Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức
LTS. Chế độ tập trung cải tạo cho quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa được thi hành sau khi Cộng Sản
miền Bắc thôn tính miền Nam. Bài này đúc kết lời kể của các cựu tù nhân
chính trị; mục đích là để thế hệ mai sau, trong và ngoài nước, biết các
khó khăn, đau khổ của cha chú họ, như một bài học đắt giá cho nhân
loại, để tránh tái diễn chứ không phải để giữ mãi hận thù.
Trình Diện Để Đi Tù Đầy
Mấy tuần lễ
sau khi miền Nam thất thủ thì chiến dịch rỉ tai về học tập cải tạo bắt
đầu được tung ra. Nhưng mãi đến đầu tháng sáu 1975 Uỷ Ban Quân Quản
Thành Phố mới ra lệnh cho các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải
trình diện để đi “Học Tập Cải Tạo”. Uỷ Ban ra thông cáo vào các ngày
10-6, 11-6 và 20-6-75 trên đài phát thanh và báo chí, chỉ định rõ địa
điểm và ngày giờ trình diện.
Hạ sĩ và
nhân viên chính quyền từ chủ sự trở xuống học tập ba ngày tại phường.
Các cấp thấp hơn như binh sĩ, cán bộ phường khóm được khoan hồng miễn
trình diện. Cả mấy trăm ngàn người nô nức đi trình diện học tập vì họ
nghĩ rằng học tập cho xong để hy vọng sớm trở về làm ăn. Họ đi học từ
sáu giờ sáng đến tối.
Ðối với các
phó quận trưởng, trưởng ty, cấp úy, thì mỗi người phải mang theo giấy
bút, quần áo, mùng mền vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng
trong mười ngày kể từ ngày trình diện.
Với các cấp
chỉ huy từ giám đốc trở lên, sĩ quan từ cấp tá, các dân biểu nghị sĩ,
các lãnh tụ đảng phái thì thông cáo ra lệnh mang theo giấy bút, vật dụng
cá nhân, số tiền là 13,000 đồng đủ cho việc ăn uống trong 30 ngày kể từ
ngày học tập đầu tiên. Thông cáo nói rõ: “các học viên phải mang theo
một tháng tiền ăn và những đồ đạc cần thiết. Nhà hàng Ðồng Khánh sẽ phụ
trách việc ăn uống...”
Nhiều người
vì sức khỏe yếu được miễn trình diện. Nhưng vì quá tin vào thông cáo của
chính quyền, học tập có một tháng, nên họ vẫn tình nguyện xin đi để tỏ
thiện chí cũng như làm cho xong để còn về được an ổn kiếm kế sinh nhai.
Có người
được nhân viên tiếp nhận cho về vì không hội đủ tiêu chuẩn như thông cáo
nhưng vẫn nằn nì giải thích chức vụ để xin đi cho chắc bụng. Chẳng hạn,
có vị khai chức vụ quốc vụ khanh chính phủ. Cán bộ không biết đó là
chức gì mà coi danh sách không thấy có nên đuổi về. Vị chính khách này
phải cố gắng giải thích chức vụ của mình ngang hàng tổng trưởng. Họ cũng
không biết tổng trưởng là gì, đến khi nói là bộ trưởng thì họ mới cho
nhập trại. Ai cũng nghĩ là trước sau rồi cũng phải học tập nên xin đi
cho nó xong. Thực ra, thông cáo rất mập mờ. Lúc đầu ghi danh đi học tập
cải tạo phải chuẩn bị thực phẩm hoặc đóng tiền ăn cho một tháng. Rồi
pháp lệnh nói cải tạo viên phải học tập ba năm rồi đổi ra vô hạn định
một cách âm thầm.
Kỷ Nguyên Tù
Ðầy Cải Tạo bắt đầu. Sau khi đã bước vào trại tù cải tạo thì ngày ra
dường như vô tận vì một số thiệt mạng, hầu hết tiếp tục tù đầy cho tới
mươi mười lăm năm sau.
Theo bản
tường tình của Aurora Foundation năm 1983 do bà Ginetta Sagan và ông
Stephen Denney thực hiện thì có hơn một triệu người đã đi cải tạo mà rất
ít được về sau thời hạn mười ngày hay một tháng. Trên toàn quốc lúc bấy
giờ có trên 150 trại cải tạo. Có khoảng 500,000 người được trả tự do
trong vòng ba tháng; 200,000 ở trại từ hai đến bốn năm; 240,000 ít nhất
năm năm; nhiều chục ngàn người trên mười năm.
Trong một trại cải tạo, học viên thắc mắc về thời gian cải tao như sau:
“Thưa cán
bộ, theo như chính sách 12 điểm của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam
thì sau ba năm chúng tôi được trả tự do để đoàn tụ với gia đình; bây
giờ đã quá 3 năm sao chúng tôi còn phải ở trong trại?”
Cán bộ trả lời:
- Các anh
thông minh, các anh phải hiểu rằng Chính Phủ Cộng Hòa miền Nam (của Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam) đâu có phải là Chính Phủ Việt nam Dân Chủ Cộng
Hòa; vả lại chính phủ Cộng Hòa Miền Nam không còn tồn tại thì những gì
chính phủ ấy quy định cũng không còn tồn tại.
- Hơn nữa,
các anh thông minh nhưng chưa hiểu thế nào là 3 năm. Các anh hiểu cứ mỗi
năm là 365 ngày như bọn tư sản thì hỏng bét, do đó các anh khiếu nại là
phải rồi. Nếu các anh phân tích một cách sâu sát thì các anh sẽ thấy
rằng có 3 năm định tính và 3 năm định lượng. Một anh có thể có 3 năm
định lượng, nghĩ a là đã cải tạo đúng ba năm không thiếu ngày nào, nhưng
lại không có đủ 3 năm định tính vì tính chất cải tạo quá tồi, cải tạo
không tốt, do đó mà chưa được về sum họp với gia đình.”
(Phan Phát Huồn: AK và Thập Giá)
* Các dữ kiện trong bài viết này là những lời kể lại của nhiều tù nhân cải tạo sống sót.
Tổ Chức Trại Cải Tạo
Trại được
chia ra làm nhiều khu. Mỗi khu có nhiều đại đội trại viên. Dưới là nhóm
gọi là “B”. Mỗi B có 30 trại viên do một cán bộ hạ sĩ quan phụ trách.
Trại viên còn được gọi là phạm nhân hoặc cải tạo viên. Họ phải học làm
lòng tài liệu “38 điều Nội Quy” và “Bốn tiêu chuẩn cải tạo”.
Bốn tiêu chuẩn cải tạo là:
1-Thành khẩn khai báo
2- Lao động tự giác
3-Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy và các pháp lệnh nhà nước
4- Giúp bạn cải tạo cùng tiến bộ
Một cựu tù
nhân cho hay: nhiều người không nhớ các tiêu chuẩn này, nên đã dùng bốn
thú vật tiêu biểu cho từng tiêu chuẩn: ngu như bò, có gì khai hết; lao
động như trâu; bảo sao làm vậy như con cừu và sủa như chó để báo cáo các
hành động của bạn tù.
Có người đã
ví việc thực hiện các tiêu chuẩn này chẳng khác gì sự xét mình, ăn năn
tội lỗi, xưng tội và dốc lòng không sai phạm của một tôn giáo. Nội quy
có các điều khoản về nguyên tắc chung, kỷ luật học tập, kỷ luật về lao
động, kỷ luật về nếp sống hàng ngày, kỷ luật về viết thư và gặp gia
đình, tổ chức phạm nhân, và khen thưởng-kỷ luật.
Ðiều nào cũng bắt đầu bằng các chữ quyết liệt như “Phải chấp hành…” hay “Tuyệt đối tuân theo…”
Chẳng hạn điều Một ghi rõ:
“Phải triệt để tuân theo đường lối, chính sách giam giữ cải tạo của Ðảng, pháp luật của nhà nước...”
Ðiều 2: “Phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, phải ra sức học tập cải tạo tư tưởng, thành khẩn nói hết lỗi lầm của mình.”
Ðiều 8: “Phải trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Ðể rèn luyện ý thức lao động, lấy lao động để cải tạo tư tưởng…”
Ðiều 12: “Không được dùng tiếng ngoại ngữ và không được nói tiếng lóng”
Ðiều 18: “Thường xuyên cạo râu, không được để râu” .
Ðiều 20:
“Tránh có thái độ ngang bướng, khúm núm, nịnh hót. Khi có việc cần gặp
cán bộ phải đứng xa 5-7 mét ở tư thế nghiêm. Xin báo cáo với Giám thị,
cán bộ”.
Trại có rất nhiều khẩu hiệu về học tập chính trị như:
“Chính sách khoan hồng của Ðảng trước sau như một.”
“Học tập cải tạo là con đường duy nhất để trở thành người công dân lương thiện.”
“Học tập nghiêm túc, đi sát đi sâu, đào sâu, suy nghĩ, thảo luận đúng ý...”
Khai Lý Lịch
Cải tạo viên
nào cũng phải khai lý lịch. Ðây là một việc làm rất nhức đầu vì họ phải
khai đi khai lại cả chục lần. Khai xong mang nộp, rồi bị cán bộ hạch
hỏi đủ điều. Việc khai lý lịch thường là do đoàn công tác liên bộ Quốc
Phòng và Công An phối hợp thực hiện. Mẫu khai có ba mục chính với nhiều
tiểu mục và tiết mục. Rầm rộ phát động chiến dịch khai báo, cho ăn đồ
tươi.
1-Lý lịch
cuộc đời cá nhân: bản thân người khai, gia cảnh và lý lịch thân nhân, từ
ông cố tổ bốn đời. Từng địa chỉ đã sống trong suốt đời. Một địa chỉ có
thể là 1 tuần ở quốc nội hoặc bốn mươi tám giờ ở quốc ngoại.
Về lý lịch
thân nhân, phải khai đầy đủ chi tiết về bản thân kèm thêm đánh giá từng
người về quá trình chính trị, xã hội, giai cấp.
2-Quá trình
hoạt động: Trong suốt đời, với 3 giai đoạn: từ 1945 trở về trước; từ
1945 đến 1954 và từ 1954 đến 1975. Phải khai cho đầy đủ các chi tiết về
ngày tháng, sinh hoạt, chức vụ, ở đâu với ai, diễn tiến công việc, kết
quả công việc, ảnh hưởng của công việc vào xã hội. Khai các cá nhân,
đoàn thể chống cộng ở miền Nam: tên tuổi, tổ chức nào, hoạt động ở đâu,
cách tổ chức chống cộng... Kê khai bạn bè thâm giao và bạn bè thường,
rồi các sinh hoạt của họ ở đâu bây giờ. Kê khai mọi cấp chỉ huy, đồng sự
với các chi tiết như của mình... Hiện giờ họ ở đâu, quan điểm chính trị
của họ. Khai rõ về các vấn đề tổ chức, kỹ thuật chiến thuật của miền
Nam.
3-Kê khai
tài sản: Của nổi của chìm, trong nước, ngoài nước, mình đứng tên hay nhờ
người đứng tên, vợ con đứng tên; hiện có, đã sang nhượng, cúng dâng cho
các tổ chức. Tiền từ đâu có.
Phạm nhân
được dành cho một tuần để khai; ban đêm cho phép đốt đèn cầy để khai.
Khai xong ký cam đoan là đúng sự thực rồi nộp cho cán bộ. Phạm nhân phải
thức thâu đêm để khai; nhiều khi đi cầu, đi ăn cũng tập trung suy nghĩ
coi đã làm gì, ở đâu, ngày nào...
Sau khi nộp
thì mấy ngày sau lại phải khai lại vì: thiếu thành khẩn, thiếu tự giác,
không khai hết sự thật, ngoan cố, giấu diếm bao che các tổ chức chính
trị và cá nhân phản động.
Rằng nhân
dân đã biết rõ về mình rồi, đã có hết tất cả hồ sơ tại công tư sở, đừng
hòng giấu diếm. Có phạm nhân còn bị gọi lên để hạch hỏi chi tiết, hù doạ
là vợ khai khác mà mình khai khác hoặc để đối chiếu lời khai của thân
nhân với lời mình khai. Rồi bản khai được cất đi và phạm nhân phải khai
lại từ đầu...Việc khai báo kéo dài cả mấy tháng. Một chiến dịch cổ võ
cho việc khai báo cuộc đời được diễn ra. Học viên còn được cho ăn uống
linh đình và được miễn lao động trước ngày khai báo bắt đầu.
Cải tạo tư tưởng-Học tập chính trị
Mục đích của
cải tạo là “để thay đổi con người từ chế độ lỗi thời vào kỷ nguyên mới
của những công dân tốt, với các giáo điều tốt lành của chủ nghĩa Anh
Hùng Cách Mạng”.
Theo các cựu tù nhân kể lại, bài học nhồi sọ nhắm vào việc:
“Ðả phá chủ
nghĩa đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân Việt Nam và thế giới. Sự thất bại
của chủ nghĩa đế quốc Mỹ; Ðế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi: một vòi hút máu
mủ nhân dân trong nước, còn vòi kia vươn sang các nước khác để hút máu
mủ nhân dân các nước này bằng cách bán súng đạn, tạo ra các cuộc chiến
tranh diệt chủng. Tội ác của ngụy quyền ngụy quân miền Nam, bán nước,
tay sai. Chính sách khoan hồng của Ðảng, nghĩa vụ của người có tội, lao
động là vinh quang. Những thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam.”
Các buổi học tập chính trị gồm có:
a. Nhận đề cương nội dung bài.
b. Tìm hiểu nội dung.
c. Nghe giáo viên giảng bài.
d. Suy nghĩ về nội dung và lời giảng của giáo viên.
e. Không bàn thảo với ai. Viết một bài nhận định để trình bày với tổ.
g. Phát biểu trước tổ học tập.
h. Hội thảo cấp B cao hơn với ba tổ.
i. Hội thảo toàn trại.
k. Rồi viết bài tổng kết học tập dài cả chục trang.
i. Tổng kết và giải đáp thắc mắc.
Kỹ thuật
nhồi sọ áp dụng nguyên tắc nước chảy đá mòn, nói nhiều nói mãi một đề
tài, nhắc đi nhắc lại một luận điệu, biến con người thành cái máy... Sau
cả nhiều tháng học tập chính trị, hầu hết đều bị chê là: “chưa được rèn
luyện, cải thiện bằng các tư tưởng cao siêu của Chủ Nghĩa Xã Hội, vẫn
còn ngoan cố, không chịu tiếp thu bài học, không chịu gột rửa toàn diện
tư tưởng xấu của bản thân, nên cần được cải tạo bằng lao động”.
Lao động
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.
Cuốc đất: 150m2/ngày/người
Trồng mì: 5000m2 /ngày/4 người
Khai quang: 300m2/ngày/người
Lấy cây
đường kính 30cm, dài 4 thước, hai người một cây, mang về trại cách xa 3
cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
Tranh lợp nhà: 10 bó theo tiêu chuẩn của trại. (Theo Trại Tù Cải Tạo-Phạm Quang Giai).
Ăn uống
Sau đây là kinh nghiệm người cựu tù:
“Cộng Sản
không cần đánh đập, không cần kết án, mà họ đã dùng cái máy chém vô hình
và im lặng: ÐÓI. Họ lôi cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân
chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiến là ác độc,
là giết người.” (Phạm Quang Giai: Trại cải Tạo)
“Cái lon
nhôm sữa bột guigoz, được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn đồng hành thân
thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước
uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ
dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào Gô rồi nhờ nhà
bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau
cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì
“canh có người lái”, tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt,
chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: “con gì nhúc nhích là ăn được, rau gì
không chết thì ăn”... (Nguyễn Chí Thiệp: Trại Tù Kiêm Giang)
“Tiêu chuẩn
kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa
hai chén nhỏ xíu. Ðến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để
cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải
nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm,
giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được
sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một
lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục
nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên
cạnh cái của nợ khai thúi đó.” (Nguyễn chí ThiệpTrại Tù Kiêm Giang)
Vệ Sinh Trại
Tù nhân kể
lại là trại chật trội ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi
bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng
nước, kéo một lúc đã cạn nước. Ðể lâu không dùng nên chuột bọ chết thối
đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Ði cầu vào các dẫy hố đào
trên mặt đất.
Bệnh Tật
“Mặt đứa nào
đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như
những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút
nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn
bệnh phù thũng trầm kha...” (Hà Thúc Sinh: Ðại Học Máu)
Kiểm tra tư trang
“Ông cán bộ tới chỗ tôi và bắt đầu lục soát.
- Cho tôi xem cuộn giấy. Giấy này là giấy gì đây?
- Thưa cán bộ đây là giấy vệ sinh.
- Giấy vệ sinh là giấy gì?
- Thưa cán bộ là giấy đi cầu.
Ông cầm cuộn giấy, xem rất kỹ, chê bai đủ điều rồi nói tiếp:
- Ðây chính
là tài liệu mật mã bọn Mỹ ngụy để lại cho các anh xử dụng để quấy phá
cách mạng, nhưng làm sao qua mắt cách mạng được. Tôi ra lệnh tịch thu
toàn bộ những cuộn giấy này của anh và của các anh khác.” (Phan Phát
Huồn: AK và Thập Giá)
Thăm viếng và thư từ của gia đình
Theo điều
29, “hai tháng phạm nhân được gặp người nhà một lần. Phạm nhân có trách
nhiệm hướng dẫn người nhà chuẩn bị giấy tờ cần thiết khi đến thăm mình.”
Ðiều 27:
“Phạm nhân mỗi tháng được viết một lá thư cho gia đình; thư phải đưa lên
cán bộ duyệt trước khi gửi; không được dùng tiếng ngoại quốc, tiếng
lóng.”
Tết 1977 là
lần đầu tiên phạm nhân được viết thư cho thân nhân ở trong Nam. Thư gửi
qua Trung Ðoàn 52-A, Chí Hòa Sài Gòn. Họ không được phép tiết lộ nơi
đang học tập. Quà do thân nhân gửi không được quá 5 kí. Trà, cà phê,
rượu, muối bị cấm tuyệt. (Trần Vĩ)
Kết luận
Chế độ tù
cải tạo dưới chế độ Cộng Sản vào những thập niên 70 và 80 của thế kỷ
trước đã đưa đến sự tàn phá tâm thần và thể xác cho nhiều quân cán chính
Việt Nam Cộng Hòa. Ðây là một thảm họa mà đến nay thế giới loài người
văn minh cũng như con cháu chúng ta vẫn chưa biết được tường tận.
Các vị cựu
nhân cải tạo sống sót hình thức tù đầy này cũng nên ghi lại những bài
học đắt giá, những hy sinh của chính mình, của các bạn tù đã nằm xuống.
Và các bà vợ tù nhân cải tạo cũng có nhiều cay đắng cuộc đời. Một thân
phải tần tảo chăm sóc bầy con giữa những kỳ thị của chế độ mới, rồi lại
còn trèo đèo lặn suối đi thăm nuôi chồng bị đầy ải nơi rừng thiêng nước
độc. Ghi lại để các thế hệ con cháu, trong ngoài nước, hiểu nỗi lòng của
mình. Cũng như để tránh tái diễn, nhất là đối với những người cùng
chung dòng giống. Chứ không phải để nuôi mãi lòng thù hận nhau.
[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của Uỷ Ban Cứu Người
-----------&---------
Trình diện,
vào hàng ngũ... để nghe " cán bộ Việt Cộng " thông báo về cái gọi là
chính sách 10 điểm của bọn đầu lãnh Việt Cộng dành cho sĩ quan-viên chức
chính quyền miền Nam VNCH mà thực chất ngay những ngày sau đó là sự lừa
gạt để bỏ tù hàng loạt người thuộc phía bại trận. Có người chết mất xác
chỉ sau vài tháng tù tại các trại có mỹ danh học tập cải tạo.
Tập họp tại
hội trường để nghe các gã Cán giảng " lên lớp " về thành tích xã hội chủ
nghĩa hoặc lên án xã hội tư bản thối nát để sau đó người tù cải tạo
phải chia thành tổ để hội thảo, tự kiểm về những điều Việt Cộng chửi rủa
mình.
Tù cải tạo
nhà bếp luộc bột mì (nắn thành cục tròn bằng cỡ nắm tay nhỏ) để phân
phát cho các tù nhân (mỗi người chỉ một thôi cho cả ngày làm việc) trước
giờ đi lao động chết bỏ trong rừng sâu.
Con trai và
con rể vào trại tù cải tạo nên ông bồng bế cháu (nội và ngoại) cùng đi
vùng Kinh Tế Mới, thực chất là vùng rừng hoang, nước độc nguyên là khu
căn cứ cũ của bọn Việt Cộng. Chỉ trong vòng 1 năm thậm chí chỉ vài tháng
đã có người bỏ xác vì chối nước vì sốt rét hoặc do dã thú...
Tư bề trống
trải, nhà chỉ là bốn cây cột chống mái tranh mỏng dính trên nền đất lầy
lội... Biết làm gì đây khi chỉ có người vợ cùng đàn con nhỏ giữa chốn
rừng hoang?
Phạm Thắng Vũ
Posted in: Nghiên Cứu Lịch Sử
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét