Tâm Hiền Tôn Thất Chiểu
1/2008
( Chữ Clone có
nghĩa là thực vật hay sinh vật được sinh sản sinh vô tính từ một thế hệ
trước nó, có thể được gọi là một bản sao của nhiểm sắc thể kiểm soát sự
di truyền( genetic replicas). Như vậy clone một con bò là dùng gene của
nó để tạo ra những bản sao y hệt nó. Vì quá mới mẻ nên tiếng Việt chưa
có sự đồng nhất trong cách dịch. Tôi dùng cách dịch của Từ điển Anh-Việt
của Viện ngôn ngữ học Việt Nam là “Dòng sinh vô tính”. Vì hơi dài nên
xin mạn phép độc giả thỉnh thoảng tôi để nguyên chữ Clone trong bài viết
này)
Một tế bào da
bỗng nhiên biến thành một tế bào gốc (Stem Cell) có khả năng sinh ra tất
cả tế bào thuộc các cơ quan khác nhau trong cơ thể sinh vật . Thí
nghiệm này đã gây ra không biết bao nhiêu hy vọng trong việc chữa trị
các bệnh hiếm mà y khoa từ trước tới nay vẫn còn bó tay. Từ nhãn quan
tôn giáo, nhất là các độc thần giáo, một số Giáo hội đã mãnh liệt chống
lại việc “cloning” con người sau khi khoa học đã thành công trong việc
cloning loài vật cách đây hơn cả thập niên; và họ đã kịch liệt chống đối
mọi nghiên cứu lấy tế bào gốc từ phôi (Embryonic Stem cells.). Tôi chưa
có duyên và thì giờ để tìm xem đã có chức sắc nào của Phật giáo trong,
ngoài nước hay trên thế giới bàn luận hay nghiên cứu, chống đối hay ủng
hộ Dòng sinh vô tính, nên đưa bài mạn đàm lên báo để mong có sự chỉ giáo
thêm của các Thầy, Phật tử về quan điểm của Phật giáo ra sao về một nền
công nghệ sinh học đã và đang làm thay đổi lớn lao nếp sống của nhân
loại trong một tương lai không tiên đoán được.
A.DIỄN BIẾN TIẾN TRÌNH CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ CLONING :
Nếu định nghĩa
công nghệ sinh học (biotechnology) là “ sự biến thể của sinh vật để tạo
ra sản phẩm hữu ích” thì khoảng 10 ngàn năm trước con người đã biết lai
giống sinh vật để tạo ra không biết bao nhiêu loại mới của thực vật và
động vật theo như ý muốn của mình. Ví dụ con La (Mule) là lai giống giữa
con lừa đực và con ngựa cái. Lai giống cây ( hybrids) đã đem lại nhiều
lợi ích về thực phẩm mà cuộc cách mạng xanh vào các thập niên 1960 và
1970 là một thí dụ điển hình. Với tiến bộ của khoa học, ngày nay cách
định nghĩa biotechnology hơi khác hơn một chút : “ công nghệ sinh học là
cách thay đổi tế bào hay phân tử DNA bàng phương pháp cắt mỏng và sao
chép để cung cấp sản phẩm và các chất chế biến” (the alteration of cells
or DNA molecules by means of slicing and cloning techniques to provide
useful products or processes). Phương pháp sinh học mới này đã có thể
làm thay đổi nhiễm thể, tách các tín hiệu DNA đặc biệt (DNA codes), cài
chúng vào các chủng loại nhiễm thể (genome) của bất cứ sinh vật nào;
hoặc có thể trộn lẫn DNA của các chủng loại hoàn toàn khác nhau như vi
trùng với cá, người với heo, đom đóm với cây thuốc lá .
1/ Ghép DNA (Recombinant DNA): Khởi thùy là do quan sát tế bào qua kính hiển vi trong năm 1600 (Robert Hooke).
Tiếp đến trong
thế kỷ 19, Gregor Mendel tìm ra định luật về di truyền, giải thích dựa
trên thống kê bằng cách nào các nét chính được truyền từ thế hệ này qua
thế hệ tiếp theo. Nhưng phải chờ đến thâp niên 1950, 1960 với việc tìm
ra chuổi DNA của Watson và Crick cùng với sự phát hiện các tín hiệu di
truyền của Har Gobind Khorana và Marshall Nirenberg, mới có được cuộc
bùng nổ của công nghệ sinh học. Năm 1968, hai khoa học gia Thụy điển
(T.O Caspersson và Lore Zech) phát minh ra cách nhuộm nhiễm thể dẫn đến
việc vẽ ra bản đồ nhiễm thể của từng chủng loại. Năm 1973 Stanley Cohen
và Herbert Boyer của Ðại học California có thể dùng hóa chất để cô lập
một đoạn DNA của hai chủng loại khác nhau, kết hớp chúng lại vói nhau,
rồi cài chúng vào một tế bào chủ. Cũng giống như khi ta viết bài trên
máy tính ta dùng “word-processing” để cắt từng đoạn văn rồi cài các đoạn
văn đó vào bất cứ chương nào mà ta muốn. Kỹ thuật được gọi là “Gene
Splicing” hay là “Recombinant DNA”này đã trở thành cơ bản cho kỹ thuật
“thiết kế nhiễm thể” (genetic engineering) trong cuộc cách mạng công
nghệ sinh học trong thế kỷ này. Với kỹ thuật này thêm nhiều công đoạn
cần thiết ta có thể biến nhiễm thể của các vi trùng, bắt chúng phải tạo
ra các sản phẩm thuốc men như chất insulin trong việc điều trị bệnh tiểu
đường. Ngay cả ta có thể bắt chúng làm ra vải quần “jean”, ví dụ như
trùng “E.Coli” có thể biến đường glucose thành ra thuốc nhuộm áo quần,
tránh được những giai đoạn chế tạo độc hại cho môi trường khi phải tạo
chất nhuộm từ hắc ín (coal-tar) của thế kỷ trước. Không những chất nhuộm
mà cả sợi bông vải cũng được chế tạo bởi vi trùng qua các giai đoạn
tương tự.
2/ Sinh vật hoán chủng (Transgenic organisms):
Vi trùng là tế bào không có nhân, DNA bơi lội trong tế bào chất
(cytoplasm), vì thế rất dễ thiết kế tiến trình DNA splicing. Các sinh
vật cao hơn có nhân (nucleus), nên rất khó đưa các nhiễm thể mới vào bên
trong nhân để điều khiển chúng theo ý muốn. Năm 1983, Ralph Brinster
của Ðại học Thú y Pensylvania đã thành công trong viện cài nhiễm thể
kích thích tố tăng trưởng (growth hormone genes) vào phôi của chuột
(embryos) tạo ra những chú chuột con khổng lồ gấp hai lân chuột thường.
Người ta gọi các chú chuột con này là loại hoán chủng ( transgenic
offsprings). Áp dụng công nghệ này các khoa học gia lần lượt tạo ra loại
cừu sinh ra chất human alpha1-antitrypsin trong sữa ngừa được bệnh khí
thủng ở phổi (emphysema), các loại heo sinh ra chất thay cho
“hemoglobin”, chuột sinh ra kích thích tố tăng trưởng (growth hormone),
bò sinh ra “lactoferrin” có thể cho vào sữa để trẻ con dễ ngừa nhiễm
trùng v..v..Tương tự như thế các loại cây hoán chủng (transgenic plants)
cũng được điều khiển (programmed) để tạo ra hóa chất, thuốc men hoặc là
các cây cỏ có mang tính chất đặc biệt như cây bông có thể chống các hóa
chất diệt cỏ, cà chua có tính chất chậm chín, bắp lớn lên trong môi
trường có hóa chất diệt cỏ dại, khoai tây tự chống sâu bọ, đu đủ tự
chống siêu vi v..v..
3/ Dòng sinh vô tính (Cloning): Cloning
không phải là chuyện lạ trong thiên nhiên, tiến trình phân bào ( một
sinh ra nhiều tế bào giống hệt nhau) là một thí dụ. Ðẻ sinh đôi là một
cách cloning của thiên nhiên. Nhưng cloning nhân tạo là một tiến trình
cực kỳ khó khăn. Làm thế nào đề đưa DNA ngoại lai vào các tế bào của
sinh vật đa bào khó khăn hơn nhiều so với loài đơn bào như vi trùng. Ðể
xuyên qua được màng tế bào, người ta dùng 3 cách:
a/ Dùng liposomes, môt loại bong bóng mỡ có mang DNA, hấp thụ vào màng tế bào
b/ electroporation, một dòng điện tạm thời gây ra một lổ hổng của màng tế bào để cài DNA ngoại lai vào.
c/
dùng một loại súng bắn các sợi tugsten li ti có mang DNA xuyên qua màng
tế bào (particles bombardment).
Vào khoảng năm
1938, khoa hoc gia đã nghĩ ra cách lấy nhân của tế bào trứng (egg cell)
ra khỏi trứng rồi cài vào một nhân khác, sau đó đưa vào bà mẹ thay thế
(surrogate mother). Nhưng phải đợi đến thập niên 1970, các con cóc đầu
tiên mới ra đời bằng cách cloning này. Do sự khác nhau về thời điểm của
tiến trình phân biệt (differentiation) mô phôi của nhiều chủng loại,
phải đợi đến năm 1996, toán khoa học gia Scotland mới clone được con cừu
đầu tiên đặt tên là Dolly, với tỉ số thất bại khá cao, 1 con trên 277
lần ghép nhân tế bào trưởng thành với tế bào trứng. Tuy vậy, nàng Dolly
đã chiếm trang nhất của các tờ báo lớn của thế giới; sự chấn động của
tin này là tất nhiên, bởi vì sự thành công sinh ra bằng vô tính của cừu
có nghĩa rằng từ đây việc sinh sản vô tính của con người là diễn biến
tất yếu tiếp theo với tất cả hệ lụy về đạo đức, kinh tế, môi trường..
cùng những biến thiên có thể ngoài dự tính của trí tuệ nhân loại.
Cloning do vậy gây ra tranh cãi gay go về đạo đức và đương nhiên là về
chính trị. Kẻ ủng họâ cho rằng nên cloning để cung cấp mô và cơ quan
chữa trị bệnh hiếm có, kẻ kịch liệt chông đối cho răng cloning sẽ vượt
quyền Ðấng sáng tạo và sợ rằng nhân loại sẽ phải gặp nhiều Hitler ra đời
bằng cloning. Ngoài ra trong suốt thập niên vừa qua, song song với việc
chống phá thai, phe chống Cloning lý luận rằng dù là phôi (embryos) chỉ
mới có 8 tế bào chăng nữa cũng phải được xem là một bào thai đang dần
dần trở thành đứa bé, do vậy dùng phôi đó để tạo ra các cơ quan cũng là
một cách phá thai, do vậy kỹ thuật dùng phôi hay tế bào phôi (embryonic
cells) vào việc tạo ra cơ quan phải được cấm ngặt. Bao lâu ta phải cần
đến trứng của phụ nữ hay tế bào phôi để tạo ra tế bào gốc (stem cells)
thì bấy lâu các nhà nghiên cứu còn gặp phải sự chống đối khắc nghiệt của
nhóm quan niệm đạo đức theo phe bảo thủ này.
Nước Mỹ, dưới
lãnh đạo của Tổng thống Bush, chấp nhận quan điểm của phe này, nên tiến
trình nghiên cứu thêm về Cloning bị khựng lại trong nhiều năm qua.
4/
Những bước phát triển gần đây đã tránh được hàng rào của phe bảo thủ bởi
vì khoa học đã tìm cách tạo ra tế bào gốc mà không cần đến tế bào trứng
hay phôi. Với bước thành công này, người ta chỉ dùng một tế bào da
thông thường để biến nó thành tế bào gốc có thể có khả năng sinh sản bất
cứ các mô hay cơ quan nào trong cơ thể. Kỹ thuật mới này đã được báo
cáo trên báo Sciences and Cell 11/20/07 bởi 2 nhóm khoa học gia thuộc
Ðại học Wisconsin at Madison, ( James Thompson và Junying Yu) và Ðại học
Kyoto (Shinya Yamanaka). Họ khám phá ra rằng chỉ cần 4 genes cơ bản
trong tế bào da, cài chúng vào 4 loại retrovirus đã được thay đổi để
mang theo những loại genes khác nhau, các virus này sẽ hòa nhập DNA của
chúng vào tế bào da, sau đó 4 genes cơ bản sẽ kích thích một tiến trình
đóng mở (on and off) nhịp nhàng trên vô số genes khác, dần dần sẽ biến
tế bào da thông thường thành một loại tế bào gốc đa năng, nghĩa là có
thể sinh ra bất cứ mô và cơ quan nào như ý muốn. Yamanaka đặt tên loại
tế bào gốc mới được hình thành này là “tế bào gốc đa năng”, iPS (
induced pluripotential stem). Yamanaka đã thành công tạo ra khoảng 10 tổ
hợp tế bào “iPS” (cell colonies) từ khoảng 50,000 tế bào da của chuột ;
và trong dĩa thí nghiệm Ông ta biến “iPS” sinh sôi nẫy nở thành tế bào
thần kinh, tế bào cơ tim đập nhịp trong ống nghiệm vàø rất nhiều các
loại tế bào khác. Ông cũng chứng minh rằng các loại tế bào được sinh ra
có cùng nhiễm thể với loại tế bào da, nghĩa là đem chúng ghép vào các cơ
quan trong cơ thể chuột đang thí nghiệm sẽ không bị phản ứng loại bỏ
(reject reaction). Vì không đủ kiên nhẫn để chờ nhiều tuần thay vì vài
ngày, ông không thành công trên tế bào da của người. May thay cùng thời
gian đó, James Thompson ở Mỹ đã chịu khó chờ đợi lâu hơn nên đã thành
công biến tế bào da của người thành tế bào “iPS” . Còn một trở ngại cần
vượt qua là loại retrovirus được dùng trong tiến trình sinh ra iPS có
thể kích thích tế bào mới sinh ra ung thư.
5/ Áp
dụng đầu tiên của iPS đã được thí nghiệm để chữa bệnh “Sickle Cell
Anemia” của chuột và đã được đăng báo trên báo Science (on line),
December 6/07) bởi khoa học gia Rudolf Jaenisch của Viện nghiên cứu
Whitehead Institute for Biomedical Research, Cambridge, Mass. Việc chữa
bệnh tiến hành như sau:
a/
dùng tế bào da của đuôi con chuột bị bệnh Sickle Cell Anemia ( bệnh do
hồng cầu méo bất thường) cấy trên dĩa thí nghiệm (Petri dish),
b/dùng retrovirus để biến chúng thành tế bào đa năng iPS như đã nói ở trên
c/cắt bỏ các genes gây ra bệnh Sickle Cell, thay vào đó những chuổi DNA bình thường (normal snippet of DNA)
d/tế
bào iPS mới được một loại virus khác biến thành tế bào tủy sống (bone
marrow cells), nghĩa là tế bào gốc đa năng iPS được biến thái thành tế
bào gốc tủy sống có khả năng sinh ra hồng cầu bình thường
e/Tế
bào gốc tủy sống được bơm vào con chuột bị bệnh. Chúng sẽ định cư ở tủy
sống của chuột và sinh ra các loại hồng cầu bình thường thay chỗ cho
các loại hồng cầu bị méo. Chuột lành bệnh mà không bị một phản ứng nào
khác, vì hồng cầu sinh ra có nhiểm thể y hệt tế bào da lấy ra từ da đuôi
của nó. Thí nghiệm cho thấy sau khi chữa trị như vậy, tủy sống chuột có
được 80% tế bào mới (chỉ cần 20% là có thể chữa lành bệnh ở người), và
sau 4 tháng không có bướu ung thư hình thành.
6/ Từ DNA tổng hợp đến tạo hình sinh vật mới: Khoảng
50 năm qua, khoa học đã có khả năng chế ra DNA trong ống nghiệm bằng
cách tổng hợp một số hóa chất cần thiết; tuy vậy cũng chỉ mới dùng một
số DNA cài vào cây thiên nhiên giúp chúng chống lại sâu bọ hoặc chịu
đựng hạn hán, ví dụ như trong công nghệ trồng bắp mới đây. Nay thì các
khoa học gia bang Maryland đang hạ quyết tâm tạo ra sinh vật mới (new
life forms) bằng toàn bộ DNA nhân tạo. DNA nhân tạo này có tín hiệu
hướng dẫn vi trùng sinh sản và hoạt động. Nhiễm thể nhân tạo có thể bắt
chước của thiên nhiên nhưng cũng có thể có tín hiệu riêng sinh ra các
sinh vật hoàn toàn mới từ trước đến giờ chưa có trong thiên nhiên. Ðã
đến lúc con người có thể có thể thảo chương về di truyền (genetic
program) trong máy tính như maestro viết những giòng nhạc rồi sau đó
dùng digital code để tạo ra DNA, cài DNA đó vào tế bào và điều khiến tín
hiệu để tế bào đó hoàn thành nhiệm vụ trao truyền như sinh ra hóa chất
độc tố hay dược phẩm Theo ý muốn. Khác với công nghệ sinh học thông
thường (Conventional biotechnology) mà khoa học gia chỉ cài một hay vài
genes vào tế bào để phục vụ một số nhu cầu kỷ nghệ, nền công nghệ sinh
học tổng hợp (synthetic biology) có khả năng cài một mảng DNA thật lớn
hay là toàn bộ nhiễm thể chế tạo trong phòng thí nghiệm , tạo nên các
tín hiệu di truyền vĩ đại để hình thành các bộ máy biến dưỡng (metabolic
machines) phục vụ cho những mục đích nhất định. J. Craig Venter, CEO
của công ty Synthetic Genomics ở Rockville, Maryland đã tạo ra được toàn
bộ nhiễm thể nhân tạo (artificial chromosome) dài nhất từ trước đến nay
và ông ta có ý định muốn tế bào như thế sinh sản ra ethanol, hydrogen..
