Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

NHẬN ĐỊNH CUỘC ĐỜI


TRẦN VĂN KHA
 


LGT - Bài viết dưới đây là của Cụ Trần Văn Kha, 92 tuổi, một thân hữu kỳ cựu của Giao Điểm, và hiện đã về dưỡng già tại Việt Nam sau hơn 30 năm sống trên đất Mỹ.  Vốn là một sĩ quan cao cấp của quân đội VNCH cũ, Cụ còn là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu nổi tiếng tại hải ngoại trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị và Yoga.
Nội dung bài viết là những ghi nhận tuy tản mạn nhưng đan kết chặt chẻ thành một triết lý về cuộc đời qua những chứng thực mà tác giả đã kinh qua và nghiệm lại. Khởi đi từ Hà Nội thuở thơ ấu, rồi lớn lên theo những chấn động to lớn của lịch sử thế giới và nước ta, bây giờ đến tuổi “lão giả an chi” trở về quê cũ, tác giả đã đúc kết và trao gửi cho người đọc những lời dặn dò quý giá.
Ta cũng bắt gặp được vết chân của ngài luận sư Long Thọ, nhà sư Matthieu Ricard, GS Trịnh Xuân Thuận, vật lý gia Igor Bogdanoff in dấu thong dong trên các con chữ của tác giả về Không-Thời gian, về hai bờ Sinh Tử … để chấm dứt bằng một lời nhắn nhủ ân tình:  “Như thế thì muốn sống một cuộc đời sao cho có ý nghĩa, tương đối ít khổ đau, chúng ta cần phải biết nhìn xa, gây nhân tốt ngay từ bây giờ. Nếu chúng ta nghĩ thế và làm thế, chúng ta sẽ có một gia đình hạnh phúc, một xã hội yên ổn và Một Thế Giới Hòa Bình”.
Chúng tôi xin cảm ơn tác giả đã gửi riêng bài viết nầy cho Giao Điểm và trân trọng giới thiệu cùng độc giả. GĐ


                                                                          * * *

ôi sinh đầu năm 1921, ngày 21 tháng 2, tính đến tháng 10, năm 2012, là trên 91 năm. Trong thời gian dài đó, tôi đã nhận thấy những đổi thay lớn lao trên thế giới, ở nước ta, và nhân tôi.
1.- Trên thế giới.
Trận chiến tranh thế giới thứ II bắt đầu ngày 1 Tháng 9, 1939 khi Đức xâm lăng Ba-Lan. Rồi đến ngày 10 Tháng 5 năm sau, với chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg), họ tấn công các nước Bỉ, Hòa Lan, Luxembourg và Pháp. Pháp đã tốn nhiều tiền của xây dựng chiến lũy Maginot, nhưng chiến lũy không hề được sử dụng. Đức đã cho chiến xa băng qua khu rừng Ardennes mà Pháp nghĩ rằng chiến xa không băng qua được, nên để bỏ ngỏ. Còn ở chiến lũy Maginot thì tất cả súng đại bác, liên thanh, đều chĩa sang phía Đức, nhưng Đức không tấn công thẳng vào chiến lũy, mà cho nhảy dù nhảy xuống phía sau. Các súng của Pháp không sử dụng được.
Pháp đầu hàng Đức ngày 22 Tháng 6, 1940, chưa đầy 2 tháng sau khi Đức bắt đầu tấn công ngày 10 Tháng 5. Pháp đã thua trận mau chóng vì đã suy nghĩ sai.
Chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt ngày 8 Tháng 5, 1945 khi Đức đầu hàng Đống Minh vô điều kiện. Với sự đầu hàng của Đức, người ta đã tưởng Đồng Minh thắng. Nhưng thực tế cho thấy không có ai thắng cả. Tất cả đều thua. Trận chiến tranh ấy đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc, đã làm cho khoảng từ 50 đến 70 triệu người chết, nhiều thành phố bị phá hủy.
Ở Á Đông, Nhật đã xâm lăng Triều Tiên và chiếm đất nước này 35 năm từ 1910 cho đến 1945. Sau đó thì xâm lăng Trung Quốc vào tháng 7/1937.
Chiến tranh với Trung Quốc kéo dài, vỉ được Anh và Mỹ viện trợ bằng tầu biển ở hải cảng Hải Phòng, rồi dùng xe lửa chở  về Trung Quốc qua Lạng Sơn. Nhật làm áp lực với Pháp đòi đóng quân ở Việt Nam, nhưng cuộc điều đình kéo dài, nên đến ngày 23 Tháng 9/1940, Sư Đoàn 5 dưới sự chỉ huy của Thượng Tướng Akihito Nakamura, từ Longzhou ở bên Tầu phía bắc Lạng Sơn mở đầu cuộc tấn công vào Lạng Sơn. Binh sĩ thuộc địa và lính Lê Dương Pháp cầm cự được một ngày. Sang đến ngày hôm sau, 24 Tháng 9/1940, thì Nhật chiếm được Lạng Sơn.
Nhân dịp Nhật tấn công Lạng Sơn, một nhà cách mạng Việt Nam, Trần Trung Lập, tưởng có thể hợp tác với Nhật, để giành lại độc lập cho quê hương, cũng nổi lên chống Pháp, nhưng bị Nhật bỏ rơi sau khi chiếm được Lạng Sơn. Với quân số áp đảo Pháp đã tấn công và bắn chết Trần Trung Lập.
Đến năm 1945, Nhật lo sợ Đồng Minh tấn công tái chiếm Đông Dương. Chính phủ Vichy không còn ở Âu Châu, nhưng chính phủ thuộc địa ở Đông Dương vẫn còn, tuy rằng Toàn Quyền Decoux đã công nhận và tiếp xúc với Chính Phủ Cộng Hòa Lâm Thời Pháp.
Đầu tháng Ba, quân đội Nhật giàn quân xung quanh những trại lính chính của Pháp, và vào ngày 9 Tháng 3, 1945, Nhật gửi tối hậu thư cho Pháp đòi hạ vũ khí, không báo trước. Những người từ chối thường bị giết.
Ở Saigon, sĩ quan cao cấp Nhật mời các cấp chỉ huy Pháp đến dự tiệc. Những người tham dự đều bị bắt và hầu hết bị giết. Ở Saigon hai quan chức cao cấp của Vichy, Tướng Emile-René Lemonnier và công sứ Camille Auphalle bị giết bằng chặt đầu sau khi từ chối ký giấy đầu hàng.
In 1945, the Japanese feared an Allied offensive in French Indochina. The Vichy regime had ceased to exist in Europe, but its colonial administration was still in place in Indochina, though governor Jean Decoux had recognized and contacted the Provisional Government of the French Republic[4]
In early March, Japanese forces were redeployed around many of the main French garrison towns, and on 9 March 1945, the Japanese delivered an ultimatum for the French troops to disarm, without warning. Those who refused were usually massacred.
In Saigon, senior Japanese officers invited the French commanders to a banquet. The officers who attended were arrested and almost all were killed. In Saigon the two senior Vichy officials, General Emile-René Lemonnier and Resident Camille Auphalle, were executed by decapitation,[2]  after refusing to sign surrender documents.[5]
 
