Việc ngưỡng mộ thần tượng ở mức
độ hợp lý có thể mang đến nhiều lợi ích nhưng mê muội quá đáng là một
thảm hoạ tới sức khoẻ và tâm lí- một điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ
ra hơn thập kỉ qua.
Thần
tượng là những cá nhân hay tập thể được nhiều người biết đến và hâm mộ.
Họ xuất thân trong nhiều lĩnh vực như giải trí, y tế, khoa học, chính
trị, thể thao. Ngày nay, hình ảnh các ca sĩ, diễn viên, người mẫu, vận
động viên, v.v. xuất hiện khắp mọi nơi từ màn ảnh truyền hình, Internet,
đến các trang báo, khu mua sắm, làm cho hoạt động nghệ thuật của họ đến
gần công chúng hơn, nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự tăng cao của hiện
tượng tôn thờ người nổi tiếng. Việc tôn thờ thần tượng không chỉ là mối
quan tâm của giới truyền thông mà ngay cả các nhà tâm lí và xã hội học.
Việc ngưỡng mộ thần tượng ở mức độ hợp lý có thể mang đến nhiều lợi ích
nhưng mê muội quá đáng là một thảm hoạ tới sức khoẻ và tâm lí- một điều
mà nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra hơn thập kỉ qua.
Giới trẻ thường xem thần tượng như mẫu
hình lí tưởng vì thần tượng vốn có những phẩm chất nổi bật và đặc biệt
trong lĩnh vực của họ. Giới trẻ có thể bắt chước tính cách, ngoại hình,
hành động và lối sống của thần tượng với mong muốn trở nên giống với
thần tượng. Vì thế, thần tượng có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhiều
người, ngay cả khi xa cách về mặt địa lý và quan hệ xã hội. Thậm chí, có
những người còn tạo ra mối quan hệ tưởng tượng với thần tượng vì sự
xuất hiện liên tục của thần tượng trên truyền thông, đặc biệt là truyền
hình vì nó tạo cảm giác thần tượng đang nói chuyện trực tiếp với họ.
Ba nhà nghiên cứu McCutcheon, Lange và
Houran (2002) đã khái niệm hoá sự tôn thờ thần tượng (celebrity worship)
và phát triển một thang đo thái độ thần tượng (Celebrity Attitude
Scale, viết tắt là CAS) với ba mức độ hâm mộ và tôn thờ thần tượng theo
thứ tự thấp tới cao:
- Giải trí – Xã hội (Entertainment-Social): “Bạn tôi và tôi thích thảo luận về những gì thần tượng chúng tôi đã làm.”
- Mãnh liệt – Cá nhân (Intense-Personal): “Tôi thường nghĩ về thần tượng ngay cả khi muốn điều đó xảy ra”
Những người hâm mộ này tham gia các câu
lạc bộ người hâm mộ (fan clubs). Phần nhiều trong số họ có tính hướng
nội và hành động cảm tính. Việc tham gia các fanclub sẽ giúp họ có thêm
nhiều bạn bè, và tạo dựng nhiều mối quan hệ thân mật cao hơn
- Ranh giới – Bệnh lý (Borderline-Pathological): “Nếu tôi may mắn gặp được thần tượng và người đó yêu cầu tôi làm việc phạm pháp tôi có thể cũng làm.”
Dạng hâm mộ thứ ba được xem là tôn thờ
thần tượng. Những người ở mức này có biểu hiện cực đoan như ảo tưởng
thần tượng yêu mình (erotomania), thường xuyên chủ ý theo dõi bám đuôi
thần tượng, trao đổi thư từ có nội dung không phù hợp. Những người này
thường có vấn đề về lòng tin cậy và không có khả năng phát triển hay
nuôi dưỡng các mối quan hệ lâu dài.
Một nghiên cứu của North và Hargreaves (2006) còn thêm vào mức độ thứ tư:
- Bắt chước tai hại: Sẵn sàng bắt chước hành vi bừa bãi của thần tượng.
Một nghiên cứu của Phillips chỉ ra:
Trong tháng sau sự kiện “biểu tượng sắc đẹp thế giới” Marilyn Monroe tự
tử, nghiên cứu của Phillips ghi nhận 363 ca tự tử nhiều hơn dự đoán
(tương đương với 12.04% tăng số người tự tử ở Mỹ và 9.83% ở Anh).
Thước đo này được cho là tương ứng với
mô hình tính cách mà Eysenck đưa ra về Hướng ngoại (Extraversion), Tâm
lí bất ổn (Neuroticism) và Bốc đồng (Psychoticism). Nghiên cứu của
Sheridan, North, Maltby, và Gilette còn tìm ra điểm chung của các kiểu
hâm mộ: thần tượng đến từ văn hoá đại chúng như các ca sĩ, diễn viên,
người mẫu, thường được hâm mộ hay tôn thờ ở mức độ “Giải trí-Xã hội” hay
“Bắt chước tai hại”. Trong khi đó, thần tượng đến từ các lĩnh vực học
thuật như nhà văn, nhà khoa học, hay nhà lãnh đạo tôn giáo,…) thì được
tôn thờ ở mức độ “Mãnh liệt-Cá nhân”.
McCutcheon, Lange và Houran cho rằng bản
chất hướng nội và sự thiếu vắng các mối quan hệ ý nghĩa trong thực tế
đã làm người hâm mộ mê mải tập trung hết sự chú ý vào thần tượng nhằm
thiết lập định dạng bản thân (identity). Tình trạng này đặc biệt diễn ra
ở lứa tuổi vị thành niên, khi nhân cách chưa phát triển hoàn chính và
rất dễ chịu sự tác động của nhân tố đồng lứa thân cận (bạn bè, hay thần
tượng )
Cần nhấn mạnh rằng sự hâm mộ gồm nhiều
mức độ khác nhau: từ hâm mộ cho đến cuồng tín. Nếu người hâm mộ giữ ở
mức vừa phải, các hoạt động này có thể đem lại lợi ích cho người hâm mộ,
ví dụ như có thêm nhiều bạn, tăng mức độ thân mật trong các mối quan
hệ. Một nghiên cứu qua điện thoại trên 75 sinh viên Canada đã cho thấy
57% tin rằng thần tượng có ảnh hưởng tới thái độ và lòng tin của họ,
hoặc đã tạo cảm hứng cho họ làm một việc gì đó. Tuy nhiên, việc tôn thờ
thần tượng quá mức sẽ gây rất nhiều tác hại cho chính bản thân người hâm
mộ.
Quá
trình từ hâm mộ trở thành cuồng tín trải qua theo thời gian. Dần dần
trong quá trình tìm hiểu thần tượng, người hâm mộ sẽ bắt đầu có những
hành động quá khích. Những động cơ của các hành động này có nguyên tắc
khá giống các chất gây nghiện. Ban đầu, người hâm mộ tìm kiếm bản thân,
xây dựng nhân dạng dựa trên một hình mẫu có sẵn (thần tượng của họ). Sau
đó, họ bắt đầu có những hành vi “phân rẽ khỏi bản thể thự”, tức là họ
đánh mất bản thân để có thể đồng hóa với thần tượng, ví dụ tưởng tượng
thần tượng yêu mình hay sự sống của thần tượng phụ thuộc vào mình.
Một nghiên cứu của Maltby cho thấy những
người tôn thờ thần tượng có tình trạng sức khỏe tâm lý thấp hơn những
người không tôn thờ thần tượng. Nghiên cứu này lí giải rằng chính sự tôn
thờ thần tượng là kết quả từ việc một người có tình trạng tâm lý không
tốt, từ đó dẫn đến việc chọn việc tôn thờ thần tượng để thoát khỏi áp
lực cuộc sống. Số liệu từ 307 người trưởng thành ở Anh chỉ ra mức độ
“Giải trí-Xã hội” có liên quan tới triệu chứng trầm cảm và rối loạn kỹ
năng xã hội, còn mức độ “Mãnh liệt-Cá nhân” liên quan tới bệnh trầm cảm
và lo lắng.
Nghiên cứu trên 833 thanh thiếu niên
Trung Quốc cho thấy thần tượng nhạc Pop và vận động viên dự đoán hiệu
quả làm việc và học tập, lòng tự trọng, và sự thấu hiểu bản thân không
cao. Trong đó, những người tiếp xúc nhiều với giọng nói và hình ảnh của
thần tượng qua truyền hình và radio thấu hiểu bản thân thấp nhất. Trong
khi đó, những người chọn thần tượng là những người gần gũi trong cuộc
sống, như các thành viên gia đình, thầy cô, và những người không nổi
tiếng lại thể hiện mức độ thành đạt học tập và lòng tự trọng cao hơn.
Các nhà nghiên cứu kết luận sự ngưỡng mộ những người gần gũi trong cuộc
sống mang đến lợi ích thực và ảnh hưởng tốt hơn tới đời sống thanh thiếu
niên.
Ngoài ra, biểu hiện tôn thờ thần tượng
quá mức có thể liên quan đến việc phạm pháp. Ví dụ, sự suy giảm lòng tự
trọng có liên hệ với mức độ phá vỡ quy tắc xã hội (Aronson &
Mettee), thấu hiểu bản thân thấp liên hệ với hành vi phạm pháp (Garrett;
Leichsenring, Kunst, & Hoyer). Những người có xu hướng “bắt chước
tại hại” thần tượng có thể vướng vào những việc làm tiêu cực, thậm chí
nguy hiểm (Sheridan, North, Maltby, & Gilette).
Hiện tượng người hâm mộ cuồng tín có ở
khắp nơi trên thế giới, từ Mỹ đến Việt Nam. Một số ví dụ điển hình có
thể nói đến như John Hinckley, một người hâm mộ quá khích của nữ diễn
viên người Mỹ Jodie Foster đã ám sát tổng thống Ronaldd Reagan với mục
tiêu “làm Jodie Foster ấn tượng”. Tại Trung Quốc, người cha của Dương Lệ
Quyên đã tự tử với mong muốn con gái được gặp thần tượng Lưu Đức Hoa.
Trong khi đó tại Việt Nam, người hâm mộ nhạc Hàn Quốc (Kpop) đã từng bị
nhiều báo đài chỉ trích vì những hành vi nguy hiểm như “dọa dẫm, tự tử,
tuyệt thực, gào khóc” để được phụ huynh đáp ứng những nhu cầu theo đuổi
thần tượng. Đây chính là những biểu hiện của mức độ “Ranh giới-Bệnh lý”,
hay “mê muội” như đề văn đã chỉ ra, mà giới hâm mộ nên tránh khỏi.
Có thể nói, việc hâm mộ thần tượng là
một sở thích cá nhân cần được tôn trọng, và mang lại nhiều ích lợi cho
người hâm mộ. Tuy vậy, nó đi kèm với nhiều hệ lụy đến sức khỏe và sự
phát triển, đặc biệt với những người không hiểu rõ bản thân và chưa tìm
được định hướng phát triển cho mình. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ có con
cái ở độ tuổi vị thành niên cần hết sức lưu tâm đến vấn đề này. Đừng
cấm cản hoạt động của con cái, vì như vậy sẽ khiến con trở nên càng bất
mãn và nổi loạn. Thay vào đó, hãy tìm hiểu tâm lý của con, làm chỗ dựa
vẫn chắc, ủng hộ hoạt động hâm mộ của con, và bảo đảm những hoạt động
này không ảnh hưởng đến các hoạt động học tập và sinh hoạt của con.
NGOC T (VIET PSYCHOLOGY)
Posted in: Tâm lý
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét