Chống Cộng – sát cộng và tìm ra giải pháp dân chủ cho VN cái nào mới là mục đích đấu tranh của các nhà hoạt động dân chủ? Không có ai trong chúng ta đây không phải là nạn nhân của chủ nghĩa phân loại giá trị con người , giá trị xã hội theo thứ tự ưu tiên tồn tại gọi là CS. Nhưng dù đúng hay sai thì CS là một thực tế. Tại VN hiện nay tổng số thành viên, cảm tình viên và thân nhân CS không ít hơn 10 triệu sinh linh mang cùng dòng máu với chúng ta. Việc lọc hết 10 triệu con người đó để xây dựng một VN phi CS đồng chất là không khả thi , trái tinh thần dân chủ, và phi nhân bản. Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bao….. mới là tinh thần nhân bản truyền thống VN đích thực. Chính người Mỹ cũng nhận ra vấn đề nên luôn đặt ưu tiên cho dân chủ hóa VN chứ không phải sát cộng để báo thù cho dù lắm chính trị gia Mỹ trong đáy tim họ thù VC ngút trời mây nhưng kẻ làm chính sự không thể chiều theo cảm xúc mà phải tuân lệnh lợi ích của toàn dân. Nếu không thể sát 10 triệu con người kia thì cách duy nhất là áp lực buộc họ thay đổi tư tưởng, vì tự cứu mình họ phải làm tu chính học thuyết của họ từ bỏ dùng bạo lực và chấp thuận một xã hội đa diện phi đồng chất. Con đường này từng được tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nói một cách gián tiếp “Tuy nhiên trong một chế độ dân chủ ai mà nói đảng cầm quyền rời bỏ vị trí đang nắm giữ là tự sát ắt bị trẻ nó cười vào lỗ mũi.” Họ sợ chết thì càng bám vào quyền lực, hãy chứng minh cho họ thấy lợi ích lớn lao cho cả họ, gia đình họ và cho cả dân tộc về lâu dài khi họ tu chính tư tưởng và hiến pháp như Anh Cù yêu cầu. Làm được điều đó tất cả mọi người đều có lợi kể cả Mỹ. Còn chúng ta? Đa số đã ổn định cuộc sống ở nước ngoài, đã có vợ hiền con ngoan sự nghiệp vững chắc nên có hay không lợi ích cho mình từ VN cũng không quan trọng. Nếu chúng ta không tử vì đạo nhưng chỉ muốn phục hận thì con đường dân chủ của dân tộc thật là vô vọng. Chúng ta thì không sao nhưng còn anh em bà con bạn bè đồng đội của chúng ta thì sao? Nếu các Tông Đồ không hy sinh để minh chứng cho tình yêu nhân loại của Thượng Đế thì vĩnh viễn không có Ki- tô giáo đè bẹp cường quyền La Mã. Nếu các chí sĩ VNCH không hy sinh cá nhân để minh chứng cho niềm tin vào một xã hội dân chủ tốt đẹp thì tương lai dân tộc thật là mờ mịt khói sương.
Thứ Ba, 11 tháng 10, 2016
Mở ra chân trời mới – Dân Chủ cho Việt Nam trong tương lai
15:49
Hoàng Phong Nhã
No comments
I. Một sự thật của lịch sử Việt Nam chứa đựng trong năm sự kiện lịch sử
Bàn về việc xây dựng dân chủ cho Việt Nam không thể không biết đến năm sự kiện lịch sử:
1.-
Từ cuối năm 1945, vị vua cuối cùng của dòng họ Nguyễn, Hoàng Đế Bảo
Đại, đã tự ý thoái vị để cho nhân dân có tự do lựa chọn dân chủ. Quần
chúng, các nhân sĩ và các chính đảng đã công khai biểu lộ nguyện vọng và
quyết tâm thành lập tại Việt Nam chế độ dân chủ thay thế chế độ quân
chủ.
2.-
Đảng Cộng sản Việt Nam – chính đảng đứng ra tổ chức cướp chính quyền và
cầm quyền gần 70 năm qua – trắng trợn phản bội lời cam kết long trọng
trước quốc dân và quốc tế bảo vệ độc lập, ban hành tự do và mưu cầu hạnh
phúc cho quốc dân. Tập đoàn cai trị này đã dùng bạo lực và lừa gạt, gây
nội chiến, cam tâm tự hiến mình giữ vai trò công cụ cho Đế Quốc Đỏ,
mượn chiến tranh ý thức hệ quốc tế vô sản giết hại hàng triệu sinh linh
vô tội, đặt cả nuớc dưới ách độc tài đảng trị tàn bạo chưa từng thấy
trong quốc sử.
3.-
Cuối thập niên 1940, một số nhân sĩ chính trị, tôn giáo, văn hóa, quân
sự, qui tụ chung quanh Cựu Hoàng Bảo Đại, đã mở ra một phong trào, rồi
một mặt trận dân chủ, võ trang tranh đấu chống lại cường quyền cộng sản.
Ba chính quyền dân chủ đã ra đời và cầm quyền trên nửa nước, từ vĩ
tuyến thứ 17 trở xuống phía Nam đến Mũi Cà Mâu, với qui mô quốc gia được
nhìn nhận trên trường quốc tế. Nhưng năm 1975 trong cuộc tái phối trí
của các thế lực quốc tế để thiết lập một trật tự thế giới mới, tập đoàn
cai trị Cộng Sản từ miền Bắc xua quân cuỡng chiếm miền Nam, phá đổ hết
những nền tảng vừa xây đắp của một kiến trúc dân chủ đang thành hình. Và
5 năm sau, năm 1980, họ đã để lộ hẳn bộ mặt thật, chuyên chính vô sản,
kẻ thù không đội trời chung của dân chủ, bọn người đào huyệt chuyên
nghiệp mai táng dân chủ.
4.-
Quốc tế, đứng đầu là Hoa Kỳ, trong tình huống mới của thời sự, đã nhắm
mắt làm ngơ trước những tội ác vi phạm nhân quyền có hệ thống của tập
đoàn cai trị phi pháp, phi nhân quyền Hà Nội, cho nó giữ vai trò một
chính quyền, thực tế quản lý cuộc sống chung toàn cầu hóa ở trong vùng.
Tự do, Dân chủ, không còn được coi là những giá trị cơ bản của nhân loại
văn minh tiến bộ, như dưới thời chiến tranh lạnh nữa. Riêng chính quyền
Hoa Kỳ, từ năm 2004, đã không còn che dấu đường lối dung dưỡng, trong
khuôn khổ chính sách đối ngoại dài hạn, bộ máy cầm quyền cộng sản Việt
Nam, phạm pháp, phi nhân quyền, phản dân chủ.
5.-
Cả hai bộ phận ở trong nước và ở ngoài nước của khối người Việt cho đến
nay đông gần 90 triệu rõ ràng là đã và đang là nạn nhân của những thế
lực cầm quyền cả quốc tế lẫn bản địa. Hàng triệu người đã hy sinh tính
mạng, hàng trăm vạn người đã chịu cảnh tù đầy với ước vọng mang trong
thâm tâm là muốn thấy đất nước có độc lập và tự do dân chủ thật sự.
Nhưng thật là bi thảm, tất cả những hy sinh to lớn này chỉ dẫn tới sự áp
bức ngày càng nghẹt thở và mối đe dọa từ phương Bắc ngày một nghiêm
trong, đe doạ sự tồn vong của dân tộc. Trong nước, đủ mọi thành phần xã
hội đã công khai, ôn hòa tỏ bày sự bất tín nhiệm tập đoàn đương quyền và
đưa ra yêu sách nhân quyền, dân quyền phải được tôn trọng. Sự đáp ứng
của Nhà nước cộng sản là leo thang đàn áp bằng công an, tòa án, nhà tù,
hết đợt này đến đợt khác. Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay người dân
phải sống dưới chế độ công an trị, công an quyền là pháp quyền, một hình
thức “luật rừng kiểu mới”. Ờ ngoài nước, Đảng cộng sản cầm quyền nhờ
chỗ dựa ngoại giao Hoa Kỳ, đã công khai mở rộng địa bàn cai tri từ trong
nước ra môi trường sinh hoạt của người Việt tị nan ở hải ngoại, diễn
lại cảnh tượng xâm nhập ào ạt từ Bắc vào Nam. Môi trường chống cộng ở
hải ngoại của những thập niên 1980, 1990 đang phô bày những chỉ dấu của
một tình trạng biến chất. Thật vậy sự pha trộn chất nhân xã
(sociologique) với sự gia tăng mau lẹ về số lượng của lớp người từ trong
nước – những yếu tố dị chất (hétérogènes) – ra sinh sống ở hải ngoại đã
khiến cho môi trường chống cộng này mất đi sự thuần chất (homogénéité)
ban đầu. Người ta tự hỏi không biết tới một lúc nào đó, cái khung chống
cộng còn đủ sức chứa đựng một nội dung nhân xã ngày càng ít tính chất
cống cộng nữa hay không ?
Cả
năm sự kiện kể trên được coi như có tính lịch sử bởi vì đã trực tiếp
ảnh hưởng tới số phận của dân tộc Việt Nam. Đứng riêng biệt, sự kiện nào
cũng đã có những tác động nhất định ảnh hưởng tới cuộc sống chung của
cả nước. Tổng hợp lại những tác động riêng của năm sự kiện ấy, người ta
sẽ thấy thấp thoáng một sự thật đã hiện hình nhưng chưa định hình về mặt
kịch sử vì điều này phụ thuộc vào sự tác động mạnh hay yếu của mỗi sự
kiện đứng riêng. Có thể lấy tiền lệ trong quá khứ để dự đoán cho tương
lai. Năm 1954, gần một triệu người đã rời bỏ miền Bắc di cư vào miền
Nam. Vì có sự vượt trội của tác động dân chủ, một cơ cấu dân chủ sơ lập
đã ra đời ở miền Nam. Nam 1975 giao lưu đủ mặt, chính trị, kinh tế, văn
hoá v.v…giữa hai miền Bắc Nam truớc đây chia đôi và ngăn cách nay hợp
nhất và thông lưu, dưới ảnh hưởng độc tôn của độc tài đảng tri. Một
trung tâm quyền lực bất hợp pháp, phản dân chủ, nắm trọn quyền sinh
quyền sát trong tay, đã đẻ ra một quái thai xã hội phi nhân quyền, với
qui mô cả nước. Sau biến cố miền Nam năm 1975 -bị cưỡng chiếm hàng triệu
người, khởi đầu rất đồng chất- dứt khoát không chấp nhận cộng sản – ra
sinh sống lập nghiệp ở hai ngoai. Do đó, chúng ta như đã có một miền Nam
tái sinh ở hải ngoại.
Năm
2010, khối ngườiViệt ở hải ngoại, với số lượng hàng triệu, không còn
nguyên chất như trước vì đã trải qua một quá trình trộn lẫn các thành tố
nhân xã dị chất, tất không thể không biến dạng. Cái gì sẽ xảy ra cho
đất nước ? Như 1954 dưới ảnh hưởng của tác động dân chủ ? Hay như 1975,
theo chiều hướng của đường lối cộng sản độc tài đảng trị “xâm nhập để
bành trướng” tóm lược trong Nghị Quyết 36?
Nếu
dám và biết nhìn thẳng vào tình thế rất đáng lo ngại của đất nước hiện
nay -căn cứ vào thực tế chứ không phải vào những mơ ước viển vông hay
vào những lập luận sai lầm và vô trách nhiệm- thì sẽ nắm bắt được một sự
thật lịch sử về Dân Chủ ở Việt Nam biểu hiện qua 4 thành tố dưới đây:
1- Dân chủ đã được nhân dân chính thức lựa chọn rồi nhưng đã bị độc tài đảng trị phản bội và tiêu diệt.
2-
Đối đầu với độc tài đảng trị, phe quốc gia không đủ bản lĩnh loại trừ
độc tài nên độc tài đảng trị đã ngang nhiên giương lên ngọn cờ dân chủ
gỉa mạo, sang đoạt chủ quyền quốc gia.
3-
Trong khi Trung Quốc công khai can thiệp vào nội trị Việt Nam để bành
trường thế lực bá quyền vùng và tranh giành ảnh thì hưởng siêu cường
quốc tế, thông qua tay sai bản địa là bộ máy cầm quyền cộng sản Việt
Nam, Còn Hoa Kỳ ngoài mặt cổ võ tự cho do dân chủ nhưng bên trong tích
cực làm chỗ dựa cho độc tài đảng trị với một dụng đích không xác định.
4-
Kết luận người Việt Nam phải rút ra là chấm dứt độc tài đảng trị để xây
dựng dân chủ tại Việt Nam là trách nhiệm của chính những người dân chủ
Việt Nam. Trông đợi vào sự tự nguyện hoàn lương của độc tài đảng trị là
một ảo vọng. Trông chờ cứu tinh ngoại quốc để dẹp độc tài mở đường cho
dân chủ là cầu may một cách không có cơ sở để tới đích nếu không nói là
đã tự dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy cạm bẫy. Người Việt Nam phải
tự cứu và muốn cứu được nước Việt Nam ra khỏi cơn hiểm nghèo bị nô lệ
hóa hay không chừng bị diệt vong trước dã tâm đồng hóa dài hạn của kẻ
thù truyền kiếp phương Bắc, không thể có phương cách nào khác ngoài dân
chủ đích thực.
II. Nền dân chủ nào cho Việt Nam trong tương lai?
1.- Dân chủ là gi?
Việc
tìm ra định nghĩa cho từ ngữ dân chủ đã sản sinh ra nhiều công trình
xây dựng lý thưyết. Mặc dầu vậy, dân chủ vẫn còn la một trong những từ
ngữ khó định nghĩa một cách đầy đủ. Vì người ta khám phá ra rằng đã có
không ít những định nghĩa không có khả năng định nghĩa. Hay nói cho
chính xác hơn, định nghĩa để rồi cho phép hiểu theo nhiều cách khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Theo
Giovanni Sartori, giáo sư chính trị học, Viện trưởng Viện Chính trị học
tại Đại học Florence đồng thời cũng từng giảng dạy tại Đại học Harvard,
phải dựa vào kinh nghiệm lịch sử để tìm hiểu dân chủ là gì. Và ông phân
biệt hai loại định nghĩa về dân chủ. Một loại đưa ra những ngữ nghĩa
nhằm miêu tả dân chủ. Đó là loại định nghĩa miêu tả (définitions
descriptives). Loại thứ hai là định nghĩa qui chuẩn (définition
normative) để chỉ vẽ cách phải thực hiện ra sao dân chủ.
Ta
lấy một thí dụ về dân chủ do một nhân vật chính tri hàng đầu người Mỹ
đề ra. Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln ngày 19-11-1863 khi đến thăm mặt
trận tại Gettysburg đã tuyên bố rằng dân chủ là “Chính phủ của Dân, do Dân, vì Dân”.
Định nghĩa này người dân Mỹ hiểu dễ dàng và giống nhau. Đó là chính phủ
do dân lập ra, bẳng bầu cử tự do và để phục vụ dân. Nhưng khi được nhập
cảng vào Việt Nam, định nghĩa này cho phép hiểu cách khác, trái ngược
hẳn với ý kiến của Abraham Lincoln.
Nơi
điều 2 và điều 3 của Hiến pháp cộng sản năm 1992, được sửa đổi và bổ
sung năm 2001, của CHXHCNVN,người ta đọc thấy (trích dẫn):
Điều 2: “Nhà
nước CHXHCNVN là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức…” .
Điều 3: “Nhà
nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh…”. Lối nói lòng vòng của hai điều khoản này không phải để
miêu tả “dân chủ là gì” mà là để đưa ra những qui chuẩn (normes) phải
tôn trọng để được kể là “dân chủ” trên từ ngữ, nhưng trong nội dung thì
lại để biểu đạt một chế độ độc tài đảng trị. Do đó người ta không thể
chỉ hoàn toàn trông cậy vào những “định nghĩa” để coi xem một chế độ có
đích thực dân chủ hay không. Muốn vậy, phải tìm những từ ngữ thích hợp
để đề ra những tiêu chuẩn chính trị và pháp lý cơ bản của dân chủ, mà
nếu vắng thiếu không thể gọi là dân chủ được.
Trong
chiều hướng đó, muốn được kể là dân chủ -trường hợp mô hình “dân chủ tự
do” (démocratie libérale) phương Tây- phải hội đủ ba tiêu chuẩn. Trước
hết, mô hình đó phải thể hiện “nguyên tắc dân chủ”, nghĩa là
nguồn gốc của mọi quyền lực (pouvoir), nền tảng của mọi quyền uy
(autorité) đều xuất phát từ toàn thể quốc dân. Có được vậy thì quyền lực
mà Nhà nước hành sử mới có tính chính thống (légitimité), những biện
pháp cưỡng hành (contraintes) mới được phép áp dụng vì dân đã tự nguyện
thuận nhận. Mặt khác, chính phủ là một cơ cấu đại nghị, nghĩa
là thay mặt cho quốc dân không có trách nhiệm trực tiếp cầm quyền. Trách
nhiệm là của những người “đại diện được bầu” của dân, nhân danh dân mà
lấy những quyết định quản trị đời sống chung của xã hội. Nhưng suốt cả
thế kỷ trước, quyền phổ thông đầu phiếu được mở rộng từng bước và cho
đến thập niên 1970 thì đã gần như thành một quyền phổ quát, tạo điều
kiện cho dân chúng có nhiều cơ hội và hình thức trực tiếp tham dự việc
quản trị xã hội. Sau cùng, với sự ra đời của các chính đảng, diện mạo
mới của các chế độ dân chủ đích thực là những cuộc tranh cử tự do, bình đẳng và đa nguyên,
được tổ chức theo thủ tục luật định và dưới sự bảo vệ của pháp luật.
Diện mạo mới này đang mang trong nó những biến chuyển tự tân và một loại
dân chủ tân tạo đang trong vòng thai nghén.
2.- Một mô hình dân chủ tân tạo cho Việt Nam trong tương lai
Nhân
dân Việt Nam đã chính thức lựa chọn chính thể dân chủ từ năm 1945.
Nhưng cách thức thiết lập chế độ dân chủ thì đã thay đổi tùy thời thế.
Năm 1946, dân chủ là một cuộc sống chung bị ép buộc với độc tài. Năm
1956 đất nước chia đôi, dân chủ đã được dành riêng một lãnh thổ bất khả
xâm phạm dưới sự giám sát của quốc tế, cách biệt với lãnh thổ của độc
tài. Năm 2010, dân chủ chưa hiện hữu thực sự ở ngoài xã hội mà chỉ mới
manh nha trong tư duy. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là mô hình dân
chủ tân tạo cho Việt Nam là một sản phẩm siêu thực của trí tưởng tượng,
không cần biết gì đến thực tế. Mà nó phải được thai nghén trong một số
khung đồng tâm địa dư, pháp lý, chính trị, văn hóa, xã hội. Việt Nam vào
thời điểm năm chót của thập niên đàu tiên của thiên niên kỷ thứ ba, đã
đổi khác từ hình thể đến nhân xã. Nước Việt Nam cổ truyền từ Ải Nam Quan
đến Mũi Cà Mâu nay đã trở thành một không gian mới chưa được quốc tế
công pháp cũng như luật quốc gia khái niệm hóa cũnh như chưa được chính
ngưiời Việt Nam ý thức cụ thể. Nhưg điều này sẽ đến cùng với thời gian.
Tư duy phải giữ vai trò tiên phong phác thảo ra một hình thái xã hội
Việt Nam mới, một môi trường có đất sống và quyền sống hòa bình cho mỗi
người trong sự tự nguyện tuân thủ luật pháp.
Môi
trường mới này chính là nền dân chủ tân tạo sẽ phải thiết lập để cuộc
sống chung trong xã hội được điều hợp. Nó sẽ có hai đặc tính, “dân chủ hậu-toàn-trị” và “dân chủ tân tạo của thế kỷ 21”.
Hậu-toàn-trị
có hai ý nghĩa. Nền dân chủ mới phải xóa sạch được các dấu vết của chế
độ toàn trị đầy tội ác về nhân quyền và dân quyền. Hậu-toàn-trị để mở ra
một kỷ nguyên mới đánh dấu bằng sự loại trừ được hệ thống cầm quyền
toàn trị, từ hình thức toàn thịnh những năm 1980 đến hình thức tàn dư
hiện nay. Hậu-toàn-trị còn để thay thế đấu tranh giai cấp chia rẽ dân
tộc bằng hợp tác giai cấp, củng cố dân tộc.
Dân chủ tân tạo của thế kỷ 21.
Người ta hay nói dân tộc Việt Nam có truyền thống dân chủ. Sự thật
không hoàn toàn đúng vậy vì cho đến giữa thế kỷ XX, Việt Nam vẫn là một
nước quân chủ. Tuy nhiên Việt Nam có một vài đặc điểm của những nước dân
chủ (xã thôn tự trị, tinh thần dân vi quí) chứ không phải đã sinh hoạt
như một chế độ dân chủ. Sau năm 1945, đảng cộng sản lên cầm quyền dưới
danh nghĩa dân chủ nhưng lại để đi theo đường lối độc tài đảng trị. Còn ở
miền Nam, dân chủ có được thiết lập trong khuôn khổ hai nền cộng hòa,
nhưng vì chiến tranh, đã phải chịu một số hạn chế. Như vậy chỉ riêng
miền Nam là có được chút ít kinh nghiệm về dân chủ kiểu phương Tây. Nói
cách khác, di sản dân chủ của Việt Nam -dân chủ giả mạo ở miền Bắc và
dân chủ hạn chế ở miền Nam- hãy còn rất thanh bạch. Muốn dùng di sản ấy
mở đường cho nền dân chủ sẽ thiết lập cho một nước Việt Nam trong tương
lai, không thể không bổ sung về cả hai mặt lý thuyết và cơ chế.
Về
mặt lý thuyết, nền dân chủ ấy sẽ dựa trên nền tảng là mô hình dân chủ
phương Tây mà hai cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ và ở Pháp đã sáng chế ra
cuối thế kỷ thứ XVIII. Mô hình này nhằm thể hiện trong xã hội một số giá
trị của một chủ nghĩa nhân bản dành cho sự tự do của con người chỗ đứng
ở trung tâm chứ không ở ngoại vi cuộc sống. Và những giá trị ấy đã được
dùng làm những nguyên tắc luân lý chi phối quan hệ giữa người với người
và làm lý tưởng cho cuộc sống trong xã hội. Đó chính là thực chất của
một thứ văn hóa kết tinh trong một Nhà nước pháp trị. Trong Nhà nước
này, đi song song với tự do còn có sự tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của
con người như một thể sống đặc thù, được công nhận và bảo đảm. Ai cũng
bình đẳng trước pháp luật và có quyền được khác biệt, tổng hợp thành một
sự hòa hài chính-trị-kinh-tế-pháp-lý trong nhà nước kiểu mẫu của dân
chủ tự do phương Tây.
Về
mặt cơ chế mô hình dân chủ tự do được khai sinh từ cuối thế kỷ thứ
XVIII, nay đã trở thành cổ điển, tự bản thân nó đang có những vận động
tân tạo (réflexivité) để tu chỉnh cho hai hư cấu (fictions) mà nó đã
dùng làm nền móng để triển khai trong lịch sử hơn hai thế kỷ của cái gọi
là dân chủ. Hư cấu thứ nhất là sự đồng hoá tự nhiên và máy móc, thông
qua những cuộc bầu cử dân chủ, “đa số” với “toàn thể”. Hư cấu thứ hai là
“quyết định của đa số” đương nhiên là “quyết định của toàn thể”. Sự
thực chẳng có gì chứng minh được rằng đa số là toàn thể và quyết định
của đa số là quyết định của toàn thể. Người ta đã giao ước với nhau như
vậy mà thôi rồi cứ theo sự giao ước không chứng minh ấy mà thực hiện dân
chủ.
Ngày
nay, nhờ có được những phát minh của khoa học trong hiện tượng được gọi
tên là bùng nổ thông tin, người ta đã tìm thấy cách thực hiện được cái
“toàn thể” mà không cần phải dùng đến hư cấu. Người ta không coi cái
“toàn thể” do “đa số” tạo nên mỗi khi có bầu cử là có thật. Mà người ta
phân tích “đa số” ấy thành ra nhiều “thiểu số” rồi giúp cho những ‘thiểu
số” ấy có điều kiện để biểu lộ nguyện vọng, quyền lợi đặc thù của mình
rồi phối hợp lại với nhau thành cái mà trước đây cho là toàn thể. Tức là
tổng số những thiểu số sẽ họp thành cái “toàn thể”. Và dân chủ tân tạo
trong tương lai sẽ là loại dân chủ kiểu mới, “dân chủ của thiểu số” và
là dạng thức trung thành của đa nguyên. Rõ ràng là tính dân chủ của cơ
chế mới này đã tăng trưởng một cách đáng kể và đã đánh dấu một bước phát
triển mới của dân chủ vào thời điểm thế kỷ 21.
Người
ta có thể khẳng định ngay từ bây giờ rằng nếu nền dân chủ tân tạo còn
đang được thai nghén này được thiết lập thì nó đích thực sẽ là một nền
dân chủ hậu-toàn-trị. Nó sẽ không cho toàn trị còn đất sống khi mà toàn
trị không còn trò chơi hư cấu ngụy tạo ra những thứ “toàn thể” ảo, tới
mức 98%, 99% v.v…để tiếp diễn tội ác lường gạt và sang đoạt chủ quyền
quốc gia, nhân quyền của mỗi người dân, năm này qua năm khác.
Nhưng
muốn tới được chân trời tươi sáng ấy, trước hết phải thanh toán bộ máy
cầm quyền độc tài đương quyền mà nọc độc đang hãm hại cả khối nhân dân
gần 90 triệu người.
LS. Trần Thanh Hiệp
Bao Tran says:
Tư duy không thích sự đa diện chính là mầm mống phát sinh tư tưởng
muốn xây dựng xã hội đồng chất. Tư tưởng xây dựng xã hội đồng chất chính
là cái đã đẻ ra phát- xít Đức cũng như CNCS mà cao trào là tệ diệt
chủng và đấu tranh tiêu diệt giai cấp khác với mình nhằm xây dựng một xã
hội đồng chất. Tư tưởng dân chủ thật sự là luôn luôn tìm cách để các hệ
tư tưởng dị biệt có thể cùng tồn tại. Đó chính là xã hội phi đồng chất,
xã hội đa diện. Làm sao chung sống hòa bình không có giá trị ưu tiên
tồn tại và phát triển với kẻ đối lập, kẻ khác mình thậm chí kẻ chống
mình một cách phi bạo lực chính là thử thách cho một nhà hoạt động dân
chủ thật. Tìm cách để kẻ chống mình bằng bạo lực từ bỏ bạo lực để cùng
tồn tại là tài năng và lương tri dân chủ.Chống Cộng – sát cộng và tìm ra giải pháp dân chủ cho VN cái nào mới là mục đích đấu tranh của các nhà hoạt động dân chủ? Không có ai trong chúng ta đây không phải là nạn nhân của chủ nghĩa phân loại giá trị con người , giá trị xã hội theo thứ tự ưu tiên tồn tại gọi là CS. Nhưng dù đúng hay sai thì CS là một thực tế. Tại VN hiện nay tổng số thành viên, cảm tình viên và thân nhân CS không ít hơn 10 triệu sinh linh mang cùng dòng máu với chúng ta. Việc lọc hết 10 triệu con người đó để xây dựng một VN phi CS đồng chất là không khả thi , trái tinh thần dân chủ, và phi nhân bản. Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bao….. mới là tinh thần nhân bản truyền thống VN đích thực. Chính người Mỹ cũng nhận ra vấn đề nên luôn đặt ưu tiên cho dân chủ hóa VN chứ không phải sát cộng để báo thù cho dù lắm chính trị gia Mỹ trong đáy tim họ thù VC ngút trời mây nhưng kẻ làm chính sự không thể chiều theo cảm xúc mà phải tuân lệnh lợi ích của toàn dân. Nếu không thể sát 10 triệu con người kia thì cách duy nhất là áp lực buộc họ thay đổi tư tưởng, vì tự cứu mình họ phải làm tu chính học thuyết của họ từ bỏ dùng bạo lực và chấp thuận một xã hội đa diện phi đồng chất. Con đường này từng được tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nói một cách gián tiếp “Tuy nhiên trong một chế độ dân chủ ai mà nói đảng cầm quyền rời bỏ vị trí đang nắm giữ là tự sát ắt bị trẻ nó cười vào lỗ mũi.” Họ sợ chết thì càng bám vào quyền lực, hãy chứng minh cho họ thấy lợi ích lớn lao cho cả họ, gia đình họ và cho cả dân tộc về lâu dài khi họ tu chính tư tưởng và hiến pháp như Anh Cù yêu cầu. Làm được điều đó tất cả mọi người đều có lợi kể cả Mỹ. Còn chúng ta? Đa số đã ổn định cuộc sống ở nước ngoài, đã có vợ hiền con ngoan sự nghiệp vững chắc nên có hay không lợi ích cho mình từ VN cũng không quan trọng. Nếu chúng ta không tử vì đạo nhưng chỉ muốn phục hận thì con đường dân chủ của dân tộc thật là vô vọng. Chúng ta thì không sao nhưng còn anh em bà con bạn bè đồng đội của chúng ta thì sao? Nếu các Tông Đồ không hy sinh để minh chứng cho tình yêu nhân loại của Thượng Đế thì vĩnh viễn không có Ki- tô giáo đè bẹp cường quyền La Mã. Nếu các chí sĩ VNCH không hy sinh cá nhân để minh chứng cho niềm tin vào một xã hội dân chủ tốt đẹp thì tương lai dân tộc thật là mờ mịt khói sương.