Hành Sử Quyền Đối Lập
Để Hình Thành
Đối Lập ở Việt Nam
Cuộc cách mạng dân chủ đã và đang diễn ra ở Bắc Phi và Trung Đông có thể coi như là đợt sóng dân chủ hóa thứ ba của nhân loại kể từ cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đợt sóng này đã đánh dấu một chặng đường mới của sự nghiệp của nhân loại xây dựng và hoàn thiện thể chế dân chủ khởi đầu từ thế kỷ thứ V trước Công Nguyên. Đồng thời nó còn mang đến cho những tập thể người vào đầu thiên niên kỷ thứ ba rồi – mà vẫn còn phải mang ách độc tài – những sự hỗ trợ thiết yếu cả về ba mặt chính trị, pháp lý và quân sự để bẻ gãy gông cùm của những thế lực cầm quyền phản dân chủ. Sớm hay muộn thì gió xuân Bắc Phi Trung Đông cũng sẽ thổi đến Việt Nam vì dân chủ là xu thế của thời đại. Nhưng chính người dân Việt Nam phải chứng tỏ có đủ ý chí và khả năng đánh bại độc tài để đặt nền móng cho kiến trúc dân chủ. Do đó nay đã đến lúc một lực lượng đối lập phải cấp tốc thành hình và đột xuất trong lòng chế độ đảng trị cộng sản hiện nay đang ra sức nắm giữ độc quyền cai trị đất nước. Dưới đây là môt số nhận định – đã được nêu lên vào một thời điểm đã qua nhưng vẫn còn giá trị thời sự cao – về khả thế khai sinh ra lực lượng đối lập ấy mà tình thế đòi hỏi.
Kết hợp tranh đấu nhân quyền với tranh đấu dân chủ
Trước
tình hình trong nước có vẻ chớm bắt đầu ngột ngạt trở lại. Tự cho rằng
thế ngoại giao tạm thời đã được củng cố đồng thời cũng để chặn đứng
phong trào đòi dân chủ bằng đường lối hòa bình đang thành hình ở ngay
trong lòng chế độ, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại để lộ bộ mặt độc
tài toàn trị mà ít lâu nay họ cố che đậy.
Theo
tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà Nội, nhà cầm quyền Việt Nam
vừa chuẩn bị một cơ sở pháp lý mới để cơ quan hành chánh, không cần dựa
vào quyết định của cơ quan tư pháp, được quyền “quản chế” những ai mà
công an liệt vào hạng “nguy hại cho an ninh quốc gia” vì đã “làm mất
trật tự xã hội”.
Độc tài hiện nguyên hình
Cũng
vẫn theo nguồn tin trên thì cơ sở pháp lý ấy là một “Nghị định”
(Decree) của chính phủ. Trong khi chờ đợi biết rõ ai là tác giả nghị
định ấy, hãy tạm không bàn tới tính hợp hiến hay không hợp hiến của nó.
Vả lại trong hệ thống pháp luật cộng sản, làm gì có thứ bậc qui phạm
(hiérarchie des normes) rõ ràng. Tuy miệng quảng cáo rầm rộ cho cái gọi
là “nhà nước pháp quyền” (mập mờ đánh lận con đen với các loại Etat de
droit, Rechtsstaat, v.v… của dân chủ phương Tây) nhưng trong thực tế
những người cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn bám lấy những nguyên lý
chuyên chính vô sản là nắm trọn trong tay tất cả mọi quyền hành để độc
đoán cai trị hơn cả vua chúa ngày xưa. “Đổi mới”, “pháp quyền”, “dân chủ
xã hội chủ nghĩa” loanh quanh một hồi rồi đâu vẫn vào đó. Chính quyền
ngày nay, dù đã hội nhập vào thế giới văn minh, vẫn giống như chính
quyền trong rừng ngày trước, muốn bắt ai thì bắt, muốn giam ai thì giam.
Xưa thì nại cớ “chiến tranh giải phóng”, nay thì viện lẽ “ổn định xã
hội”, “an ninh quốc gia”. Rút lại vẫn chỉ là những thủ đoạn chuyên chế,
độc tài, phát xít, xít ta lin nít đã hoàn toàn lỗi thời. Những thủ đoạn
kỳ quái, đảo lộn, ngược đời kiểu “đêm giữa ban ngày”, đúng như tựa đề
cuốn hồi ký của một người đã may mắn sống sót và ra thoát khỏi cái thế
giới “đêm” ấy để nói lên sự thật.
Vi phạm nhân quyền, trước đã rõ nay càng rõ hơn
Nói theo
kiểu bình dân, những người cộng sản khôn nhưng không ngoan! Họ tưởng lầm
rằng mượn những từ hoa mỹ “an ninh quốc gia” để che đậy ý đồ độc tài
toàn trị là có thể dễ dàng đánh lừa được dư luận. Nhưng thế giới văn
minh ngày nay không phải là những mật khu ngày xưa. Ngày 24-9-1982, nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tham gia hai Công ước quốc tế về các nhân
quyền mà không có một dè dặt (réserve) nào.
Việc
tham gia này có hiệu lực kể từ ngày 24-12-1982. Khác với bản Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(Pacte international relatif aux droits civils et politiques) có hiệu
lực như những luật quốc tế ràng buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là
người đã tham gia. Công ước này đặt ra cho nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam nhiều nghĩa vụ phải thi hành không thể nại cớ này cớ nọ để lẩn
tránh, hay xuyên tạc sang đoạt, giảm bớt hoặc hủy bỏ. Nói tổng quát,
tham gia Công ước này, nhà cầm quyền cộng sản bắt buộc phải coi mỗi
người dân là một “con người” với đầy đủ nhân phẩm của nó nghĩa là có một
loạt quyền để có thể sống một đời sống tự do, bình đẳng, dưới sự che
chở của luật pháp. Căn cứ vào Công ước nói trên mà xét, việc nhà cầm
quyền cộng sản quản chế công dân bằng biện pháp hành chính quả là một vi
phạm trầm trọng Công ước ấy.
Thật vậy, điều 2 phần II của văn bản quốc tế này định rằng:
“Mỗi
quốc gia thành viên của Công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho
mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các
quyền đã được công nhận trong Công ước này, không phân biệt chủng tộc,
màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc mọi quan điểm
khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc các điều kiện
khác”. Mặt khác, điều 5 cũng của phần II, nói rõ rằng:
“1.
Không được phép giải thích bất kỳ một qui định nào của công ước này để
qua đó có hàm ý tạo cho một quốc gia, một nhóm người hoặc một cá nhân có
được một quyền nào đó để tiến hành những công việc hoặc hành động nhằm
mục đích hủy bỏ bất kỳ quyền và tự do nào được công nhận trong Công ước
hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức độ qui định trong
Công ước”.
“2.
Không được phép hạn chế hoặc hủy bỏ các quyền cơ bản của con người đã
được công nhận hoặc hiện tồn tại ở một quốc gia thành viên của Công ước
này trên cơ sở luật, điều ước, các qui định pháp luật hoặc tập quán với
cớ là Công ước này không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một
mức độ thấp hơn”.
Hai
điều 2 và 5 này không cho phép nhà cầm quyền cộng sản tùy tiện đặt ra
hay giải thích méo mó luật pháp để xâm phạm nhân quyền của mỗi công dân
dù các công dân đó bất đồng chính kiến với người cộng sản, khác tôn giáo
với người cộng sản. Cộng sản lại cũng không thể đưa ra chiêu bài
“truyền thống dân tộc” để thoái thác không thi hành những nghĩa vụ mà
công ước đã qui định như trên. (Tưởng cũng nên nói thêm là cộng sản Việt
Nam không thể đồng hóa mình với cộng sản Trung Quốc vì Trung Cộng nại
cớ không công nhận tư cách đại diện của Trung Hoa Quốc Gia – năm 1966 đã
ký vào Công ước nên tự coi là không có nghĩa vụ thi hành Công ước).
Nhà cầm quyền cộng sản có thể nại lý do “an ninh quốc gia” để xâm phạm một cách hợp pháp!” quyền của các công dân nói khác đi, để đàn áp đối lập – được không? Không được! Câu trả lời có thể dứt khoát ngay như vậy.
Trước
hết, như điều 4 của Công ước đã qui định chỉ khi nào có một “tình trạng
khẩn cấp, đe dọa sự sống còn của quốc gia” đã được ban bố thì mới có
thể đi ngược lại, nghĩa là ngưng thi hành những điều khoản của Công ước.
Đây không phải là trường hợp của Việt Nam, trước mắt. Trong tương lai,
Việt Nam cũng không ở trong triển vọng bị lâm vào một tình trạng khẩn
cấp. Không có chiến tranh, không có thiên tai, v.v… đời sống ở Việt Nam
hiện nay đang diễn ra một cách bình thường. Tại sao phải ngưng thi hành
Công ước?
Vả
lại ngay dù cho có “tình trạng khẩn cấp” chăng nữa, nhà cầm quyền Việt
Nam một mặt chỉ có thể lấy những biện pháp bất thường nào “không trái
với những nghĩa vụ khác, xuất phát từ luật quốc tế và không chứa đựng
nội dung phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo hoặc nguồn gốc xã hội”, mặt khác cũng vẫn phải tôn trọng những
nhân quyền cơ bản đã được liệt kê trong điều 6, 7, 8 (các đoạn l và 2),
11, 15, 16 và 18. Đó là những quyền “được sống”, “không bị tra tấn… đối
xử hoặc bị áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc nhục
hình…”, “không bị bắt làm nô lệ,… làm nô dịch”, “không thể bị kết án
phạm tội hình sự vì một hành động hoặc bất hành động không phải là tội
phạm theo luật quốc gia hoặc luật quốc tế vào thời gian xảy ra hành vi
đó”, “tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo…”(1). Muốn xé rào để có cơ
sở pháp lý đàn áp đối lập, nhà cầm quyền cộng sản phải vượt qua loạt
khóa an toàn vừa kể.
Điều
quá hiển nhiên là nhà cầm quyền cộng sản khi ban hành nghị định “quản
chế” đã không vượt qua được bất cứ khóa an toàn nào. Nhưng họ cứ tri
tình dày xéo lên những cam kết tuân thủ những qui phạm của Luật quốc tế.
Như
vậy là những hành động vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản,
trước đã rõ nay lại càng rõ thêm. Không một luận cứ pháp lý nào có thể
biện minh cho những hành động vi phạm ấy. Vấn đề được đặt ra cho những
người dân chủ Việt Nam ở trong cũng như ở ngoài nước, là phải đối phó
cách nào cho có hiệu quả với tập đoàn cầm quyền bất chấp luật pháp ấy?
Tăng cường và nâng cao phẩm chất tranh đấu nhân quyền
Việc
tranh đấu chấm dứt bạo quyền là một vấn đề hết sức phức tạp nhưng lại
dễ bàn luận. Ai cũng có có sẵn lập trường, có sẵn kế hoạch, chiến lược,
chiến thuật.
Ở đây
tuyệt đối không bàn suông, chỉ có một số nhận định rất giới hạn vào phạm
vi luật học và chỉ nhắm vào hành động thực tế, cụ thể mà một số người
Việt ở ngoài nước có thể tiến hành. Đó là việc tranh đấu nhân quyền.
Trong
những năm 80, dư luận người Việt ở ngoài nước hồi hộp theo dõi tin tức
vụ “kiện” cộng sản vi phạm nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc. Thật ra
“kiện” cũng chỉ là một cách nói – cường điệu – để diễn tả công việc
chống đối bằng luật pháp khi không có cách chống đối nào khác. Thời gian
qua đã cho thấy đi “kiện” như vậy là đã đi đến đâu. Về điểm này, thiết
tưởng không nên quá khe khắt mà cũng đừng quá dễ dãi. Công bình mà nói,
không phải ai cũng có thể trực tiếp lên tiếng trước diễn đàn của Liên
Hiệp Quốc.
Nhưng
mặt khác, không phải là cứ lên tiếng trước diễn đàn ấy là giải quyết
xong vấn đề chuyên chế tại Việt Nam. Nếu chỉ cần có bấy nhiêu thôi thì
những tiếng nói của một số không nhiều người Việt Nam
từng cất lên (trong số đó có tác giả bài viết này) tại Mỹ, Áo, Thụy Sĩ,
v.v… để đọc những bản cáo trạng nghiêm khắc lên án cộng sản, đã mang lại
từ lâu dân chủ cho nước này rồi! Thế mà bạo quyền chẳng những vẫn còn
tại vị mà lại ngày càng “trụ” vững trên ngôi chuyên chế.
Chẳng
lẽ vì vậy mà những người chống đối bạo quyền ấy đành bó tay sao? Phải
duyệt xét lại việc làm đã qua để tìm những cách đối phó mới. Về điểm
này, sẽ không có nhiều giải pháp. Cũng lại phải đi “kiện” nữa mà thôi,
chữ “kiện” hiểu theo nghĩa thật rộng của nó.
Sự
thực, đứng về mặt luật quốc tế mà nói, trong hiện tình, người Việt Nam
nạn nhân của bạo quyền cộng sản không có một tố quyền nào trước diễn đàn
Liên Hiệp Quốc khả dĩ có thể mang lại cho mình những phán quyết như
loại phán quyết của tòa án. Tuy nhân quyền được Liên Hiệp Quốc đề cao,
được nhiều văn bản luật quốc tế qui định và bảo vệ nhưng thủ tục để cho
các nạn nhân bị chà đạp nhân quyền khiếu nại lại rất giới hạn và ít hiệu
quả. Trong cơ chế của Liên Hiệp Quốc có 5 cơ quan, với những thẩm quyền
rộng hẹp khác nhau, có thể thụ lý và giải quyết các vấn đề nhân quyền.
Đó là Hội Đồng Bảo An, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Ủy Hội Nhân Quyền,
Ủy Ban Nhân Quyền và Cao Ủy Nhân Quyền(2). Hãy gạt ngay sang bên Hội
Đồng Bảo An và Đại Hội Đồng LHQ, vì hai cơ quan này ở ngoài tầm vận động
trong lúc này của người Việt Nam, nạn nhân bạo quyền cộng sản. Cao Ủy
Nhân Quyền, mới thiết lập được hai ba năm nay, không coi vấn đề vi phạm
nhân quyền tại Việt Nam có giá trị ưu tiên. Trong số hơn 30 quốc gia mà
ông đã viếng thăm từ khi nhậm chức, không thấy có nước Cộng Hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Ủy Ban Nhân Quyền là cơ quan mà Công ước quốc tế về
quyền dân sự chính trị lập ra để giải quyết những vụ vi phạm nhân quyền
trái với Công ước này. Oái oăm thay, cộng sản Việt Nam tuy có tham gia
Công ước nhưng lại không tham gia Hiệp định thư thứ nhất phụ đính Công
ước này nên Ủy Ban không có thẩm quyền xét khiếu nại của các nạn nhân
Việt Nam. Chỉ còn Ủy Hội Nhân Quyền với thủ tục gọi là “Thủ tục 1503″
(1503 là số thứ tự nghị quyết của Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội ngày 27-5-1970
qui định thủ tục xét đơn khiếu nại về những sự vi phạm nhân quyền và
những quyền tự do cơ bản) là nơi độc nhất để các nạn nhân Việt Nam mất
nhân quyền có thể kêu cầu. Nhưng thủ tục hiếm hoi này lại rất nhiêu khê
vì không phải ai muốn kêu cầu cũng được và muốn kêu cầu ra sao thì kêu.
Nó đòi hỏi một số điều kiện về hình thức cũng như về nội dung đề hành sử
(trong một dịp khác xin bàn kỹ hơn). Cũng may là nước Việt Nam đã bị
ghi vào sổ đen vì những vi phạm nhân quyền (đây là công tranh đấu mấy
chục năm qua của những người Việt tị nạn cộng sản) nên tại diễn đàn Liên
Hiệp Quốc ở Genève, tiếng nói của những nạn nhân Việt Nam vẫn còn có cơ
hội tiếp tục cất lên.
Nếu
muốn dựa vào các Công ước quốc tế về nhân quyền để tranh đấu cho nhân
quyền thì trong tương lai phải biết góp gió thành bão, nâng cao phẩm
chất cuộc tranh đấu ấy cho thích hợp với môi trường quốc tế chứ không
phải cho riêng “cộng đồng người việt hải ngoại”. Những chiến sĩ dân chủ
kiên cường trong nước đang bị đe dọa trước mắt với nghị định “quản chế”
mà bạo quyền vừa ban hành. Những người dân chủ Việt Nam ở ngoài nước cần
tỏ và phải tỏ ra có khả năng ứng cứu, yểm trợ người dân chủ ở trong
nước. Kết hợp được chặt chẽ hai cuộc tranh đấu này là sớm đặt được nền
móng cho một nước Việt Nam dân chủ trong tương lai.
LS. Trần Thanh Hiệp
Posted in: Chính Trị
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét