-
Kiện để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981
-
Kiện Trường Sa tham gia với Philippines
-
Kiện chủ quyền Hoàng Sa
-
Kiện chủ quyền Trường Sa
Thứ Ba, 14 tháng 6, 2016
Phải kiện Trung Quốc nhưng kiện cái gì, như thế nào và khi nào
00:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: Tô Văn Trường
Việt
Nam chúng ta tuy có đông dân, nhưng kinh tế, và nhiều mặt còn chưa phù
hợp với vai trò mà chúng ta nên có trong một thế giới sôi động ngày nay.
Người làm chính trị có thể coi như lái thuyền giữa biển khơi, sự tỉnh
táo, linh hoạt, là không thể thiếu.
Sự
kiện giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou (HS) 981 của Trung Quốc ngang
nhiên đặt vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam hơn
tháng này kèm theo các hành động ngang ngược tấn công bằng vòi rồng phun
nước, đâm thủng các thuyền chấp pháp và ngư dân của ta gây nên làn sóng
phẫn nộ phản đối của nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Có nhiều ý
kiến khác nhau về kiện hay không kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và
thời điểm kiện cần chờ ý kiến của Bộ Chính trị?
Kiện
Trung Quốc, được là ai cũng biết Việt Nam dám phản đối. Mất là mất cơ
hội xác định rõ hướng đi với dân Việt và nước ngoài Việt Nam sẽ làm gì
nếu Trung Quốc đưa tiếp giàn khoan vào những nơi khác. Người ta chỉ thấy
Việt Nam không biết mình sẽ làm gì, thậm chí người ta còn thấy sự mất
đoàn kết trong lãnh đạo.
Là
con dân nước Việt, ai cũng đau đáu mối họa cho đất nước. Vấn đề kiện
hay không kiện là sự quan tâm lớn của cả trong và ngoài nước. Phát biểu
về những cái này, nếu không hợp với xu thế chung, sẽ dễ bị “ném đá” vì
lòng yêu nước là sức mạnh vô địch, nhưng nếu không hướng đúng, không sử
dụng đúng thì chủ nghĩa dân tộc sẽ thành con dao hai lưỡi giống như vụ
Bình Dương – Hà Tĩnh vừa qua.
Không
có một Nhà nước nào lại từ bỏ chủ quyền của mình một cách dễ dàng, chịu
lệ thuộc vào nước khác cả. Nhà nước Việt Nam cũng đã chuẩn bị cho các
giải pháp từ nhiều năm nay cho dù còn có nhiều lúc chúng ta chủ quan,
“nước chưa đến chân chưa nhảy” hay làm chưa đạt được chất lượng mong
muốn.
Điều
này xảy ra trong cả quân đội khi không tận dụng được thời gian để trở
thành chính quy hiện đại, xảy ra trong cả nền kinh tế của chúng ta, khi
không đa dạng hóa bạn hàng, không cổ phần mạnh các doanh nghiệp chuyển
sang cơ chế thị trường.
Sử dụng giải pháp pháp lý
Sử
dụng giải pháp pháp lý là một ứng xử văn minh mà các quốc gia phương
Tây nơi có nền luật pháp vững chắc lâu đời thường cậy đến. Với châu Á,
từ chỗ coi các Tòa án quốc tế là sản phẩm của phương Tây, sau nhiều cải
tổ của chính Tòa, bổ sung thêm các thẩm phán từ các quốc gia nhỏ khác,
nên các nước châu Á cũng có xu hướng sử dụng Tòa trong một số trường hợp
như Thái Lan và Campuchia qua vụ kiện đền Preah Vihear. Mailaysia và
Indonesia vụ đảo Sipadan, Lipadan. Malaysia và Singapore vụ đảo đá
trắng, v.v.
Các
nước đưa nhau ra Tòa với điều kiện là Tòa phải có thẩm quyền trên cơ sở
các quốc gia cùng chấp nhận. Tòa án Luật biển có tiến bộ trong Phụ lục
VII đưa thêm một cơ chế Quốc gia có thể đơn phương đưa vụ việc ra Tòa
trong những vấn đề liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS. Các vụ
việc trên thế giới khá đa dạng, liên quan đến chủ quyền lãnh thổ lại
càng phức tạp. Hầu hết những vụ như vậy lại đòi hỏi thiện chí thực hiện
các phán quyết của Tòa.
Thông
thường phán quyết của Tòa chỉ tạo cơ sở để giải quyết vấn đề chứ không
thể giải quyết hết được mà cần đến giải pháp tổng hợp chính trị, ngoại
giao, pháp lý, quân sự. Điều bất thường là các cường quốc đều có lịch sử
bất hợp tác, không tôn trọng phán quyết của Tòa như Mỹ trong
Mỹ/Nicaragua, Pháp trong các cuộc thử vũ khí hạt nhân… và đều rút khỏi
tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa. Điều đó, giải thích Trung Quốc,
nước vẫn coi mình bị các cường quốc phương tây bắt nạt, bị đối xử bất
bình đẳng, sẽ khó chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Thủ tục và nội dung
Các
vụ kiện ra Tòa sẽ phải giải quyết vấn đề thủ tục và nội dung. Thường
Tòa sẽ tổ chức hai phiên riêng biệt. Phiên thứ nhất về thủ tục, các bên
sẽ phải đưa ra lý lẽ chứng minh, Tòa có thẩm quyền còn việc quyết định
có hay không là do Tòa. Phiên thứ hai về nội dung. Toà sẽ chỉ có thẩm
quyền xem xét đúng câu hỏi mà các bên yêu cầu với điều kiện phải rõ
ràng, không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba và phán quyết của Tòa chỉ
có hiệu lực với các bên chấp nhận thẩm quyền, không có đối với bên thứ
ba.
Tuy
nhiên, phán quyết của Tòa cũng có thể tạo ra một “opinio juris” tạo xu
thế trong các phán xử các vụ tương tự sau này và dễ định hướng cho công
luận. Trong một số trường hợp, Tòa không thể quyết định có thẩm quyền
hay không, nếu không xem xét nội dung. Tòa sẽ phải kết hợp cả hai phiên
để xem xét. Đây có thể là trường hợp của Biển Đông.
Điều kiện
Rất
tiếc là nhiều người không hiểu để kiện thì Việt Nam phải chứng tỏ rằng
mình đã làm hết cách trong việc giải quyết song phương. Đấy là yêu cầu
của Luật Biển.
Khi
xem xét vấn đề thủ tục tức xác định thẩm quyền. Điều kiện đầu tiên để
sử dụng công cụ pháp lý là phải sử dụng hết các hình thức hoà bình khác
như đàm phán, trung gian hoà giải, uỷ ban điều tra… nếu các biện pháp
này bế tắc thì mới dùng đến Tòa. Vì vậy, có những vụ Tòa đã trả lại hồ
sơ hoặc khuyến nghị các bên áp dụng biện pháp trung gian hòa giải.
Điều
kiện thứ hai là các bên phải đồng ý đưa ra Tòa thì Tòa mới có thẩm
quyền và chỉ xét đúng trong phạm vi câu hỏi các bên thống nhất đưa ra.
Một
khi ra Tòa là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp nhưng đằng sau của
các bên đều muốn Tòa chứng minh mình thắng. Rất ít nước nghĩ đến mình
thua. Nhưng điều kiện của Tòa thì rất khắc nghiệt, dù được hay không các
bên đều phải chấp nhận không bác bỏ. Đây là điều cả Trung Quốc và Việt
Nam đều phải cân nhắc vì lòng tự hào dân tộc cao và chưa có truyền thống
văn hóa pháp lý như phương Tây. Vì vậy, việc cân nhắc thời điểm kiện,
câu hỏi kiện, chọn tòa kiện, hệ quả kiện, so sánh tương quan, thực thi
phán quyết… là gánh nặng đối với những người chịu trọng trách với đất
nước. Trong thời gian vừa qua, hình như dư luận chỉ muốn nói đến kiện và
tin tưởng đương nhiên ta thắng, địch thua mà chưa đề cập đến tất cả các
khía cạnh của các câu hỏi trên, tạo một áp lực lớn cho lãnh đạo.
Phải kiện và 5 khả năng lựa chọn pháp lý
Rõ
ràng đến nay, các các biện pháp khác không mang lại kết quả, chúng ta
phải dùng biện pháp pháp lý tức là kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.
Việc chuẩn bị ra đòn, phải thực sự bài bản, kín kẽ, thuyết phục.
Đi vào cụ thể, chúng ta có 5 khả năng lựa chọn pháp lý:
5. Kiện chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa
Để
chọn tòa ta có Tòa án CLQT La Hay, Tòa án trọng tài thường trực quốc
tế, Tòa án luật biển, Tòa trọng tài, Một số luật sư còn nói đến Tòa
trọng tài thương mại trong nước đòi bồi thường thiệt hại. Nhưng Tòa này
chỉ có thẩm quyền với các vụ việc xảy ra trên lãnh thổ quốc gia.
Vùng
đặc quyền kinh tế không phải là lãnh thổ quốc gia, đó là một vùng biển
có quy chế đặc thù (lưỡng tính) trong đó quốc gia ven biển có các quyền
chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên, các quyền tài phán về thiết lập các
đảo nhân tạo, công trình trên biển, về bảo vệ môi trường biển, về
nghiên cứu khoa học biển, trong khi các quốc gia khác có các quyền tự do
biển cả về đi lại, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Vì vậy, một
số báo chí nói đó là vùng biển của Việt Nam hay Trung Quốc hàm ý
“ownship” chưa thật chính xác. Cột nước không thuộc chúng ta mà là phần
biển cả trước kia thuộc toàn bộ cộng đồng quốc tế. Ta chỉ có một số
quyền, quan trọng nhất là quyền chủ quyền trong đó để đổi lại ta cũng
phải tôn trọng các quyền tự do khác của các nước. Để đơn giản ta chỉ còn
có Tòa La Hay và Tòa án luật biển mà thẩm quyền đã được trình bày ở
trên.
Kiện
riêng vụ HS 981 do Trung Quốc đơn phương triển khai giàn khoan trong
vùng tranh chấp, làm thay đổi hiện trạng pháp lý, đe dọa hoà bình và an
ninh, đề nghị trong lúc toà xem xét toà có thể yêu cầu áp dụng các biện
pháp phòng ngừa yêu cầu rút giàn khoan.
Không
tính đến Hoàng Sa thuộc ai và có quy chế đảo như thế nào (có 12 hải lý
hay 200 hải lý) thì địa điểm đặt giàn khoan đều nằm trong vùng
overlapping giữa bờ biển Việt Nam (130 hải lý) và đảo Hải Nam (180 hải
lý). Cả Trung Quốc và Việt Nam vì những lý do riêng đều tuyên bố đây
không phải là vùng tranh chấp. Nếu thực hiện một đường trung tuyến giữa
bờ biển Việt Nam và Hải Nam thì điểm giàn khoan nằm bên này trung tuyến
phía Việt Nam. Hành động đơn phương mang giàn khoan sang quá đường trung
tuyến vì vậy được coi là khiêu khích. Các ủng hộ của thế giới cũng vì
cái lớn là hòa bình ổn định, ủng hộ sự kiềm chế của Việt Nam nhưng không
có ủng hộ nào về chủ quyền thuộc ai cả. Đó là điều các báo chí khai
thác một phía, còn lãnh đạo phải hiểu rõ mới ra quyết sách đúng được.
Kiện HS 981 ít nhất Việt Nam phải hội tụ 3 điều kiện
Thứ
nhất chứng minh Việt nam đã bị tổn hại những gì? Giàn khoan di động,
tàu thuyền kể cả quân sự đều được hưởng quyền tự do hàng hải. Chỉ khi
bắt đầu khai thác thực sự hay tàu cá bị đâm như hôm 4/6 mới có đủ bằng
chứng tổn hại vật chất. Khác với Philippines, họ bị mất Scarborough thực
sự nên là cớ để kiện Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng đưa ra Tòa yêu cầu
Tòa tuyên bố biện pháp ngăn ngừa trước khi xét đơn nghĩa là rút giàn
khoan giữ nguyên trạng. Điều kiện là bên yêu cầu phải chứng minh được
tính cấp thiết của biện pháp phòng ngừa. Trung Quốc rất giảo hoạt chỉ
giới hạn ở đâm va chưa có đổ máu chiến sự. Cuộc đấu tranh của Việt Nam ở
đây là nhằm mục đích bẻ gãy ý chí của Trung Quốc không cho kéo giàn
khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Tư Chính hay 9
lô miền Trung. Nhưng ra Tòa, không thể nói ý định chính trị vì đây là
vụ kiện pháp lý mà phải chứng minh có tổn hại vật chất.
Thứ
hai là thời gian xem xét của Toà nhanh cũng một vài tháng. Vụ
Philippines kiện Trung Quốc, tháng 2 năm 2013 đưa đơn ra Tòa đến
30/3/2014 nộp bản memoire, Tòa yêu cầu Trung Quốc nộp bản phản bị vong
lục trình bày quan điểm của mình trước ngày 15/12 nghĩa là mở cho Trung
Quốc tham gia nhưng Trung Quốc không tham gia. Có nghĩa là thủ tục một
vụ kiện từ 18-22 tháng, Tòa mới bắt đầu xét phiên có thẩm quyền hay
không.
Giàn
khoan có thời hạn hoạt động theo công bố 15/8/2014 lúc đó tàu và giàn
khoan đã rút, Toà có thể nói đối tượng kiện không còn nên hủy vụ kiện
(giống như trong vụ thử vũ khí hạt nhân 1974 giữa Pháp, Newzeland, Úc).
Khi ta làm xong hồ sơ thì cũng là thời điểm họ rút. Khi đó Trung Quốc
đương nhiên cho rằng không còn đối tượng xem xét nên bác đơn. Nếu kiện
Việt Nam phải kiện ngay từ những ngày đầu, song lúc đó lại vướng phải
điều kiện thứ 3 chưa hoàn thành.
Thứ
ba là ta phải chứng minh đã sử dụng hết các biện pháp đàm phán hoà
bình. Hiện Trung Quốc rất xảo trá, họ không dồn đến cùng vẫn nói là sẵn
sàng đàm phán nhưng lại không chịu nhận đàm phán với ta. Mức giao thiệp
hai bên mới ở mức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, còn chưa đến mức Thủ tướng
hay Tổng bí thư.
Việt
Nam và Trung Quốc lại còn Thỏa thuận nguyên tắc về các vấn đề trên biển
mới ký 2012 trong đó thỏa thuận sẽ đàm phán song phương để giải quyết
các bất đồng đối với các vấn đề song phương, đàm phán đa phương đối với
các vấn đề đa phương. Ngoài ra, cũng phải tính đến khả năng Trung Quốc
đưa lý luận vu cáo ta sử dụng lực lượng quân sự vì cảnh sát biển hiện
thuộc Bộ Quốc phòng, nếu nó được tách ra là một lực lượng dân sự như
những nhà phác thảo Pháp lệnh Cảnh sát biển 1998 ban đầu dự tính thì tốt
hơn. Toà cũng có thể khuyến cáo quay về thủ tục hoà giải bắt buộc
nghĩa là hai bên đàm phán quay lại từ đầu.
Đòn tấn công của Trung Quốc
Điều
cần lưu ý là tại sao phải sửa soạn cẩn thận, tức là phải chấp nhận
những gì đã thật sự xảy ra và có phương pháp đối phó. Về kiện chủ quyền,
Việt Nam có nhiều điều phải lo, bởi vì Trung Quốc có nhiều nguồn tài
liệu chứng tỏ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhường Hoàng Sa cho Trung
Quốc.
Những
gì Trung Quốc nói hôm nay, họ đã đăng trong tài liệu của họ năm 1980,
trên Beijing Review (lúc đó là tờ báo chính thức duy nhất của Trung Quốc
bằng tiếng nước ngoài) và được lặp lại ở nhiều nơi khác, có thể coi ở ĐÂY.
Tiếng Tàu gọi Hoàng Sa là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa là Nansha (Nam Sa).
Những điểm chính trong tài liệu trên:
- Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng in cả trên báo Nhân Dân (Bản đăng này đã có trên internet).
- Báo Nhân dân VN đăng luật về hải phận của Trung Quốc.
-
Các phát biểu của ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao VN và một
cán bộ khác về Hoàng Sa/Trường Sa là của Trung Quốc trong cuộc họp ở Hà
Nội.
-
Bản đồ World Map của Việt Nam (1960) do cục Bản đồ (thuộc Bộ Quốc phòng
VN) xuất bản ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Tàu và đóng ngoặc là của
Trung Quốc.
- Bản đồ World Atlas năm 1972 của Văn phòng Thủ tướng ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Trung (Có in lại trong tạp chí này).
-
Sách giáo khoa Địa lý lớp 9 năm 1974 do Bộ Giáo dục xuất bản, ghi Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc (đã được Trung Quốc mới đây chụp và đưa
lên internet).
Và
họ lý luận là cho đến 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc. Với những tài liệu như thế thì khó lòng
bác bỏ được họ về lập trường của VNDCCH. Ngoài ra có thể có những tài
liệu quan trọng khác mà Trung Quốc chưa đưa ra.
Để phản bác thì phải chấp nhận:
- Nước có hai quốc gia trước năm 1975: VNDCCH và VNCH.
-
VNCHXHCNVN là nước kế thừa, không cần phải thừa kế hiệp định/lời hứa
nhường lãnh thổ. Bài viết của TS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt “Công
ước Kế tục quốc gia đối với Hiệp ước 1978” là theo hướng này. Nhưng họ
chỉ là chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra vấn đề chứ còn lập luận đứng
vững hay không phải cần chuyên gia thật sự về luật này và các luật quốc
tế khác.
Kiện HS 981 chỉ là tình huống – lâu dài phải kiện đường lưỡi bò
Kiện
HS 981, Việt Nam có thể đạt được thắng lợi để tuyên truyền mục đích
chính nghĩa về Việt Nam nên Trung Quốc sợ không dám ra toà, động viên
được nhân dân chung sức một lòng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Nhưng kiện chỉ để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981 thì là mục tiêu quá
hẹp. Việt Nam cũng phải có biện pháp phương án lường trước các đòn thù
xấu chơi của họ nhất là trong lĩnh vực kinh tế .
Việt
Nam cũng phải chuẩn bị cả những tình huống nảy sinh tiếp theo, những
cái ta không mong muốn như Toà sẽ phê phán cả Việt Nam và Trung Quốc,
xét không chỉ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà cả các ứng xử tiếp
theo như báo Nhân Dân, Bản đồ của Cục bản đồ, sách giáo khoa trong quá
khứ, v.v. mà ta đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc. Đó là một suy
nghĩ văn minh nhưng với công chúng thì chưa hẳn đã thông.
Bây
giờ Liên Hiệp Quốc đứng ra giúp đàm phán thì Việt Nam phải nhanh chóng
hoan nghênh. Nhưng Liên Hiệp Quốc không có trách nhiệm giải quyết tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ mà chỉ khuyến cáo hai bên đàm phán. Điều đó có
nghĩa là còn có những biện pháp hòa bình khác mà các bên chưa tận dụng
hết. Và ngay từ giai đoạn thủ tục, nếu ta không hội đủ ba điều kiện thì
việc kiện HS 981 chưa chắc đã là một điều hay khi Tòa tuyên không có
thẩm quyền.
HS
981 là một hiện tượng, còn đường lưỡi bò 9 đoạn mới là lâu dài. Chẳng
lẽ hôm nay họ kéo đến đây ta kiện, ngày mai họ kéo đến kia ta lại kiện,
sẽ dễ bị nhàm. Kiện là một giải pháp pháp lý cần thiết và đối tượng kiện
phải là đường lưỡi bò. Chúng tôi cho rằng phải kiện, còn khi nào nộp
đơn thì phải sửa soạn kỹ lưỡng. Nếu không tham gia sẽ bị cho là bỏ lỡ cơ
hội. Không tham gia sẽ đánh mất lòng dân và khó giải thích với cộng
đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng không tham gia thì nếu sau này sử dụng
biện pháp pháp lý thì Tòa sẽ cho rằng anh không có quan tâm nên coi như
đã từ bỏ. Tuy nhiên, khi xem xét dù các bên vắng mặt Tòa cũng phải chú
trọng đến quan điểm của họ. Chỗ này sẽ phải chờ đến bản lĩnh của lãnh
đạo và các tính toán về chính trị, kinh tế chứ không đơn thuần là pháp
lý nữa.
Mặt
thuận: VN có cơ sở pháp lý lâu đời, kêu gọi được sự ủng hộ quốc tế, đáp
ứng được tình cảm nhân dân trong ngoài nước và quốc tế, tài liệu chuẩn
bị những năm qua có thể tương đối. Tuy nhiên cũng cần điểm qua khả năng
và các hạn chế để có phương án đối phó.
Điều khó nhất là Trung Quốc không chấp nhận ra Toà.
Sẽ có hai nội dung kiện a) Về chủ quyền b) Về các quyền sử dụng biển theo UNCLOS.
Nếu Trung Quốc chấp thuận ra Tòa
Trung
Quốc có hạn chế chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa bằng vũ lực. Việt Nam có
lịch sử quản lý Hoàng Sa mạnh từ thế kỷ XVII đến 1858. Từ 1858 đến 1925
khi Pháp quay lại công nhận chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa là một
khoảng lặng. 1946 sau chiến tranh Pháp quay lại chiếm nhóm phía đông còn
Tưởng Giới Thạch trước đó ở nhóm Tây. 1956 Trung Quốc đuổi Tưởng Giới
Thạch chiếm phía Tây cả VNCH và VNDCCH không có ý kiến!?
Từ
1956 đến 1974 mới có sự lên tiếng từ VNCH và Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam. Trong thời gian 1956 đến 1975 VNDCCH cũng có
một số động thái không có lợi như đã nói ở trên.
Nếu Tòa có thẩm quyền, không phụ thuộc mong muốn các bên, theo các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng sẽ có những khả năng sau:
1. Toà tuyên có lợi cho cả hai bên. Trung Quốc trả lại nhóm phía Đông đánh chiếm bằng vũ lực cho Việt Nam.
2. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng vùng biển xung quanh sử dụng chung như trường hợp của Na uy và Island sau Thế chiến II.
3. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng quần đảo chỉ có vùng biển hạn chế.
4. Quần đảo thuộc Trung Quốc có đủ đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
5. Quần đảo hoàn toàn thuộc Việt Nam.
Trong trường hợp TQ từ chối thẩm quyền về xét xử chủ quyền lãnh thổ
VN
buộc phải lựa chọn Tòa nào có thể thụ lý vụ kiện khi chỉ có một bên đơn
phương đưa ra và chỉ về sử dụng vùng biển. Trung Quốc cũng không có
trách được vì họ gây hấn HS 981 trước. Không thể nói VN theo Mỹ vì VN đã
cố gắng chứng minh mong muốn đàm phán, thậm chí còn nhờ đến cả Liên
Hiệp Quốc, điều mà Philippines chưa làm hết. Chỉ có toà trọng tài luật
biển ITLOS với Phụ lục VII cho phép một bên đưa ra và câu hỏi chỉ là
giải thích và áp dụng công ước luật biển. Đây là cách Philippines áp
dụng. Trung Quốc đã bảo lưu các vụ kiện liên quan đến chủ quyền, phân
định theo Điều 298.
VN
có thể áp dụng Điều 279 về hòa giải bắt buộc nhưng cũng sẽ khó khăn. Vụ
HS 981 nếu đơn phương đưa giàn khoan vào vùng biển tranh chấp là hành
động đáng bị lên án. Muốn xác định vùng tranh chấp lại phải giải quyết
vấn đề chủ quyền. VN không từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa còn Trung
Quốc cho rằng Hoàng Sa thuộc họ không có tranh chấp. Vị trí giàn khoan
cách Lý Sơn 120 hải lý, cách Hải Nam 180 hải lý tạo thành vùng chồng
lấn. Còn nếu Phú Lâm có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì khoảng
cách 80 lý. Vì vậy Trung Quốc cho rằng nếu Hoàng Sa thuộc họ vùng biển
giàn khoan thuộc họ.
Tuy
nhiên, Trung Quốc có điểm yếu sử dụng vũ lực chiếm Hoàng Sa phi pháp
nên Việt Nam không chấp nhận. Ngoài ra, còn vấn đề quy chế đảo đá.
Triton chắc Toà sẽ cho chỉ có 12 hải lý. Nhưng Phú Lâm từ thời Pháp đã
có người sinh sống nên dễ có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nếu giả
thiết đảo không thuộc VN (đây là điều không muốn nhưng chỉ nêu ra để
tính), đảo sẽ có một phần hiệu lực 1/4, 1/3, 1/2… đường phân định thì vị
trí giàn khoan có thể rơi vào phần đường trung tuyến phía Việt Nam (Cái
này phải có sự kết hợp giữa chuyên gia Luật biển và chuyên gia bản đồ
để tính toán. Đây là điều công chúng cũng ít phát biểu đến). Các vấn đề
này cuối cùng vẫn quay lại chủ quyền và Tòa không có thẩm quyền. Toà chỉ
sử dụng Điều 279 khi có khác biệt về giải thích và áp dụng các bên sẽ
quay về áp dụng Phụ lục II hoà giải bắt buộc, tức các bên lại ngồi đàm
phán.
Theo
quan điểm luật quốc tế và định nghĩa quốc gia phải hội đủ 4 yếu tố:
lãnh thổ, dân cư, chính quyền và khả năng chủ thể thì dù về mặt chính
trị các bên có tranh cãi Nam Bắc là một mối, sự tồn tại de facto VNDCCH
và VNCH trong một hoàn ảnh đặc biệt là điều khó có thể phủ nhận. Công
ước này bàn về các trách nhiệm và nghĩa vụ kế thừa giữa hai quốc gia
trong các mặt hiệp định, vay nợ, lưu trữ… nhưng vấn đề biên giới lãnh
thổ không thuộc diện điều chỉnh của Công ước. Năm 1976 Quốc hội đã thông
qua bầu cử thành lập CHXHCNVN trên cơ sở VNDCCH và Chính phủ Cách mạng
lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là bên thừa kế các vấn đề lãnh thổ
của cả hai thực thể trước.
Vấn
đề ở đây lại là “bên thắng cuộc” như mọi người ngầm hiểu là VNDCCH
trước kia lại có lập trường “thụ động” trong các tuyên bố chủ quyền. Tòa
sẽ cho phép CHXHCNVN chọn lấy những gì tốt nhất cho mình hay phải kế
thừa cả mặt tích cực và tiêu cực của những hành động trong quá khứ. Đâu
là thời điểm kết tinh tranh chấp… Đó là những vấn đề rất khó tiên lượng
Tòa sẽ phán quyết thế nào.
Trường
hợp kiện Trường Sa thì Tòa có thể gộp vụ kiện của Philippines với vụ
kiện của Việt Nam do có cùng đối tượng kiện là đường lưỡi bò. Kiện cả
Hoàng Sa – Trường Sa cũng có những vấn đề tương tự
Tuy
nhiên, cũng không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể tính đến việc rút
khỏi UNCLOS. Làm vậy họ cũng mất uy tín nhưng họ sẽ bất chấp.
Lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn
Chuẩn
bị tốt cho các vụ kiện Việt Nam cũng phải thống nhất nội bộ về quy chế
pháp lý của đảo và đường cơ sở phù hợp với Công ước luật biển. Ngoài ra,
khi quyết định, không chỉ đơn thuần pháp lý mà phải hiểu pháp lý là một
vũ khí, một biện pháp nhằm tác động tới cái đích cuối cùng là chính
trị.
Bàn
cờ chính trị thế giới đang thay đổi với sự đi lên của Trung Quốc, sự đi
xuống hay ngang của Mỹ, sự trở lại của Nga. Biển Đông đang dần trở
thành vũ đài giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. Ai cũng muốn độc tôn
và lôi kéo liên minh. Hiện Việt Nam đang vất vả chống Tàu. Sắp tới nếu
Mỹ, Nhật, Philippines đồng ý thành lập một liên minh chống Trung Quốc
thì Việt Nam có tham gia không? Nếu xảy ra chiến sự thì họ sẽ làm gì, sẽ
giúp vũ khí để Việt Nam chiến đấu? Lịch sử cho thấy mỗi khi Việt Nam
nghiêng về một cường quốc nào thì chính Việt Nam phải chịu biết bao đau
thương, mất mát.
1954-1975
chúng ta tự hào trên tuyến đầu của CNXH chống Mỹ, 1979 Việt Nam ký Hiệp
định liên minh với Nga và chịu trận trên biên giới Việt-Trung. VN đồng
thời phải giải quyết hai yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo đảm
môi trường hòa bình, ổn định để tăng cường tiềm lực bảo vệ và xây dựng
tổ quốc. Làm thế nào để thoát thế kẹt giữa hai siêu cường?. Một quyết
định dựa trên cân nhắc đầy đủ các thông tin, tình thế, vận mệnh dân tộc
buộc những người lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn.
Nhìn
ra bên ngoài, dù không ở trong tình trạng cấp thiết như VN nhưng
Mailaysia đã xử lý rất tốt trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Malaysia
vừa kiên quyết với Trung Quốc vừa công nhận vai trò đi lên của Trung
Quốc nhưng đó phải là sự đi lên với trách nhiệm của một cường quốc, chứ
không phải là kẻ lớn bắt nạt nước bé.
Trong
khi chờ quyết định kiện, cũng nên thấy VN đã hành động đúng khi chỉ cho
cảnh sát biển và kiểm ngư ra đấu tranh tuyên truyền buộc Trung Quốc rút
khỏi giàn khoan. Trong những ngày đầu tiên tàu Kiểm ngư VN còn dùng
súng nước bắn trả nhưng những ngày sau VN đã xác định chỉ dùng biện pháp
hòa bình. Ngoại giao VN đã có những hoạt động đáng kể, dù hai bên đã
cáo buộc nhau lên Liên Hiệp Quốc, đều đã tung ra các lập luận, bằng
chứng của mình. Có thể coi gần như một cuộc tập dượt kiện nhau ra Tòa.
Sự kết hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý và thực địa là một giải pháp
tốt. VN đã lựa chọn chiến thuật, cách đối phó phù hợp với lực của mình,
lấy yếu chọi mạnh, lấy nhàn hạ chọi kẻ nôn nóng.
Vụ
HS 981 này, VN cần kiên trì quấy đảo. Trung Quốc sẽ không rút ngay vì
sợ mất thể diện, trừ khi có điều kiện bất khả kháng như bão hoặc họ
tuyên bố hoàn thành mục tiêu trước thời hạn. Đẻ lâu họ cũng mệt mỏi vì
chi phí giàn khoan và hơn 130 tàu là rất lớn dù họ giàu. Họ sẽ thay đổi
chiến thuật, sử dụng tàu cá vỏ sắt nhiều hơn để thay thế. Việt Nam kiên
trì thực địa kết hợp đấu tranh và tuyên bố kiên quyết đưa ra tòa án quốc
tế là hay nhất. VN có thể yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Ủy Ban điều tra hoà
giải. Uỷ ban chỉ có tính khuyến nghị nhưng là biện pháp hai bên có thể
chấp nhận trong tình hình hiện nay.
Hy
vọng trong những lúc nguy nan, trí tuệ Việt Nam bao giờ cũng tìm được
đường ra. Một giải pháp chiến tranh không ai muốn nhưng nếu cần thì Việt
Nam chắc cũng sẵn sàng. Việt Nam sẽ là bên chịu tổn hại kinh tế nhiều
nhất nhưng lâu dài Trung Quốc sẽ mất thế chính trị và sa lầy trong cuộc
chiến, hủy hại giấc mơ Trung Hoa của họ. Một cuộc chiến tranh du kích
trên biển là tốt nhất với Việt Nam. Một nhóm cướp biển Xomali với tàu
nhỏ cao tốc và AK mà bao năm nay thế giới có khống chế được đâu. Với
chiều dài bờ biển của mình, Việt Nam có thể bố trí tên lửa và thủy lôi,
mìn dày đặc, đánh mạnh vào các đoàn tàu vận tải dầu. Một chiến thuật như
Trần Khánh Dư diệt đoàn thuyền lương Trương Hổ vậy. Lịch sử cho thấy
chưa bao giờ Trung Quốc bước qua được Việt Nam để xuống phía Nam bằng vũ
lực. Nếu Trung Quốc nghĩ lại thì hai bên bắt tay nhau chung sống hòa
bình. Việt Nam công nhận vai trò cường quốc châu Á của Trung Quốc trên
cơ sở họ tôn trọng độc lập của Việt Nam.
Sẽ
rất cần tìm cách để chúng ta “thoát lú” và hữu nghị viển vông, an toàn
bằng tất cả các biện pháp cần thiết bao gồm cả ngoại giao và pháp lý.
Tin rằng, chúng ta sẽ thắng và giải pháp pháp lý cần phải xúc tiến ngay
trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng.
Thay cho lời kết
Đọc
Kim Dung “Thiên long bát bộ” nhớ lại ván cờ vây trên đỉnh Thiên sơn của
Tô Tinh Hà. Bao nhiêu cao nhân anh hùng trong thiên hạ được mời đến đều
phải bó tay trước nước cờ bí hiểm và đầy huyền thoại này. Người giải
được nước cờ này cuối cùng lại là một nhân vật rất bình thường, một tiểu
tăng không tên tuổi của phái thiếu lâm Hư Trúc. Nhân vật này không phải
là cao thủ chơi cờ và vô tình đã gạt bỏ được những nguyên lý tri thức
cao siêu “viển vông mơ hồ” của cờ vây để đi một nước cờ rất sơ đẳng và
hết sức bình thường mà chẳng cao nhân nào nghĩ tới. Chính lối chơi này
đã phá được nước cờ vây bí hiểm một cách thần kỳ và ngoạn mục. Phải
chăng trong chuyện này, Kim Dung muốn nhắc tới một nguyên lý cơ bản, trí
tuệ nhân dân và cơ hội lịch sử sẽ tạo nên sự thần kỳ.
Nguồn: Boxit.vn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét