế quân
chủ tuyệt đối cuối cùng ở Âu
Châu mà những người Saint-Simon
La-mã mô tả tỉ mỉ với ác ý.
(Au fond, c‘est le spectacle de
cour de la dernière monarchie
absolue d’Europe que ces
Saint-Simon romains peignent
avec une minutie maligne. Trính
ra từ “Thâm Cung...”).
6.2. Tàn Bạo.
Nhân danh những người đàn ông,
đàn bà đã bị đau khổ bất
công và cho đến giới hạn
cuối cùng, tư cách con người của
chúng ta bắt buộc chúng ta không
được giảm thiểu tội ác
của Tòa án Ca-tô bằng
cách đổ thừa cho yếu tố này yếu
tố kia đã quyết định hay giải
thích cho nó, và đặc biệt là bối
cảnh lịch sử đã dung dưỡng nó.
Thực ra, tất cả những khía cạnh
mà chúng tôi đã đem lại trong
lời dẫn nhập này phải đi song
đôi với sự thừa nhận sáng suốt
một điều xấu tuyệt đối mãi mãi.
(Au nom de ces hommes et de ces
femmes qui ont souffert
injustement et jusqu’aux
dernières limites, la décence
nous impose de ne pas minimiser
le fait inquisitorial en
alléguant tel élément qui le
déterminerait ou l’expliquerait,
et en particulier le contexte
historique qui l’a porté. En
effet, toutes les nuances que
nous avons apportéees dans cette
introduction se doivent d’aller
de pair avec la reconnaissance
lucide d’un mal qui demeure
absolu.- “Le Livre Noir de
l‘Inquisition”, page 16, par
Natale Benazzi và Matteo
D’Amico. Trích ra từ “Sách
Nhọ...”).
Dù đồng bào Ca-tô hay đồng đội
Ca-tô của tôi có buồn phiền,
chống đối, tôi vẫn cứ phải nói
lên sự thật. Sự thật nó là như
thế.
Ngày 10 tháng 11, 2012
Trần Văn Kha
0 nhận xét:
Đăng nhận xét