Đúng đêm 9 Tháng 3, 1945, Nhật mở cộc tấn công nhiều nơi trong đó có thành Hà-nội và chiếm được thành sau một đêm. Ngày hôm sau đi quan sát tình hình, tôi thấy một lỗ thủng to ở một bức tường thành, phía đường Nguyễn Tri Phương, có lẽ do quân Nhật phá thủng để xông vào tấn công.
Ở ngã tư phố Đội Cấn-Ông Ích Khiêm một xe chở quân lính Nhật bị bắn, xe nằm xoay ngang, trên xe có những người lính bị thương còn sống. Một sĩ quan Nhật có đến quan sát, nhưng không thấy xe cứu thương đến.
Pháp đã thua mau chóng vì binh sĩ đa số là người Việt Nam không có kinh nghiệm chiến đấu, và họ cũng nghĩ rằng họ chẳng dại gì mà chết cho Pháp. Ở Bộ Tham Mưu Không Quân Pháp do một Đại Tá chỉ huy (Đại Tá Tavéra), các sĩ quan đều về nhà sau giờ làm việc. Chỉ có một Hạ Sĩ Quan với gia đình có nhà trong Bộ ở lại Bộ. Để canh giữ Bộ có khoảng 30 binh sĩ Việt Nam. Tôi nghĩ là các binh sĩ này đã đầu hàng không kháng cự khi Nhật tấn công, nếu có.
Sau khi lật đổ Pháp có nhiều tin đồn, Nhật sẽ đưa Hoàng Thân Cường Để về lập chính phủ, nhưng đó chỉ là tin đồn, Nhật vẫn giữ lại Vua Bảo Đại. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Ngài ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.
Chiến tranh ở Á Đông kéo dài, cho đến ngày 15 Tháng 8/1945 thì Nhật đầu hàng Mỹ vô điều kiện, sau khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, ngày 6 Tháng 8/ 1945, và ba ngày sau, 9 Tháng 8/1945, làm chết khoảng 140.000 và 80.000 người.
Nhật đã gây ra chiến tranh ở Á Đông, làm chết không biết bao nhiêu người, nhiều thành phố bị phá hủy, cuối cùng thua trận, thủ tướng Nhật Tojo (Đông Điều) bị đưa ra tòa xét xử rồi bị kết tội tử hình, bằng treo cổ.
Việc ném bom Tokyo cùng với những vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki là giai đoạn thảm khốc nhất. Những người chết và bị thương rất đáng tiếc không phải là nạn nhân phụ, theo như thường hiểu: mục tiêu của 2.000 tấn bom lửa được ném xuống là khu dân cư phía đông sông Sumida. Sức nóng của những đám cháy nóng đến nỗi nước ở dưới sông trong khu vực sôi lên: những người nhẩy xuống nước hy vọng không trở thành đuốc sống đã chết vì nước sôi. Tướng Bonner Fellers, trưởng ban tình báo của tướng MacArthur chỉ huy trưởng quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đã viết vào tháng 6, 1945, cho rằng đó là một cuộc giết dân không chiến đấu không thương tiếc một cách dã man nhất trong Lịch Sử   
... Cuộc ném bom ngày 10 tháng 3, 1945, đã làm cho chỉ trong một đêm 100.000 người chết và 40.000 bị thương. Tất cả đều là dân. Những đài radar ở Iwojima có trách nhiệm báo động thủ đô. Nhưng trong đêm 9 tháng 3 không còn hoạt động, và 340 pháo đài bay B-29 chứa bom cháy cất cánh từ Guam, Saipan và Tinian. Mục tiêu: Tokyo.
Le raid aérien sur Tokyo, lui, reste, avec les bombardements atomiques sur Hiroshima et sur Nagasaki, l'épisode le plus meurtrier. Les morts et les blessés ne furent pas victimes d'un regrettable "dommage collatéral", selon l'euphémisme habituel: la cible des 2 000 tonnes de bombes incendiaires qui furent larguées était un quartier populaire à l'est du fleuve Sumida. La chaleur de l'incendie fut si vive que dans les canaux du quartier l'eau bouillonnait: ceux qui s'y précipitèrent espérant ne pas finir en torches vivantes y périrent ébouillantés. "Une des tueries d'une population non combattante les plus impitoyables et les plus barbares de l'Histoire", écrivit, en juin 1945, le général Bonner Fellers, chef des services de renseignements du général MacArthur, commandant des forces américaines dans le Pacifique.
... Le raid aérien sur Tokyo du 10 mars (1945) qui fit, en une nuit, 100 000 morts et 40 000 blessés. Tous civils. Les radars d'Iwojima devaient alerter la capitale. Mais, dans la nuit du 9 mars, ils n'étaient plus opérationnels et trois cent quarante forteresses volantes B-29 chargées de bombes incendiaires avaient décollé de Guam, Saipan et Tinian. Objectif : Tokyo.
Nhật Bản chắc chắn không từ bỏ ném bom và giết hại thường dân, nhất là ở bên Tầu. Sự đáp ứng của Mỹ có tương đương với sự độc ác của kẻ thù? Có lẽ. Tuy nhiên sự dã man của bên này có chứng minh cho sự dã man của những người khác?
Le Japon ne s'était certes pas privé de bombarder et de massacrer des civils, notamment en Chine. La réponse américaine fut-elle "proportionnée" à la férocité de l'ennemi ? Peut-être. Il reste : la barbarie des uns justifie-t-elle celle des autres?
Tướng Le May chỉ huy phi đoàn máy bay ném bom Tokyo ý thức được sự tàn sát mà ông thi hành. Ông đã tuyên bố, “nếu chúng ta thua, chúng ta sẽ bị xét xử như tội phạm chiến tranh”. Mỹ quốc đã thắng. “Kẻ chiến thắng viết lại đạo luật về luân lý”, sử  gia John W. Dower đã viết như thế, ông nhớ lại trang sử không mấy vinh dự của chiến tranh Thái Bình Dương: sử dụng không phải chỉ sự tàn phá vật chất mà cũng còn của chiến tranh tâm lý một cách tàn bạo nhất: sử dụng, nói tóm lại, sự khủng bố. Sau Tokyo, 6 thành phố khác cũng bị ném bom như thế. (Le général Le May, qui commandait l'escadre de bombardiers sur Tokyo, était conscient du massacre auquel il se livrait. "Si nous perdons, nous serons jugés comme criminels de guerre", avait-il déclaré. Les Etats-Unis gagnèrent la guerre. "Les vainqueurs récrivent aussi les codes de la morale", écrit l'historien américain John W. Dower, qui rappelle cette page peu glorieuse de la guerre du Pacifique : "Le recours non seulement à la destruction matérielle mais aussi à la guerre psychologique de la manière la plus brutale : le recours, en un mot, à la terreur" (Cultures of War, 2011). Après Tokyo, six autres villes furent bombardées de la même manière.) {Les "âmes errantes" du Pacifique.  Lettre d'Asie |  | 04.11.11 | 14h33   •  Mis jour le 04.11.11 | 14h34)

Thủ tướng Tojo Hideki

Tōjō Hideki (kanji kiểu cũ: 東條 英機; kanji mới: 東条 英機Hán ViệtĐông Điều Anh Cơ) (sinh 30 tháng 121884 - mất 22 tháng 12,1948) là một đại tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản và là thủ tướng thứ 40 của Nhật Bản trong suốt phần lớn thời gian của Chiến tranh thế giới thứ hai, từ 18 tháng 10 năm 1941 đến 22 tháng 7 năm 1944. Ông là một trong những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa dân tộc và là người ủng hộ chiến tranh với Trung Quốc và các quốc gia khác, ông bị tuyên án tử hình vì các tội ác chiến tranh sau Chiến tranh thế giới thứ hai và bị xử tử hình bằng hình thức treo cổ sau một cuộc bỏ phiếu của các thẩm phán Tòa án quân sự quốc tế vùng Viễn Đông (International Military Tribunal of the Far East.- Wikipedia).
Sau khi Nhật đầu hàng không điều kiện năm 1945, tướng Mỹ Douglas MacArthur đã ra lệnh bắt giữ những người bị coi là tội phạm chiến tranh. Có tên trong danh sách đó, Tojo bị bắt giữ ngày 11 tháng 9, 1945, tại nhà của ông ở Setagaya bị bao vây bởi quân cảnh và nhà báo cùng nhiếp ảnh gia báo chí. Trước cuộc tấn công không lâu của quân cảnh, Tojo đã định tự tử bằn súng nhưng thất bại.
Trong tiến trình xử án, Tojo tuyên bố trong cuộc thảm vấn đầu tiên là “không ai có thể chống lại nhà vua”, cho rằng chỉ có Hirohito mới có thể có những quyết định như ném bom Trân Châu Cảng hay chấm dứt chiến tranh. Sau khi tạm ngưng cuộc thẩm vấn, Tojo chịu thua trước sứ ép của  công tố viên trưởng Joseph Keenan, và rút lại lời khai trước, xác nhận rằng nhà vua luôn luôn yêu chuộng hòa bình.
Bị Tòa Án Tokyo kết tội năm 1948 về những tội ác chiến tranh, ông bị treo cổ ngày 22, 12, 1948.
 
Tōjō. Arrestation et procès
Après la capitulation sans condition du Japon en 1945, le général américain Douglas MacArthur a ordonné l'arresta-tion des criminels de guerre présumés. Figurant sur cette liste, Tōjō fut arrêté le 11 septembre 1945 dans sa maison de Setagaya encerclée par la police militaire et par des journalistes et photographes de presse. Peu avant l'assaut de la police militaire, Tōjō tenta en vain de se suicider par balle.
 
Lors du procès de Tokyo, Tōjō déclara lors de son premier interrogatoire que « nul ne pouvait s'opposer à l'empereur », impliquant que seul Hirohito pouvait prendre des décisions telles que de bombarder Pearl Harbor ou mettre fin à la guerre. Après un ajournement de l'audition, Tōjō succomba aux pressions du procureur en chef Joseph Keenan et se rétracta en affirmant lors d'un second interrogatoire que son empereur avait toujours été un homme de paix.
Condamné pour crimes de guerre par le tribunal de Tokyo en 1948, il fut pendu le 22 décembre 1948.
Le surnom de Tōjō était « le Rasoir » (« Kamisori »).
Nhật đã phải trả giá cho những tội ác của chiến tranh do họ gây ra. Nhưng có đủ không?
Trung Cộng có nhìn thấy gì không? Khi âm mưu chiếm đoạt Biển Đông.
Nhìn lại thời gian trước Thế chiến Thứ II, ta có thể thấy những thay đổi lớn lao ở các cường quốc Âu Châu. Đầu thế kỷ 20, nước Anh với lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới đã đem quân đi rất xa, chinh phục thế giới. Họ đã chiếm Ấn Độ và Pakistan, và xâm lăng nước Tầu. Pháp thì chiếm ba nước Đông Dương, có tô giới ở Thượng Hải.
Sau Thế Chiến thứ II, Cộng Sản thế giới trở thành một thế lực đáng kể. Liên Bang Sô-viết chiếm hết Đông Âu. Cộng sản Tầu của Mao Trạch Đông chiếm hết nước Tầu năm 1949.
Đến năm 1954, Pháp thua trận ở Việt Nam. Làn sóng đỏ dâng cao, người ta đã tưởng thế giới sẽ bị nhuộm đỏ. Nhưng không! Chỉ một lúc sau bài diễn văn từ chức của Mikhail S. Gorbachev đọc ở Moscow, ngày 25/12/1991, chiếc cờ đỏ có hình Búa Liềm ở điện Kremlin đã được kéo xuống sau 74 năm tung bay trên nóc điện. Thay thế vào đó là chiếc cờ Nga, với ba màu, Trắng, Xanh, Đỏ. (“Thời Đại Mói” 1992, trang 190-91). Các nước Đông Âu bị Nga cai trị, như Ba Lan, Tiệp Khắc, v.v., lợi dụng tình thế thuận lợi, đã nổi lên giành độc lập. Quốc Tế Cộng Sản tự động tan rã. Nhưng trước đó hai nước cộng sản lớn, Nga Sô và Trung Cộng đã bất hòa với nhau và giàn quân bắn giết nhau.
On March 2, 1969, a group of Chinese troops ambushed  Soviet border guards on Zhenbao Island. The Soviets suffered 59 dead, including a senior colonel, and 94 wounded. They retaliated on March 15 by bombarding Chinese troop concentrations on the Chinese bank of the Ussuri and by storming Zhenbao Island. The Soviets sent four then-secret T-62 tanks to attack the Chinese patrols on the island from the other side of the river. One of the leading tanks was hit and the tank commander was killed. On March 16, 1969, the Soviets entered the island to collect their dead, the Chinese held their fire. (Wikipedia).
Ngày 2 Tháng 3, 1969, một nhóm binh sĩ Trung Cộng phục kích lính canh Sô-viết ở đảo Zhenbao. Sô-viết chết 59 người, trong đó có một Đại Tá thâm niên, và 94 bị thương. Họ đã trả thù bằng ném bom, ngày 15 Tháng 3, vào quân Trung Cộng tập trung bên bờ sông Ussuri, và tấn công đảo Zhenbao. Sô-viết cho 4 xe tăng T-62, khi ấy còn bí mật, tấn công toán tuần tiễu Trung Cộng ở trên đảo, phía bên kia sông. Một trong số xe tăng dẫn đầu bị trúng đạn và người chỉ huy chết. Vào ngày 16 Tháng 3, 1969, Sô-viết đổ bộ lên đảo để thu thập người chết, Trung Cộng im lặng, không bắn.
Bây giờ nhìn lại các nước lớn hay mạnh trên thế giới, ta có thể thấy:
Nước Nga đã mất Đông Âu, thu gọn lại, không còn bành trướng như trước; nước Anh mất Ấn Độ và Pakistan, v.v, trở lại với hòn đảo truyền thống; nước Pháp mất các thuộc địa ở Châu Phi, như Algérie, Maroc và Tunisie, và ở Á Đông thì mất Đông Dương; nước Nhật trả lại độc lập cho Triều Tiên, rút về hòn đảo truyền thống, nhưng phát triển mạnh về kinh tế, và cách đây một năm là nước kinh tế thứ nhì thế giới sau Mỹ. Bây giờ, năm 2012, thì bị Trung Quốc qua mặt.
Trung Quốc với tổng sản lượng quốc gia gia tăng đã gia tăng lực lượng quân sự, với ý định làm chủ biển đông, và đòi Đài Loan trở về làm một với Trung Quốc. Trung Quốc không thuộc lịch sử thế giới, không nhớ rằng, bành trướng quá mức thì sẽ thất bại. Không có cái gì cứ mở rộng mãi mà không phải thu hẹp, lên cao mãi mà không phải xuống thấp. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng như một số nước trên thế giới, không biết rằng mọi thứ đều liên hệ chặt chẽ với nhau. Không có cái gì đứng riêng rẽ một mình mà có thể tồn tại. Một bông hoa có liên hệ chắt chẽ với đất, nước, gió và mặt trời.
“Cái này có vì cái kia có. Cái này không vì cái kia không”.
Và luôn luôn thay đổi. Không có cái gì không thay đổi. Cơ thể của chúng ta cũng thế, nó luôn luôn thay đổi, mỗi giờ, mỗi ngày, có những tế bào chết đi, và những tế bào mới sinh ra.
“Tuổi trẻ bao lâu mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương”
Nguyễn Bá Trạc
 
Sống qua nhiều giai đoạn, từ người dân của một nước bị bảo hộ, tôi trở thành dân của một nước văn minh, mạnh nhất về kinh tế và quân sự, nước Mỹ. Tôi đã thấy những đổi thay, mà bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ rằng người ta cứ tưởng cuộc đời dài lắm, và hành động tưởng như không bao giờ chết.
Người ta hoạt động mạnh nhất trong khoảng thời gian từ năm 20 tuổi cho đến năm 60. Trong khoảng thời gian ngắn ấy so với lịch sử, nhưng dài với một đời người, người ta tranh giành nhau, giết nhau, để chiếm đoạt đất đai, hay bảo vệ địa vị.
 
2.- Ở Nước Ta.
2.1. Chống Ngọai Xâm. Khi tôi ra đời, đầu năm 1921, Pháp đã thiết lập xong nền đô hộ ở nước ta. Đất nước yên ổn, ngoại trừ vụ nổi loạn chống Pháp năm 1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học lãnh đạo.
Chiều hôm mồng hai tháng Ba, Mật thám đến vây cơ quan. Trong cơ quan lúc ấy có 5 người, 3 người con trai và 2 người con gái. Thấy họ ập vào, các đồng chí ném bom và bắn súng chống lại. Hai tên thám tử Việt Nam bị chị Tâm bắn chết! Trong khi ấy họ cũng rút súng bắn trả. Hai anh đồng chí đã bị giết. Còn thì bị bắt cả. Bao nhiêu bom, dao, súng đạn còn lại, đều bị bắt theo.
Chị Tâm bị chúng lôi ra đánh rất tàn nhẫn. Chúng lột trần truồng chị, rồi nắm tóc mà quật vào tường, như chúng ta vật con chuột! Chán rồi, chúng đem xuống buồng giam cùm chân lại. Đêm ấy, chị đã nuốt cái giải yếm cho tắt hơi mà về dưới dạ đài. Lúc chúng rút giải yếm ở mồm chị ra, thấy họng đầy những máu! Năm ấy chị 18 tuổi, quê quán ở Dư Hàng, cạnh Hải Phòng. Tên ở nhà trường của chị là Lan. Vốn là con một nhà cách mệnh bị giết về tay cường quyền, vào Đảng, chị mong đạt được cả hai mục đích: trả thù nhà, đền nợ Nước.
Người đồng bạn của chị là Nguyễn Thị Vân, 16 tuổi, quê quán làng Hạ Câu, huyện An Lão, tỉnh Kiến An. Cũng như chị Tâm, trước mới vào Đoàn Học Sinh, sau mới đổi sang Đoàn Ám Sát. Chị đã trả lời với Mật thám rất cứng cáp:
Hỏi: “Mày vào Đảng để làm gì?”
Chị đáp: “Để lấy lại quyền Độc Lập cho Tổ Quốc!”
Hỏi: “Mày đã làm gì trong Đảng?”
Chị đáp: “Hồi trước thì may cờ, khâu binh phục cho các đồng chí. Bây giờ thì tập bắn súng, học chế bom, để giết quân phản Đảng mà cứu lấy đồng bào!”
Hỏi: “Ai rủ mày vào? Chi bộ mày có những ai?”
Chị đáp: “Chị Tâm rủ tao vào. Chi bộ tao có bốn người thì chúng mày đã giết hết ba rồi đấy!”
Anh Học thì cãi lý với Cố Ân:
- Việc gì chúng tôi phải ăn năn? Chúng tôi chỉ là kẻ thất bại, chứ đâu phải là kẻ có tội! Rồi Anh đọc mấy câu thơ tiếng Pháp, dịch nghĩa là:
“Chết vì Tổ Quốc,
Cái chết vinh quang!
Lòng ta sung sướng!
Trí ta nhẹ nhàng!...”
Khi đến Yên Báy, chúng giam các anh vào nhà pha. Rồi bắt đầu từ 5 giờ rưỡi sáng hôm 17 tháng 6 (năm 1930), các anh đã lần lượt bước lên đài vinh dự.
Đó là một khoảng đất ở gần trại Khố Xanh, chung quanh có lính ta, lính Lê Dương vác súng đứng vòng tròn. Các anh, từng người một, do lính lê Dương dẫn từ trong ngục thất Yên Báy bước ra... Người chết trước nhất là Nguyễn Như Liên, đến người thứ mười một là Nguyễn Văn Chuân, chỉ hô được hai tiếng “Việt Nam...” thì tên lính Lê Dương đứng cạnh đã bịt mồm không hô ra tiếng nữa! Anh Phó Đức Chính thứ mười hai, đòi đặt anh nằm ngữa để xem lưỡi máy chém nó xuống như thế nào! Anh hô được đủ bốn tiếng “Việt Nam vạn tuế!”
Anh Học lên cuối cùng, tỏ ra vẻ cực kỳ bình thản. Anh mỉm miệng cười, đưa mắt nhìn công chúng, nhìn quân lính, nhìn máy chém, rồi cất giọng đỉnh đạc, trầm hùng mà hô thật lớn bốn tiếng “Việt Nam vạn tuế!”... Nhưng không biết trong khi nhìn quanh ấy, tia mắt Anh có gặp tia mắt một người... không? (Tài liệu Internet)
Chị Giang
Một người ấy, tôi muốn nói chị Giang, một đảng viên mà nhà đương cuộc cho là còn có công tuyên truyền cho Đảng hơn là anh Học. Cô Giang, người ở tỉnh Bắc Giang, nên cả ba chị em cô, có tên là Bắc, Giang và Tỉnh. Cô Tỉnh khi ấy còn nhỏ. Còn hai chị thì đều vào Đảng cách mệnh của anh Song Khê. Việt Nam Quốc Dân Đảng nguyên không thu đàn bà làm đảng viên. Các chị em đồng chí chỉ tổ chức vào Phụ Nữ Đoàn. Vậy mà riêng tỉnh bộ Bắc Giang có mấy nữ đảng viên.
Là vì họ nguyên là đảng của anh Song Khê. Sau khi Đảng ấy hợp với VNQDĐ rồi, đành lẽ cứ để cho như cũ vậy… Đó là một điều ngoại lệ, dành riêng cho mấy chị ở Bắc Giang. Song chị Giang và các chị ở đó thực đã xứng đáng với cái đặc điểm ấy. Làm giao thông, làm tuyên truyền, chị tỏ ra một người đồng chí có tài và đắc lực. Nhưng quý hơn hết là sự tận trung với Đảng: trừ việc Đảng, chị không còn thì giờ để làm cái gì cho đời sống riêng mình. Sau hồi 1929, chị làm việc giao thông cho Tổng Bộ với các nơi, luôn luôn phải gặp gỡ và cùng đi với anh Học.
“Lạ chi thanh, khi lẽ hằng,
Một dây, một buộc ai giằng cho ra”
 
Sự thương yêu nhau của một đôi đồng chí tài sắc ngang nhau, trạc tuổi gần nhau, đâu phải là chuyện khiến chúng ta khó hiểu. Rồi, một buổi sớm tốt lành kia, nhân đi gần đền Hùng Vương, hai người đã đem nhau vào đền mà thề nguyền. Trong buổi định tình ấy, chị cố xin Anh giao cho một khẩu súng sáu, và hứa
“Nếu Học chẳng may chết vì nước, thì Giang cũng
Xin lấy khí giới này mà chết theo chồng!”
 
Chiều hôm ấy, nghe tin anh Học bị giải lên Yên Báy, chị cũng đáp xe lửa đi theo hút! Chị mang theo một khẩu súng, một quả bom, định vào phá pháp trường. Nhưng bọn lính canh đã ngăn không cho chị tới gần. Đứng đàng xa, với một sức tự trị phi thường, chị đã đem nụ cười mà đáp lại nụ cười của anh Học khi sắp bước lên máy chém. Nấp trong đám người đứng xem, chị đã không lộ mảy may nỗi đau xót cho người ngoài biết. Xem chém xong, chị quay về nhà trọ và viết hai bức thư tuyệt mạng. Hai bức thư ấy viết trên ba trang giấy khổ hẹp, bằng nét bút chì xanh.
Hai bức thư của chị như sau:
Bức thư thứ nhất. “ Ngày 17 tháng 6, 1930
Thưa Thầy, Mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh đã bó buộc con: không báo thù được cho nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở đền Hùng, giờ con tìm về chỗ quê cha, đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con!
Đứa con dâu thất hiếu kính lạy.”

Bức thư thứ hai.
“Anh đã là người yêu nước!
Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước, Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về mà chiêu binh, rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã, mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau Anh, để đánh đổ cường quyền, mà cứu lấy đồng bào đau khổ!
Rồi ra chợ, chị mua mấy vuông vải trắng, làm khăn để tang chồng. Buổi chiều, chị đi xe lửa sang Vĩnh Yên. Và sớm hôm sau, chị về địa hạt Đồng Vệ, cạnh làng Thổ Tang, vào thăm lại cái quán giữa đồng mà đôi vợ chồng son đã có lần cùng ngồi trò chuyện. Nghĩ đến chồng, nghĩ đến Đảng, nghĩ đến Nước, cái thiên tính muốn sống với cái ý định phải chết đã giao tranh kịch liệt! Sự giao tranh ấy đã làm cho chị bơ phờ mỏi mệt. Cái quyết tâm đến với cái mỏi mệt ấy, bước ra ngoài quán, chị cầm súng tự bắn vào thái dương bên phải một phát, rồi ngã vật xuống, súng quăng ra một bên. (Tài liệu Internet).
Cuộc nổi loạn đã thất bại, lẽ dĩ nhiên là thất bại, vì xẩy ra không đúng thời.
Dù thất bại nhưng chúng ta không thể không kính phục sự can đảm và tinh thần hy sinh của Việt Nam Quốc Dân Đảng, với đảng trưởng Nguyễn Thái Học.
Cuộc Cách Mạng 19 Tháng 8, 1945 sau này của Việt Minh thành công vì gặp thời. Đó là thời đi lên của Cộng Sản.
Au cours de l'année 1949, le conflit indochinois change de visage et s'insère plus directement dans le contexte de la guerre froide. Avec la victoire des communistes en Chine, le Viet minh dispose de sanctuaires pour développer ses forces. Il bénéficie des approvisionnements en armes, en munitions et en vivres nécessaires à la conduite d'opérations de plus grande envergure.
 
Năm 1949, cuộc chiến tranh Đông Dương thay đổi bộ mặt và sát nhập trực tiếp vào trong khuôn khổ chiến tranh lạnh. Với sự chiến thắng của cộng sản ở Trung Hoa, Việt Minh có những khu an toàn để phát triển quân đội. Được tiếp vận vũ khí, đạn dược và thực phẩm cần thiết để mở những cuộc hành quân lớn.
Nhờ có những sự giúp đỡ đó, nên Việt Minh mới có đủ khả năng:
- Đánh tan đoàn quân Charton-Lepage trên Con Đường Thuộc Địa số 4, làm cho Pháp phải rút bỏ những đồn bót ở biên giới Việt Nam-Trung Hoa, trong đó có Lạng Sơn, năm 1950.
- Và chiến thắng ở Điện Biên Phủ, năm 1954.

2.2. Nạn Đói Năm Ất Dậu.


“Sử gia Việt Nam, David Marr, nghĩ rằng hiện tượng thiếu thực phẩm đã bắt đầu từ nhiều năm, trước khi trở thành trầm trọng. Ông xác nhận rằng số lúa thu hoạch đã sút giảm từ hơn hai thập niên vì sự giảm dần đất canh tác và thất bại trong việc áp dụng những cách trồng lúa mới. Ngoài ra một số nhỏ ruộng đã phải biến đổi thành những ruộng sản xuất cây kỹ nghệ. Trong khi đó thì dân số Bắc Việt đã gia tăng 36%, bắt buộc phải lệ thuộc vào sự nhập cảng gạo ở Nam Kỳ. Hạn hán và ngập lụt đã làm giảm đi 19% thu hoạch năm 1944. Nông dân ở Bắc Việt biết rằng họ không thể đóng thuế, kể cả việc bắt buộc phải nộp thóc cho chính phủ, và nuôi sống gia đình. Trong khi nông dân bắt đầu tìm cách né tránh, và khi những người trộm lúa và chợ đen phát triển mạnh trong hoàn cảnh đó, thì chính phủ Pháp và Nhật tiếp tục tích trữ gạo, do lệnh của Tướng Tsuchibashi Yuichi, chỉ huy quân đội chiếm đóng ở Đông Dương, và là Toàn Quyền sau Tháng Ba 1945. Ông đặt kế hoạch dự trữ 6 tháng (hay 3 năm) trước cuộc tấn công của Đồng Minh”.
Historian of Vietnam, David Marr,22 contends that the prospect of dearth in Tonkin had been creeping up for some years prior to the climax. He asserts that paddy output had been slipping over two decades owing to gradual reductions in acreage and a failure to introduce new cultivation methods. In addition, a still small percentage of land had been given over to the production of industrial crops. Meanwhile, the northern population had increased by 36 percent, forcing increased dependence on imports of Cochinchina rice. Drought and insects reduced the 1944 harvest by 19 percent over the previous year, with typhoons damaging the autumn crop. Farmers across northern Vietnam realized by October that they could not fulfill tax obligations, including obligatory deliveries to the government, and feed their families. While peasants started taking customary evasive actions, and while hoarders and black marketers thrived in this environment, the French and Japanese continued stockpiling rice, with General Tsuchibashi Yuichi, commander-in-chief of the occupation army in Indochina and pro-governor general after March 1945, planning 6 months (or 3 years) stockpiling ahead of an anticipated Allied invasion.
 
“Theo tin tức tình báo Tháng 9, 1944 của Pháp Tự Do (mà nguồn gốc là của một nhân viên vô danh Mỹ), ngoài một thỏa thuận kinh tế phải giao nộp 1.200.00 tấn gạo, người Nhật đòi thêm 400.000 tấn cho quân đội. Biết chắc rằng nó sẽ gây nên một sức ép không thể chịu được cho nông dân sản xuất Việt Nam, chính phủ Vichy dưới quyền của Đô Đóc Decoux từ chối. Người Nhật trả lời bằng một tối hậu thư. Với một thái độ tự trị đặc biệt rất cao chính phủ Vichy bảo rằng nếu Nhật cần gạo thì cứ lấy và chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quà”.
According to a Free French intelligence report of September 1944 (derived from an anonymous American informant), on top of an economic agreement contracting 1,200,000 tonnes of rice, the Japanese demanded an additional 400,000 tonnes for military provisions. Undoubtedly sensitive to the intolerable pressures that this would impose upon Vietnamese producers, the Vichy administration under Admiral Decoux balked. The Japanese answered with an ultimatum. In a highly exceptional display of autonomy, the Vichy administration sardonically replied that, if the Japanese wanted the rice then they would have to take it and bear full responsibility for the consequences.27
 
Để có đủ thóc lúa giao cho quân đội nhật, Pháp ra lệnh cho nông dân chỉ giữ lại một số lúa đủ ăn cho đến mùa gặt sau. Nhưng mùa gặt sau không có, vì mất mùa, do hạn hán hay lũ lụt. Thế là dân quê, giầu cũng như nghèo không còn gạo để ăn. Họ bỏ làng, kéo nhau lên Tỉnh, đặc biệt là Hà-nội, để xin ăn. Bác sĩ Phan Quang Đán có lập ra đoàn khất thực, xin gạo, xin cơm, để cứu đói, nhưng số người đói nhiều quá, không cứu được. Năm ấy trời lại lạnh hơn những năm trước, rét xuống 5o C. Đã đói lại rét, nên cứ sau một đêm lại có nhiều người chết. Xe bò đi nhặt xác chết xếp lên xe đem về chôn tập thể ở trại tế bần Giáp Bát. Có dư luận cho rằng đã có 2 triệu người chết đói trong năm Ất Dậu.
Khi viết lại bây giờ chuyện đói năm Ất Dậu, tôi vẫn cảm thấy đau lòng, xót thương cho dân tộc mình.
 
3.- Cá Nhân Tôi.
3.1. Thân Thể. Sinh ngày 21 Tháng 2, 1921, tính đến Tháng 10, 2012, là tôi đã gần 92 tuổi. Tôi không có ảnh của tôi lúc còn bé để so sánh với tôi bây giờ. Chắc là khác nhau nhiều lắm, không thể nhận ra. Khi bé chắc tôi cũng được ngồi tắm trong một cái chậu, như nhiều đứa bé khác. Bây giờ thì không còn như thế nữa, tôi chỉ có thể tắm dưới hương sen, hay trong bồn tắm. Tôi cứ theo ngày tháng thay đổi từ từ, nên không nhận ra. Vài chục năm sau, khi phải mang kính để đọc sách, tóc đổi màu, tôi mới ý thức được những thay đổi lớn lao của thân thể tôi.
Tuổi của con người được tính bằng năm. Và năm thì được tính theo vòng quay của trái đất theo quỹ đạo của nó, xung quanh mặt trời. Cứ khoảng 365 ngày thì nó quay được một vòng, với tốc độ 3.600 km/giờ. Người ta gọi đó là một năm. Về ngày thì người ta cũng tính theo chiều quay của trái đất xung quanh cái trục của chính nó. Cứ một ngày với 24 giờ thì nó quay được một vòng, và 1 giờ là một vòng cung 15o, với  tốc độ 1.670 km/giờ.
Nhưng thời gian là gì? Nó không có khởi đầu và không có tận cùng. Trong cái vòng quỹ đạo mà trái đất quay xung quanh mặt trời, không có chỗ nào là khởi điểm cho một năm. Thời gian chỉ là một ước lệ người ta đặt ra để đánh dấu một biến cố. Tỉ dụ như năm số 1 là năm mà những người Âu Châu theo đạo Ca-tô đặt ra để dánh dấu năm Chúa Jesus ra đời, nhưng những người khác thì gọi là năm số 1 Công Nguyên. Lấy đó làm cái mốc để gọi trước Công Nguyên hay sau Công Nguyên. Người Âu Châu thì gọi là B.C. (Before Christ) và A.C. (After Christ) dịch ra là Trước Thiên Chúa và Sau Thiên Chúa.
Người ta thường chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng hiện tại, cái gọi là bây giờ tồn tại được bao lâu, nó vùn vụt qua đi và trở thành quá khứ. Hiện tại của ta cũng là quá khứ của một địa điểm khác. Tỉ dụ như bây giờ là 12 giờ ngày 1 tháng 10, 2012 ở Cali., nhưng lại là 3 giờ chiều ở Washington D.C., 9 giờ tối ở Paris và 2 giờ sáng ngày 2 tháng 10 ở Việt Nam.
Thời gian theo Matthieu Ricard chỉ là một khái niệm.
Sau đây là cuộc thảo luận về thời gian giữa Matthieu Ricard (M) và Trịnh Xuân Thuận (T).  

GS Trịnh Xuân Thuận, link: http://www.trinhxuanthuan.com/indexen.htm

Matthieu (M).- Đối với sự phân tách cổ điển của Phật Giáo, thời gian vật lý tuyệt đối chỉ là một khái niệm. Nó không tự hiện hữu. Sự qua đi của thời gian không thể nắm bắt được trong lúc hiện tại, nó không trôi qua và không có bề dày cần thiết để có thể có khởi đầu và chấm dứt. Về vấn đề hiện tại đó, quá khứ đã chết và tương lai chưa có. Làm thế nào mà hiện tại có thể có, treo lơ lửng giữa cái không còn và cái chưa có? Thời gian thuộc về sự thật tương đối của thế giới hiện tượng, trong lãnh vực của người sống, và chỉ là một khái niệm liên hệ tới sự thay đổi nhận thấy bởi một người quan sát.
Thời gian vật lý không có thực, bởi vì người ta không thể hình dung ra một thời gian tách ra khỏi những giây phút cấu tạo ra nó. Không thể nhận diện được nó lúc đầu, trong lúc, hay là vào lúc chấm dứt một khoảng thời gian ấn định. Nếu người ta định nghĩa một khoảng thời gian như là gồm tất cả, từ bắt đầu, lúc ở giữa và đến tận cùng, thì rõ ràng là cái tất cả không có trong bất cứ mỗi một phần nào của ba phần ấy. Khoảng thời gian cũng không có ở ngoài lúc khởi đầu, lúc ở giữa và lúc tận cùng của thời gian, và hậu quả là quan niệm về một khoảng thời gian chỉ thuần túy là một ước lệ. Thời gian cũng như không gian chỉ có đối với kinh nghiệm của chúng ta và với những hệ thống tham khảo đặc biệt. Nói tóm lại, thời gian là một cách để hiểu những hiện tượng. Không có hiện tượng, thời gian không thể có.
Đức Phật cũng dùng hình ảnh một lực sĩ bắt một lúc bốn mũi tên đang bay, bắn vào anh ta bởi bốn người, từ bốn phía khác nhau. “Tuy nhiên, Ngài nói, thời gian còn đi mau hơn và cái chết còn đến mau hơn nữa”. Đối với một người tu Phật Giáo, thời gian vì vậy là của cải quý báu nhất, và không được phí phạm một giây phút nào với sự vô tình của một người quên mất rằng cái chết thật gần kề. Nhưng Phật Giáo thêm rằng mũi tên thời gian là ảo ảnh, bởi vì quá khứ và tương lai không có một sự thật nào, và hiện tại thì không nắm bắt được.
Để trở lại vấn đề thời gian vật lý, lúc không có thời hạn, tổng cộng những lúc cũng không có thời hạn. Thời gian như vậy chỉ là một cái nhãn mà chúng ta dán vào nhận thức của chúng ta về sự đổi thay. Nếu thời gian vật lý hiện hữu một cách tuyệt đối, thì phải có sự liên tục, điều này đòi hỏi một điểm tiếp xúc giữa quá khứ và hiện tại, và giữa hiện tại và tương lai.

T.- Rất lô-gic.
 
M.- Lúc sẽ là một cái chấm không thời hạn mà ở đó hiện tại và tương lai gặp nhau. Nhưng làm thế nào mà cái lúc vừa qua đi và cái lúc hiện tại có thể có bất cứ một cái gì chung? Nếu như thế, hoặc là lúc hiện tại trở thành quá khứ, hoặc là lúc quá khứ trở thành hiện tại. Y như thế, nếu hiện tại có một điểm tiếp xúc với lúc tương lai, hoặc là lúc hiện tại trở thành tương lai, hoặc lúc tương lai trở thành hiện tại. Như thế thì, dần dần, vô vàn những lúc đã qua và sắp đến có thể nhập vào lúc hiện tại.
 
T.- Người ta thấy một lập luận tương tự ở Aristote, trong sách Vật Lý của ông: “Nếu trước và sau tất cả hai đều trong cùng một Lúc ấy, thì sẽ như thế nào nếu cái xảy ra cách đây một nghìn năm cũng xảy đồng thời với cái xảy ra bây giờ”?
Nhưng tôi xin nhắc lại với anh rằng, đối với những nhà thần kinh-sinh vật học, như Varela, cái lúc, cái bây giờ, không phải không có thời hạn. Thời hạn của nó không thể dưới khoảng vài phần mười của triệu giây, thời gian tối thiểu để những dây thần kinh hoàn tất công việc của nó.
(Trích ra từ “Những Vấn đề Thời gian”).
M.- ... Phật Giáo dùng quan niệm thời gian tâm lý để trấn an cái chết và tăng cường quyết tâm tu tập. Một người tu Phật Giáo không sống trong sự ám ảnh của cái chết, bởi vì khi suy nghĩ không ngừng về cái chết, anh ta sửa soạn để thanh thản đón nhận nó khi nó đến. Gampopa, một hiền nhân Tây-tạng ở thế kỷ XI, đã viết:
Khi bắt đầu, phải coi như bị theo đuổi bởi sự sợ hãi về sinh và tử như một con nai thoát ra khỏi bẫy. Ở khoảng giữa, thì phải coi như không có gì để tiếc nuối, dù rằng phải chết, giống như một dân quê đã cẩn thận cày bừa ruộng xong. Cuối cùng thì phải cảm thấy sung sướng như một người đã làm xong một công việc lớn”.
Một người tu ẩn xoay cái chén (người ta làm việc này ở Tây-tạng khi có người chết) mỗi buổi chiều trước khi đi ngủ, vì có thể ông ta không tỉnh dậy nữa. Ông ta nghĩ rằng mỗi một lúc đem ông ta lại gần cái chết. Sau mỗi một lần thở ra, ông cảm thấy hạnh phúc lại được thở vào.
 
Ngài Long Thọ viết trong “Thư gửi một người bạn”:
“Nếu đời sống này bị vùi dập bởi cơn gió với hàng ngàn đau khổ
Còn mong manh hơn một cái bọt trên mặt nước,
Thì thật là một phép lạ, sau một giấc ngủ,
Ta hít vào, thở ra, tỉnh dạy khỏe mạnh”.
Trong những “Chương nói có ý định” (Chapitres dits intentionnellement), Đức Phật tuyên bố:
“Tất cả những cái gì mà người ta gom góp, cuối cùng tan ra,
Và những cái gì mà người ta xây dựng sụp đổ,
Những cái gì kết hợp cuối cùng phân tán ra,
Và những cái gì sống biến đi trong cái chết”.
Vậy thì, ý thức được sự chạy trốn không phản hồi của thời gian giống như cái cựa gà kích thích sự vội vã của chúng ta.
Padmasambhava, vị thày đã nhập Phật Gíao vào Tây-tạng, có nói:
“Như một dòng thác chảy ra biển,
Như mặt trời và mặt trăng trôi vào mỏm núi của hoàng hôn,
Như những ngày những đêm, những giờ, những phút nó chạy trốn,
Đời người cứ thế trôi chảy.”
 
3.2. Liên Đới. Từ trước cho đến những ngày gần đây tôi cứ tưởng tôi là một thành phần riêng biệt, chỉ liên hệ gián tiếp với những người ở xung quanh. Nhất là không liên hệ gì tới vũ trụ. Đa số chúng ta không biết rằng, mọi thứ đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Phật Giáo có nói. “Cái này có vì cái kia có. Cái này không vì cái kia không” (Lý duyên khởi).
Sau khi đọc và nghiên cứu nhiều năm tôi mới khám phá ra rằng con người là một thành phần không thể tách rời khỏi vũ trụ, và mỗi một hành động của chúng ta, tốt hay xấu, đều ảnh hưởng tới vũ trụ. Nếu chúng ta biết và tin như thế, và hành động theo niềm tin ấy, luôn luôn nghĩ tốt và làm tốt, thì chúng ta có một gia đình yên ấm, một xã hội mà ở trong đó người nọ giúp đỡ người kia, và một thế giới hòa bình.
Sau đây xin mời quý vị đọc những suy tư của các triết gia, khoa học gia về vấn đề Liên Đới.
- “Mọi thứ đều liên hệ chằng chịt với nhau: Chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chịu trách nhiệm về mọi việc chúng ta làm, nói, hay nghĩ, thực ra là chịu trách nhiệm với chúng ta, với mọi người và mọi thứ khác, và toàn thể vũ trụ”.
 Everything is inextricably interrelated: We come to realise we are responsible for everything we do, say, or think, respon-sible in fact for ourselves, everyone and everything else, and the entire universe. (“The Tibetan Book of Days”, February 25.- Sogyal Rinpoche).

- “Nếu chúng ta liên hệ tới mọi thứ và mọi người khác, thì một ý nghĩ, một việc làm, một hành động nhỏ nhoi nhất, vô nghĩa nhất, cũng đem lại hậu quả thực sự cho toàn thể vũ trụ”. (Trang 668, 1100).
If we are interdependent with everything and everyone else, even our smallest, least significant thought, work and action have real consequences throughout the universe. (“The Tibetan Book of Days”, March 25.- Sogyal Rinpoche).
 
Matthieu Ricard (M).- ... Đối với người theo đạo Phật, sự liên đới của những hiện tượng có sự vang dội lớn lao hơn nhiều. Nó làm cho họ xem xét lại hoàn toàn sự nhận thức của họ về thế giới và họ luôn luôn cần tới sự nhận thức mới ấy để giảm bớt sự quyến luyến, sự sợ hãi và những điều bất mãn. Hiểu biết sự liên đới phải phá đổ bức tường ảo ảnh mà tâm ta đã dựng lên giữa “tôi” và người “khác”. Nó làm cho sự kiêu ngạo, ghen ghét, tham lam, tính xấu, trở nên vô lý. Không phải chỉ những vật vô tình, mà tất cả mọi người đều liên hệ với nhau, chúng ta phải cảm thấy thiết tha quan tâm đến hạnh phúc và sự đau khổ của người khác. Muốn xây dựng hạnh phúc của mình trên sự đau khổ của người khác không những vô đạo đức, mà còn thiếu thực tế. Những tình cảm yêu thương toàn cầu (định nghĩa trong Phật Giáo như là mong cho mọi người được biết hạnh phúc và những nguyên nhân đem lại hạnh phúc) và sự từ bi (mong cho mọi người thoát khỏi khổ đau và biết những nguyên nhân gây ra khổ đau) là hậu quả trực tiếp của sự liên đới. Ý thức sự liên đới như thế gây ra một tiến trình thay đổi nội tâm, sự thay đổi này tiếp tục mãi trên con đường đi tới Tỉnh Thức tâm linh. Nếu không đem những hiểu biết ra thực hành, thì cũng giống như một nhạc sĩ điếc hay một người đi bơi chết khát vì sợ chết đuối nếu uống nước. (Trích ra từ “Khơng Gian...”)
GS Trịnh xuân Thuận có nói trong cuộc thảo luận với Matthieu Ricard (một nhà bác học người Pháp đi tu theo Phật giáo Tây-tạng) được in thành sách, “L’Infini Dans La Paume De La Main” (Không Gian Vô Cùng Trong Lòng Bàn Tay):
 
T.- Liên đới của những hiện tượng = trách nhiệm toàn cầu. Một công thức thật đẹp! Nó dội lại những lời của Einstein; “Con người là một phần của tất cả mà chúng ta gọi là vũ trụ, một phần giới hạn bởi thời gian và không gian. Con người làm thử nghiệm trên chính mình, tư tưởng mình và những cảm giác như là những biến cố tách rời khỏi phần còn lại, đó là một thứ ảo ảnh theo nhãn quan của tâm. Ảo ảnh này là một hình thức nhà tù của chúng ta, bởi vì nó giới hạn chúng ta vào những ham muốn cá nhân và ép buộc chúng ta dành sự yêu thương cho một vài người gần chúng ta nhất. Bổn phận của chúng ta là giải thoát chúng ta ra khỏi cái nhà tù ấy bằng cách nới rộng phạm vi từ bi cho tới mọi sinh vật và tất cả thiên nhiên trong cái đẹp của nó”. (L’être humain est une partie du tout que nous appelons univers, une partie limitée par le temps et l’espace. Il fait l’expérience de lui-même, de ses pensées et de ses sentiments comme des événements séparés du reste, c’est là une sorte d’illusions d’optique de sa conscience. Cette illusion est une forme de prison pour nous, car elle nous restreint à nos désirs personnels et nous contraint à réserver notre affection aux quelques personnes qui sont les plus proches de nous. Notre tâche devrait consister à nous libérer de cette prison en élargissant notre cercle de compassion de manière à y inclure toutes les créatures vivantes et toute la nature dans sa beauté”.- Xin coi thm chi tiết trong bi “Khơng Gian ...”).
 
 Igor Bogdanoff. Mỗi một phần của không gian dù bé nhỏ đến thế nào đi nữa (xuống tới một quang tử đơn thuần, nó cũng là một luồng sóng, hay một “bó sóng”) cũng chứa đựng trong nó, giống như mỗi một phần của tấm kính ảnh “holographique”, hình ảnh của tất cả không gian, với toàn thể quá khứ và những chi tiết của tương lai.
(Chaque région de l’espace, aussi petite soit-elle [en descendant jusqu’au simple photon, qui est aussi une onde, ou un “paquet d’ondes”] contient, comme chaque région de la plaque holographique, la configuration de l’ensemble, y compris tout le passé et des implications pour le futur).
Dù sao đi nữa, thì cũng do đó mà chúng ta đi tới nguyên tắc đầu tiên về một Vũ Trụ không đứt quãng, được sắp đặt như hình “holographique”: mỗi một vật phản ảnh tất cả những cái khác. Tách c phê ở trên bàn, quần áo mà ta mặc, bức tranh treo trên tường, tất cả những vật mà xưa nay ta vẫn coi như là thành phần, đều mang trong lòng nó tất cả những cái khác. Từ nhận định đó, ta có thể nói, chúng ta cầm không gian vô cùng trong lòng bàn tay.
(En tout cas, c’est bien ainsi que nous aboutissons au premier principe d’un univers sans discontinuité, holistiquement ordonné: tout reflète tout le reste. La tasse de café sur cette table, les habits que nous portons, ce tableau au mur, tous ces objets que nous identifions comme des parties, portent la totalité enfouie en eux. De ce point de vue, on peut dire que nous tenons l’infini au creux de notre main.- Trích ra từ “Khoa học v Triết học”).
Phần thảo luận trên và câu “Chuùng ta caàm khoâng gian voâ cuøng trong loøng baøn tay”, có thể tóm tắt trong câu
 
“Một là tất cả, Tất cả là một
 của Phật Giáo. (Xin coi thêm chi tiết trong bài “Phật Giáo trong Thời Đại Mới”).
 
3.3. Sinh Tử.
Trong kinh sách Phật Giáo ta thường bắt gặp câu,
“Thành, Trụ, Hoại, Không”
hay
“Sinh, Lão, Bệnh, Tử”
Tất cả các loài động vật hay thực vật đều phải đi theo chu kỳ đó. Nhưng từ đâu sinh ra làm người, hay khi nào tử, tôi không biết, và có lẽ không ai biết. Đã có sinh thì có tử. Nhưng chết là hết, hay còn có gì khác nữa? Tôn giáo ra đời để trả lời cho câu hỏi đó.
Bây giờ gần 92 tuổi, ở cái tuổi gần đất xa trời, tôi mới cảm thấy thấm thía câu nói trong đạo Phật, “sinh, lão, bệnh, tử”. Tôi đã đi qua đủ bốn giai đoạn đó. Tôi bị bệnh, bị đột qụy, chân trái và tay trái tê liệt 50%. Từ bệnh bây giờ tôi đang đi tới giai đoạn chót của cuộc đời, tới tử, một điều chắc chắn phải đến, nhưng bao giờ tử thì tôi không biết. Ở đời không có ai sống mãi. Tôi biết thế, nên thanh thản chờ ngày đó đến. Tôi nhớ đến cái chết của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Trong lúc đang hấp hối, thấy người thân khóc lóc, Người ngồi dậy, bảo,
“Chết là lẽ tự nhiên, việc gì phải khóc,
Đừng làm tâm ta giao động”.
Đòi nước súc miệng, rồi thanh thản ra đi.
 
Đạo Phật cho rằng có Sinh thì có Tử. Và có Tử thì có Sinh. Chúng ta cứ quanh quẩn mãi trong cái vòng luân hồi Sinh Tử, Tử Sinh.
Vào khoảng thế kỷ 19 trở về trước, sống đến 70 năm rất hiếm, nên đã có câu,
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi”
Nhưng bây giờ người ta sống lâu hơn. Trung bình là 80 năm. Nhưng sống lâu có phải là hạnh phúc hơn không? Một số người thân của tôi đã qua đi, hiền nội năm 2008 khi bà 88 tuổi, sau 55 năm chung sống, bà Tín người yêu đầu đời, năm 2009, khi bà 87 tuổi. Mỗi lần có người thân như thế qua đi, nước mắt tự nhiên nước mắt lại trào ra.
“Nước mắt của chúng sinh đổ ra vì khổ đau từ đời này qua đời khác gom lại đã nhiều hơn nước đại dương”.
Theo thống kê của Internet,, thì số người sống cho đến bây giờ là 107,602,707,791. Nếu lấy con số đó trừ đi 7 tỉ người đang còn sống, rồi chia cho 7 thì số người chết nhiều gấp 15 lần số người sống.
Sau đây là một đoạn thảo luận về cái chết giữa Jean Francois Revel (J.F.) và Matthieu Ricard (M), trích ra từ “Phật Giáo và Cái Chết” (T.G.Đ.C. I)

J.F.- Cuối cùng… Tất cả những lý luận để làm cho cái chết dễ chấp nhận đối với con người đã nhiều lần được ghi nhận trong triết học và tôn giáo. Ta có thể quy vào, một cách tổng quát, hai loại. Loại thứ nhất dựa vào niềm tin một sự sống tiếp tục. Kể từ lúc tin có một cái gì ở bên kia, mà ở đó có một sự bất diệt của nguyên tắc tâm linh trong chúng ta, linh hồn, thì chúng ta chỉ cần sống theo một loại sống, phù hợp với một số luật lệ – nghĩa là, trong ngôn ngữ Ky-tô, tránh xa mọi thứ tội trọng hay là xưng tội với linh mục, và thế là được bảo đảm tiếp tục sống trong những hoàn cảnh tốt ở bên kia thế giới. Cái chết như vậy là một thứ thử thách thể chất, như một thứ bệnh, nó giúp cho chúng ta đi từ thế giới này sang một thế giới tốt hơn. Những linh mục giúp cho người sắp chết đóng góp vào việc làm giảm bớt sự sợ hãi có sẵn trong sự chuyển tiếp đó. Nguyên tắc của loại an ủi này, là không có chết thực sự. Cái lo lắng độc nhất là: tôi sẽ được cứu vớt hay trừng phạt?
Loại suy luận thứ hai hoàn toàn triết học, có giá trị cả với những người không tin ở thế giới bên kia. Đó là trau dồi một thứ chịu đựng và khôn ngoan, bằng tự nói với mình rằng sự hủy diệt, sự tan biến của sự thật sinh vật ấy, chính tôi, một con vật trong số những con vật, là một hiện tượng không thể tránh được, tự nhiên, và cần phải biết chấp nhận. Về vấn đề này, các triết gia đã khôn khéo cung cấp những lý luận hấp dẫn làm cho cái chết dễ chấp nhận hơn. Tỉ dụ như Epicure, ông sử dụng một lập luận nổi tiếng. Ông nói: chúng ta không việc gì phải sợ chết, bởi vì, thực ra, chúng ta không bao giờ găp cái chết. Khi chúng ta còn sống, thì cái chết không có đó. Khi cái chết đến, chúng ta không còn! Vậy thì, thật là vô ích nếu chúng ta cảm thấy sợ hãi trước cái chết. Sự quan tâm lớn của Epicure là giải thoát con người khỏi những sợ hãi vô ích – sợ hãi các vị thần, sợ hãi cái chết, sợ hãi những hiện tượng thiên nhiên, sấm xét, động đất – ông cố gắng giải thích những hiện tượng đó một cách thật hiện đại, như là những hiện tượng có những nguyên nhân, và tuân theo những luật lệ, v.v.
Nhưng dù sao, về vấn đề chết, người ta không thể thoát ra khỏi một trong hai cách giải thích hay an ủi trên. Tôi sẽ xếp Phật Giáo vào loại một. Dù Phật Giáo không phải là một tôn giáo hữu thần, kỹ thuật tâm linh nó làm cho cái chết dễ chấp nhận dựa vào một thứ siêu hình học cho rằng chết không phải là giới hạn. Hoặc là, khi tới giới hạn, thì đó là một giới hạn có lợi, bởi vì nó có nghĩa là được giải thoát khỏi cái chuỗi tái sinh vô cùng tận trong thế giới khổ đau. Trong thế giới hiện đại, ở Tây phương, người ta nhận thấy rất rõ, cái chết được che giấu, như là một điều gì xấu hổ. Trong thời Cổ, cái chết là một cái gì công khai. Người ta chết trong nhiều ngày, tôi có thể nói như thế… Tất cả gia đình tụ họp xung quanh người hấp hối, nghe nhưng lời căn dặn cuối cùng, các linh mục đi nối đuôi nhau, làm những phép bí tích… Cái chết của vua là một biến cố mà tất cả triều đình tham dự. Bây giờ, cái chết được che đậy. Nhưng đồng thời, người ta cũng nhận biết rằng sư im lặng không đủ và hiện nay đã có những nhân viên y tế giúp đỡ những người sắp chết, để làm cho sự ra đi có thể dễ dàng.
M.- Trong thời đại của chúng ta, người ta có khuynh hướng không nhìn vào cái chết và sự khổ đau nói chung. Có sự khó chịu này vì chết là một trở ngại không thể vượt qua được của lý tưởng văn minh Tây phương: sống thật lâu và hết sức thoải mái. Hơn nữa, chết hủy diệt cái mà người ta quý trọng nhất: chính mình. Không có một phương tiện vật chất nào thay đổi được giới hạn bất biến đó. Người ta thích đem cái chết ra khỏi những sinh hoạt hàng ngày và duy trì càng lâu càng tốt cái êm đềm của một hạnh phúc giả tạo, mong manh, bề mặt, nó không giải quyết được gì mà chỉ làm cho chậm lại sự đương đầu với bản chất thật của sự vật. Ít ra là chúng ta đã không sống trong lo âu, chúng ta nghĩ thế. Đúng, nhưng trong khoảng thời gian “mất” đi đó, càng ngày đời sống càng thâu ngắn lại, mà chúng ta lại không biết lợi dụng để đi tới nguồn gốc của vấn đề để tìm ra những nguyên nhân của khổ đau. Chúng ta đã không biết đem lại ý nghĩa cho mỗi giây phút của đời sống, và đời sống chỉ là thời gian trôi đi như hạt cát trong các kẽ ngón tay. 
J.F.- Vậy thì Phật Giáo đề nghị cái gì?
M.- Có hai cách hữu hiệu để giải quyết cái chết: hoặc là chúng ta nghĩ rằng con người chúng ta đã tới giai đoạn chót, như một ngọn lửa sắp tắt, như nước thấm vào đất khô, hoặc chết chỉ là một giai đoạn. Tuy nhiên, dù tin hay không tin rằng dòng tâm, một khi tách ra khỏi thân, sẽ tiếp tục trong những lối sống khác, Phật Giáo giúp cho người sắp chết, chết trong thanh thản. Đó là một trong những lý do thành công của sách Sogyal Rinpotché, Le Livre tibétain de la vie et de la mort (Sách Tây-tạng về sống và chết), mà một phần lớn dành cho việc sửa soạn cái chết, giúp cho người sắp chết và cho ngay cả tiến trình của cái chết. Sogyal Rinpotché bảo rằng, “cái chết là tiêu biêu cuối cùng và không thể tránh được của sự hủy hoại cái mà chúng ta quyến luyến nhất: chính chúng ta. Vì vậy người ta thấy những lời giảng về sự vô ngã và bản chất của tâm có thể giúp đỡ như thế nào”. Vậy thì, khi gần chết, nên trau dồi sự không quyến luyến, vị tha, vui vẻ.
J.F.- Nếu tôi hiểu đúng, Phật Giáo phối hợp hai loại sửa soạn cho cái chết mà chúng ta đã nói tới?
M.- Sự tồn tại của tâm hay một nguyên tắc tâm linh sau khi chết thuộc thành phần, trong đa số tôn giáo, giáo điều mặc khải. Trong trường hợp Phật Giáo, người ta đứng trên bình diện kinh nghiệm trực tiếp, sống bởi những người chắc chắn ở ngoài sự thông thường nhưng đủ nhiều để người ta tôn trọng những chứng nhận của họ. Dù sao đi nữa, chắc chắn rằng trong những tháng cuối cùng hay những giờ phút cuối cùng, sống thanh thản vẫn tốt hơn là sống trong lo âu. Chẳng ích lợi gì, để bị hành hạ bởi ý nghĩ bỏ lại phía sau những người thân và những của cải, để sống trong sự ám ảnh rằng thân thể của chúng ta sẽ bị hủy diệt. Phật Giáo dạy chúng ta phá tan những quyến luyến mãnh liệt nó làm cho cái chết nhiều khi trở thành một sự đau đớn tinh thần chứ không phải đau đớn thể xác. Nhưng nhất là Phật Giáo dạy, không nên chờ cho đến lúc chót mới sửa soạn cho cái chết, bởi vì khi sắp chết không phải là lúc lý tưởng để bắt đầu thực tập đời sống tâm linh. Chúng ta thường bị bận rộn với tương lai, chúng ta làm mọi cố gắng cần thiết để không bao giờ thiếu tiền, thực phẩm, để bảo vệ sức khỏe, chúng ta không thích nghĩ đến cái chết, nhưng nó lại là một trong những biến cố tương lai quan trọng nhất. Suy nghĩ về cái chết, tuy nhiên, không làm mất tinh thần, nếu người ta coi đó như một sự nhắc nhở, để ý thức được sự mong manh của đời sống và để đem lại một ý nghĩa cho mỗi lúc của đời sống. Một lời dạy Tây-tạng có nói: “Chính bởi luôn luôn suy nghĩ về cái chết mà người ta đem tâm trở lại với tu tập tâm linh, làm trẻ lại sự hăng hái tu tập, và, cuối cùng, coi cái chết như là kết hợp với sự thật tuyệt đối”. (Hết trích dẫn).
Sống làm người, ai cũng mong sống không khổ đau, sống trong hạnh phúc, nhưng đó chỉ là những ước mơ khó thành. Hạnh phúc giống như một nắm cát ta cầm trong tay, nó cứ theo kẽ tay chảy đi mất. Những người thành công nhất, với rất nhiều của cải, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, nhưng họ sống được bao nhiêu lâu? Mỗi ngày thân thể của họ mỗi già đi. Sẽ đến lúc dạ dày không tiêu hóa được thức ăn như khi còn trẻ, ăn không còn biết ngon nữa. Và cái nhu cầu âm dương kết hợp cũng không còn.
Cuộc đời này có hai cực, có ngày thì có đêm, có hạnh phúc thì có đau khổ. Ta chỉ có thể làm giảm bớt khổ đau, chứ không thể loại trừ được hết khổ đau.
Phật Giáo cho rằng sướng hay khổ là do những việc ta đã làm trong quá khứ. Gây nhân tốt thì gặt quả tốt. Pháp có câu:
“On récolte ce qu’on a semé”
“Người ta gặt cái mà người ta đã gieo”.
Suy luận thêm ta có thể nói, nếu ta trồng cỏ, thì dù có ngày đêm cầu nguyện Thượng Đế đến sái quai hàm để biến cỏ thành lúa, cỏ vẫn chỉ là cỏ.
Nếu tin vào luật nhân quả, thì ta phải chấp nhận rằng, trong hiện tại, nếu ta sướng hay khổ đều do những nhân tốt hay xấu mà ta đã gây ra từ trước. Ta có thể thay đổi tương lai bằng những việc ta làm bây giờ.
Nhìn lại cuộc đời một vấn đề mà nhiều người, nếu không nói là tất cả, thắc mắc đặt câu hỏi,
 
“Cuộc đời có ý nghĩa gì không?”
 
4. Ý Nghĩa Của Cuộc Đời.
 
“Đừng tin vào sự chứng minh của kinh sách cổ viết bằng tay, đừng tin vào một điều mà dân tộc mình tin hay đã làmthấy nó  cho mình tin từ lúc còn nhỏ. Đối với tất cả mọi điều, phải áp dụng lý trí; sau khi phân tách, nếu bạn tốt cho mọi người và cho mỗi người, thì hãy tin nó, sống cho nó và giúp cho người khác cũng sống như thế”.
“Ne croyez pas sur la foi de vieux manuscrits, ne croyez pas une chose que votre peuple y croit ou parce qu’on vous l’a fait croire dès votre enfance. A toutes choses appliquez votre raison ; lorsque vous les aurez analysées, si vous trouvez qu’elles sont bonnes pour tous et pour chacun, alors croyez-les, vivez-les et aidez votre prochain à les vivre également”. (Parole de Buddha cite par Swami Vivekananda. “Les Yogas Pratiques”, Pages 114-15).
----------------
 
Theo lẽ thông thường, chúng ta sống với những gì ở gần, nhìn thấy những gì ở gần, ít khi nhìn xa hơn về phía trước. Đầu thế kỷ 20, dân sống trong làng bao bọc bởi lũy tre xanh, ít khi ra khỏi làng, lên huyện hay ra tỉnh. Vợ chồng lấy nhau cũng là người trong làng. Cá nhân chúng tôi lớn lên ở Hà-nội chỉ biết Hà-nội. Những tỉnh gần Hà-nội như Bắc Ninh, Bắc Giang, tôi không biết. Ngay như quê tôi cách xa Hà-nội 60 cây số, tôi cũng chỉ về thăm mỗi năm, hai hay ba lần, vì phương tiện di chuyển không thuận lợi. Xe lửa chạy chậm, chỉ 60 cây số mà nó chạy hết 4 giờ, tính ra là 15 cây số/giờ.
Khoa học trên thế giới đã có những tiến bộ mà không ai ngờ tới. Neil Amstrong thuyền trưởng Apollo 11 đã bay tới mặt trăng Tháng 7, 1969, cách xa trái đất 384,403 km, sau 76 giờ bay, với tốc độ 5057.93 km/h.
Trong khi đó, chỉ cách đây khoảng 100 năm thôi, đầu thế kỷ 20, từ Hà-nội đến Huế, caùch xa nhau 654 cây s, nhöõng ngöôøi mang leàu choõng töø Hà-ni vaøo Hueá ñeå ñi thi, thöôøng ñi heát moät thôøi gian trung bình laø 20 ngaøy, tính ra moãi ngaøy chæ ñi ñöôïc 30 caây soá. (Trích ra từ “Thân Tâm”, trang 108).
Nói gì 100 năm trước, chỉ đầu thập niên 1930 thôi, khi đó đường xá ở Việt Nam còn xấu, chật hẹp, phương tiện giao thông còn ít, xe gắn máy chưa có, xe hơi tư nhân gần như không có. Phương tiện di chuyển thông thường là xe đạp. Có được chiếc xe đạp Peugeot cũng hiếm. Hiền nội kể rằng, ông anh rể làm tham phán, nghĩa là công chức mà lương hàng tháng cũng nhiều, có một chiếc xe đạp Peugeot, mà khi về gần đến nhà ông phải vác xe, không dám ngồi lên để đạp, hay xuống xe dắt tay về nhà, vì có một đoạn đường gần nhà chỉ trải đá, không tráng nhựa.
Đi bộ, một người đi nhanh, đi được 5 km/giờ. Đi xe đạp nhanh gấp 3 lần, được 15 km/giờ. Hà-nội Bắc Ninh cách nhau 30 km, nếu đi xe đạp phải mất 2 giờ. Đi và về 4 giờ. Vì thế, cá nhân tôi, tuy ở Hà-nội, mà chưa bao giờ đạp xe sang Bắc Ninh xem hội Lim, hát quan họ.
Nhìn gần, nghĩ gần, tham nhũng, gây chiến, là do hoàn cảnh, do thói quen, hay vì không biết nhìn xa. Không biết rằng Nhân Quả theo nhau như hình với bóng. Một nước cũng như một cá nhân, gây nhân ác thì gặt qủa ác, Nhật gây chiến đã phải trả quả khá nặng nề. Thủ Tướng Tojo bị kết án tử hình treo cổ. Thủ đô Tokyo bị bom chết 100.000 người. Và Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử chết 140.000 và 80.000 người.
 
x
 
Nếu chúng ta biết rằng mỗi một người là một thành phần của vũ trụ, “một là tất cả”, có liên hệ với mọi loài, mọi vật, và nhất là giữa con người với con người, và hạnh phúc của người cũng là của ta.
Như thế thì muốn sống một cuộc đòi sao cho có ý nghĩa, tương đối ít khổ đau, chúng ta cần phải biết nhìn xa, gây nhân tốt ngay từ bây giờ. Nếu chúng ta nghĩ thế và làm thế, chúng ta sẽ có một gia đình hạnh phúc, một xã hội yên ổn và Một Thế Giới Hòa Bình.
 
 TRẦN VĂN KHA
Ngày 23 Tháng 10, 2012

0 nhận xét:

Đăng nhận xét