và các chất xăng nhớt cho xe hơi. Nếu thành công, ông ta se làm chủ một
thị trường hằng tỉ dollars. Công ty BioServe ở Beltsville có ý định làm
và bán DNA nhân tạo cho các khoa học gia để họ tiến hành việc tạo ra
các sản phẩm công nghệ như thuốc men, xăng loại mới không cần đến dầu và
các hóa chất khác trong công nghệ vải vóc….. . Như vậy mặc dù còn một
số trở ngại về kỹ thuật, từ việc biến một tế bào da thành một tế bào gốc
đa năng mà không còn cần đến tế bào trứng hay tế bào phôi , việc chữa
các bệnh khó trị như Parkinson’s, …Lou Gerig’s.. bằng thiết kế genes sẽ
tiến hành rất nhanh trong vòng vài năm tới đây. Từ chuyện dùng toàn bộ
DNA tổng hợp tạo ra sinh vật mới, và từ việc sẽ bán thịt hay sữa bò bằng
dòng sinh vô tính thì chuyện Cloning con người về cơ bản chỉ còn là vấn
đề thời gian, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào sự ủng hộ hay chống đối
của đa số các lãnh tụ chính trị và tôn giáo của toàn thể nhân loại.
B. Những hệ lụy đạo đức và chính trị của Cloning:
1/ Phe chống đối : Từ
sự tin tưởng rất mãnh liệt rằng mọi việc do Trời định đến suy tư rằng
“xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều” , cho đến nay thì hai năm rõ
mười con người đã lấy bớt một ít quyền của Tạo hóa bằng cách tạo ra chút
ít DNA tổng hợp, clone một cô cừu rồi một số nàng bò, con người bỗng
đối diện một sự thật hết sức ngỡ ngàng rằng xã hội nhân loại sẽ đi về
đâu sau khi rời xa dần đấng Tạo hóa mà ta hằng thờ phượng, nương tựa,
cầu xin suốt đời. Cho nên đa số lý luận chống đối công nghệ sinh học bắt
nguồn từ luân lý đạo đúc tôn giáo.
a/lý do tôn giáo: Các
tôn giáo độc thần ( Cơ đốc, Do Thái, Hồi giáo ..) đều tin rằng thiết kế
di truyền (genetic engineering) là vi phạm chương trình Thượng đế dành
cho sinh vật. Cho nên ta hiểu tại sao từ nhiều thập niên vừa qua Vatican
quyết liệt chống đối công khai và có hệ thống việc phá thai, chống sản
phẩm tạo từ công nghệ sinh học, chống thử nghiệm dùng tế bào phôi và dĩ
nhiên là không bao giờ chấp nhận Cloning.
b/lý do khoa học: Những
nguy hại không tiên liệu được làm cho một số lớn khoa học gia chống đối
“các trò chơi nguy hiểm từ genes”. Một ví dụ cụ thể : do tin chắc rằng
con tàu Titanic không thể chìm được nên người ta quyết định giảm bớt số
áo phao câp cứu. Trong trường hợp công nghệ sinh học, một nhầm lẫn nhỏ
nhoi có thể tại hại cho nhiều thế hệ mai sau. Giáo sư Erwin Chargaff,
(Columbia University) thường được xem là cha già của ngành Sinh học phân
tử (Molecular biology), xem thiết kê genes như là một lò “molecular
Auschwitz”( lò hơi đốt thiêu người Do thái thời Ðức quốc xã ), có hại
cho nhân loại nhiều hơn là công nghệ nguyên tử. Ông cho rằng sinh vật
trong thiên nhiên biến đổi theo thời gian rất chậm, nay khoa học bỗng
đem một protein mới bỏ vào một sinh vật mới mà không có cách nào tiên
liệu chuyện gì sẽ xẩy ra thì quá nguy hiểm.
c/lý do môi sinh: Sự
phá hoại môi sinh do phát minh khoa học từ các thế kỷ trước thí ai cũng
đã biết; nay thì vấn đề thất thoát genes (escaping genes) đang làm nhức
đầu những ai đang quan tâm về môi trường do sự xâm nhập của các loại
giống cây mới vào các loài cây kế cận. Nghiên cứu của chính phủ Ðức cho
thấy loại cải dầu (để chế ra canola oil) được biến genes để chống loại
cỏ dại đã lan các genes mới này qua các loại cải ở cách đó vài trăm
thước. Nghiên cứu gia ở Pháp tìm ra việc các loại cải lai giống mới để
chống bệnh nấm có thể gây nguy hại cho các loài ong, làm chúng mất khả
năng ngửi mùi (khả năng này giúp chúng tìm ra thức ăn). Tiểu bang
Virginia gần đây bỗng thấy các loại ong mật biến mất rất nhanh mà không
tìm ra nguyên nhân. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy lượng ong giảm đi
30% ở các vùng thử nghiệm các giống cây bông (cotton) được tạo genes
nhân tạo mới. Không chỉ ong mà các loại sinh vật gây thụ phấn hoa
(pollinators) như ruồi, bướm, dơi, chim chóc đều bị ảnh hưởng. Vấn đề
này có ảnh hưởng dây chuyền de dọa đến nguồn thực phẩm của con người.
Khoa học gia David Letourneau trả lời trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi tin
rằng nhiên hậu thì genetic engineering còn tệ hại hơn cả nguyên tử hay
hóa chất. Chất phóng xạ (Radioactice elements) có bán thời gian hiện hữu
(half-life), hóa chất biến mất dần trong thiên nhiên, nhưng genes thì
truyền mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một lúc genes đã vào trong
môi sinh, không cách nào chận đứng hạy gọi chúng về (there is no
containing them or calling them back)
2/ Phe ủng hộ: Vì
lợi ích kinh tế và y tế trước mắt về những phát minh khoa học trong các
thế kỷ trước, dĩ nhiên là có rất nhiều người đang ủng hộ công nghệ sinh
học. Nếu không có các cuộc cách mạng xanh thì chắc gì 6 tỉ người trên
quả đất có đủ thức ăn.
a/
lý do về tự do khoa học: Còn nhớ Giordano Bruno bị Tòa án Dị giáo của
Giáo hội Thiên chúa La mã (Inquisition) thiêu sống năm 1600 vì cứ khăng
khăng nói rằng trái đất chạy vòng quanh mặt trời. Người ta không muốn
bất cứ một quyền lực nào có thể bắt khoa học phải hướng theo sự chỉ đạo
của họ như vậy.
b/lý
do về lợi ích xã hội: Cho đến lúc này thì không ai còn nghi ngờ gì nữa
rằng công nghệ sinh học sẽ dần dần chữa trị thành công các bệnh ung thư,
AIDs, mất trí nhớ (Alzheimer’s), và rất nhiều bệnh khác mà các thuốc
thông thường hiện nay chưa làm gì được. Ngoài ra, lợi ích kinh tế, tăng
cường thực phẩm.. cũng là một yếu tố rất lớn trong việc nghiên cứu và
phát triển thêm công nghhệ sinh học. Sau bao nhiêu chờ đợi và do dự, Cơ
quan kiểm soát Thuốc và Thực phẩm Hoa kỳ (FDA) cũng sắp chấp thuận cho
lưu hành chính thức thịt và sữa của bò từ Cloning. Tân tây lan và Úc đã
thông báo rằng thịt và sữa từ bò “cloned” là an toàn. Canda và Argentina
cũng sắp thông báo như thế. Cộng đồng Âu châu tuy còn rất ngại vê Công
nghệ sinh học, nhưng cơ quan về an toàn thực phẩm của E.U cũng sẽ ủng hộ
sự an toàn về thịt và sữa của bò “cloned”. Ðể làm an lòng phe chống đối
(Consumer Federation of America và Union of Concerned Scientists), mặc
dù FDA không bắt buộc dán nhãn, nhưng hai đại công ty sản xuất bò cloned
ViaGen và Trans Ova Genetics cũng tuyên bố rằng họ sẽ đăng ký và dán
nhãn hiệu thực phẩm từ súc vật cloned và tách riêng ra khỏi dây chuyền
sản xuất thịt thông thường. (Theo Washington Post, FDA to back food from
Cloned animals, ngày 5 tháng 1, 2008)
B. PHẬT GIÁO TRƯỚC CUỘC TRANH CÃI VỀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC:
1/ Chuyện không cần tranh cãi: Khác
với các tôn giáo độc thần, Phật giáo không nói đến một Ðấng Sáng tạo,
nên không có gì phải tranh luận với khoa học trong việc Cloning. Trong
Kinh Tạp A hàm Ðức Phật bảo Bà La môn :” Có nhân,có duyên thế gian tập
khởi; có nhân có duyên cho sự tập khởi của thế gian. Có nhân, có duyên,
thế gian diệt tận; có nhân có duyên cho sự diệt tận của thế gian” Như
vậy, tất cả đều do duyên mà sinh ra, trong chuỗi dài vô minh, hành, thức
v..v.. của 12 nhân duyên, ta thấy nhân duyên đó có thể là kết hợp của
âm, dương, kết hợp của giới tính hay là kết hợp vô tính; kết hợp cách
nào cũng là vòng sinh tử luân bất tận từ Vô minh cho đến Aùi, Thủ, Hữu
và rồi cũng là triền miên Sinh, Lão, Bệnh, Tử . Cho dù sinh vật và con
người sinh ra từ giới tính hay từ dòng vô tính của khoa học công nghệ
hiện nay thì cũng không thoát khỏi phiền não, trôi lăn theo luật vô
thường, vô ngã. Cho nên đối với Phật giáo, vấn đề không phải là ta phải
sinh ra bằng cách nào mà là làm sao ta thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Giả dụ trong vài thập niên hay thế kỷ sắp đến quả địa cầu chứa toàn
thực và động vật bằng Cloning và con người cũng sinh ra bằng dòng vô
tính thì Phật Giáo vẫn tiếp tục hiện hữu bằng ngần ấy lời rao giảng,
chẳng ra ngoài những chân lý muôn đời của tứ diệu đế, của bát chánh đạo,
của thập nhị nhân duyên v..v..
2/ Chuyện đương nhiên cần ủng hộ: Cốt
lũy của Phật giáo vẫn là từ bi; làm giảm bớt khổ đau của thân vật lý
hay tâm tâm lý đều là thể hiện lòng từ bi đích thực của đạo Phật; cho
nên việc tìm ra cách chữa trị bệnh tật mới bằng genes, cloning từ tế bào
gốc mà không dùng tới những thủ thuật có hại cho sinh linh (ngay cả
không dùng đến tế bào phôi đang trong tiến trình tượng hình thai nhi)
thì không việc gì Phật tử phải chống đối.
3/ Chuyện cần xét lại:
a/
Cứ mỗi lân có phát minh mới thì tất yếu là phải có người được đặc quyền
sáng chế (patent) cùng những quyền sở hữu và lợi nhuận đi theo với nó.
Chuyện đương nhiên này không có vấn đề gì khi sản phẩm là một bóng đèn,
chiếc xe hơi hay là một thảo chương máy vi tính. Với công nghệ sinh học
thì khác, sản phẩm là sinh vật hay là cốt tủy của sinh vật trong trường
hợp DNA. Liệu có gì trái đạo đức khi một người hay một công ty có quyền
sở hữu cả một số tế bào có DNA đặc biệt nào đó để buôn bán trong việc
trị bệnh; hay là sở hữu một hay cả một đàn bò có dòng genes đem lại lợi
nhuận cao ? Nay thì đã có công ty có đặc quyền với cả chủng loại genes
của người “human genome”. Công ty Sequana Therapeutics sở hữu loại gene
liên hệ đến bệnh suyễn lấy ra từ khoảng 300 cư dân một đảo nhỏ trên Ðại
tây dương; Myriad Genetic muốn sở hữu loại gene sinh ra ung thư vú di
truyền trong gia đình. Con người đã thoát ra khỏi sự tranh cãi về sở hữu
nô lệ của thế kỷ 19, nay ta phải đặt câu hỏi rằng có giới hạn sở hữu
nào chăng cho việc sở hữu, buôn bán một hay toàn phần của đời sống nhân
loại (life patent) ? Ðại công ty Monsanto nay đang chuyển hướng chú tâm
vào trang trại chế thực phẩm bằng công nghệ sinh học, cố giữ độc quyền
về cây, súc vật tạo ra bằng công nghệ sinh học. Giả dụ nay mai, khoa học
được phép và thành công trong việc “clone” con người; liệu có công ty
nào có đặc quyền sở hữu luôn cả giống người cloned đó chăng?
b/
Công nghệ sinh học, cũng giống như các cuộc cách mạng kỹ nghệ của các
thế kỷ trước, làm nẩy sinh ra cách biệt giàu nghèo; người giàu đi chiếc
xe sang hơn là điều dễ hiểu và còn chấp nhận được. Nhưng có thể nào con
cái nhà giàu thì sẽ được điều trị hay nhận được một loại gene tốt hơn so
với cho con cái của đại đa số quần chúng trung lưu hay nghèo khổ ? Thời
còn tại thế Ðức Thích ca đã rao giảng phải xóa bỏ giai cấp. Kinh Phật
cũng nhiều lần dạy về diệt tham, sân, si và xả bỏ dần những gì mình bám
víu kể cả của cải. Thực hành lời Phật dạy thì hai vấn nạn trên đây Phật
tử nào cũng biết cách ứng xử như thế nào.
4/ Chuyện cần chống đối: Nghiên
cứu y học rất cần đến nhiều chuột thí nghiệm (cobaye) trước khi sản
xuất ra một thứ thuốc. Nhưng tàn ác thái quá với súc vật thử nghiệm là
một điều Phật tử không thể chấp nhận. Ví dụ để nghiên cứu tạo ra một con
heo lớn nhanh, có nhiều thịt, các nhà nghiên cứu của Bộ Canh nông Mỹ
(USDA) đã chích vào 8000 con heo loại gene có kích thích việc lớn nhanh.
Chỉ có một con trong 8000 con có sinh ra được loại kích thích tố tăng
trưởng, nhưng chính con này cũng trở thành dị dạng, nhiều lông, viêm
khớp, mắt lé và không đi được, 7900 con còn lại bị giết bỏ. Cloning là
một hiện thực của khoa học hiện đại. Cũng mất hơn mấy chục năm qua, với
rất nhiều thách đố, chống đối, cuối cùng thì trong bữa ăn hằng ngày của
con người đều không ít thì nhiều đã có sản phẩm dựa trên dòng sinh vô
tính, khi bài mạn đàm này lên báo thì rất có thể cơ quan FDA của Mỹ đã
chấp thuận cho sữa và thịt bỏ cloned lưu hành chính thức trên thị
trường. Trong năm 2008, ta sẽ thấy y học tạo ra nhiều Stem Cell từ tế
bào da để chữa rất nhiều bệnh khó khăn. Chuyện Clone con người cũng
không còn xa dù rằng trước khi đến đó nhân loại còn nhiều tranh cãi, tốn
nhiều tiền bạc công sức. Và dĩ nhiên là với óc tò mò của nhân loại, có
được một phó bản y hệt như mình có lẽ ai cũng không thể dấu được một thú
vị riêng tư.
Tiến bộ quá
nhanh của khoa học cũng đặt ra lắm vấn đề xã hội và đạo đức mà tôn giáo
cần có vai trò hướng dẫn. Xin quí độc giả tìm đọc thêm cuốn sách”
Buddhist answers to Current Issues của Ðại Sư Ananda W.P Guruge”. Chương
III, trang 87 có nói về cuộc tranh luận về Dòng sinh vô tính (growing
controversy of Cloning). Xin trích dẫn một câu trả lời của Ðức Dalai
Lama về vấn đề Cloning khi nhà làm phim Jean Claude Carriere đặt câu hỏi
vê Cloning và trường sinh bất tư,û Ngài trả lời :” Tạo ra một phó bản y
hệt có nghĩa là chấm dứt khả năng tiến hóa, chúng ta tuyên bố rằng
chúng ta là hoàn hảo và chúng ta ngừng lại “ ( Quán Như dịch) Liệu chúng
ta có nên ngừng lại ở tấm thân bất hảo này với bao nhiêu triền miên đau
khổ trong cõi nhân gian hiện nay hay là phải tìm cách tu tập để “clone”
mỗi chúng ta thành những vị Phật, thăng hoa trí tuệ vào cõi an lạc của
Như Lai?
Tham khảo : Cloning the Buddha, The Moral
Impact of Biotechnology,Richard Heinberg,1999 Washington Post 11/21/07,
12/7/07, 12/17/07, 1/5/08
Wall Street Journal , Marketplace, 1/4/08
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét