Khổng - ổn định trật tự xã hội bằng Tam Cang Ngũ Thường.
Lão - tìm chốn bình an cho những ai có khuynh hướng siêu thực, vô vi.
Phật – dung hợp cả nhập thế và xuất thế: -Thế gian pháp tức Phật Pháp. Tam giáo đồng hành không hề có ở bất cứ quốc gia nào như thế. Phật giáo cũng dung hợp với Thần Đạo ở Nhật, tại Việt Nam cũng dung hòa các tín ngưỡng nhân gian, thoạt nhìn như là mê tín, nhưng chẳng vì thế mà đánh mất giá trị thật của nhà Phật.
Về phương diện truyền đạo, các Linh Mục rao giảng trích đoạn từ kinh Thánh, có lúc dùng hiện trạng xã hội làm chủ đề để nói chuyện, nặng về đức tin và tín lý, tùy mỗi mùa lễ như lễ “lá”, mùa chay, mùa “phục sinh”, mùa Giáng Sinh... lối truyền giảng như thế trở thành lối mòn quen thuộc. Tuổi trẻ không còn hứng thú tiếp thu.
Thời xa xưa, Kito giáo La Mã cũng có một số ít linh mục ẩn tu để tĩnh tâm, chiêm niệm Thượng đế, đến một lúc tâm an định, trí phát sanh (minh sư tự tánh hay còn gọi là hội nhập với Thượng đế) tự biết được con đường tâm linh phải chọn. Giai đoạn nầy không còn thuộc về tín ngưỡng tôn giáo mà chỉ còn trạng thái tâm linh, bất cứ ai, dù không tôn giáo ở vào trạng thái nhập định đều phát sanh ánh sáng trí huệ, hoặc đôi khi xuất thần, (chưa phải giác ngộ toàn triệt); nếu tà pháp cũng phát sanh trí của tà pháp. “thánh Phao-lô có lẽ là nhân-vật thực-hành tuyệt-hào lối sống chiêm-niệm kiểu ‘Thiền trong đạo Chúa’ đầu tiên, trong thời-gian ngài vào sa-mạc để ‘tĩnh-tâm’ 3 năm liền.”
Tuy nhiên, vì chưa có một pháp hành đúng đắn và chưa có minh sư (vị thầy có kinh nghiệm và khả năng tâm linh cao) hướng dẫn, nên số thành tựu quá ít, những vị thành tựu bước đầu như thế hoặc do túc duyên tiền kiếp đã tích lũy công đức tu tập hoặc may mắn do phúc báu mà tâm an định nhập luồng huệ trí do tuyến Tùng hé mở. Hầu hết, tu sĩ và tín hữu tĩnh tâm chiêm niệm như một thành tâm hướng đến một đối tượng (Thượng đế) theo nghi thức của Tôn giáo.
Trước năm 1970, một số linh mục Pháp được một linh mục Việt Nam hướng dẫn đến tham bái và nghe Hòa Thượng Thanh Từ giảng tại thiền viện Chân Không – Vũng Tàu.
- Riêng linh mục người Việt vẫn thường xuyên nhập chúng để học Thiền với Hòa Thượng.
- Trên thế giới, rất nhiều tu sĩ Thiên Chúa Giáo tìm hiểu, nghiên cứu về Thiền, nhưng ít ai thâm nhập vào cốt tủy của Thiền, vì còn vướng vào định kiến tôn giáo.
- Rất nhiều linh mục người Việt trong đó có cha Hoàng Sỹ Quý cũng uyên áo (sâu xa) về Phật giáo, nhưng vẫn chưa là một Thiền sư đúng nghĩa.
- Một linh mục người Anh - Thomas Merton cũng ái mộ và hành Thiền, từng viết sách về Thiền, nhưng vẫn chưa vượt qua rào cản tín ngưỡng, vẫn phân biệt sự sai khác giữa Kito giáo và Phật giáo về đấng sáng tạo, đấng hằng hữu và ơn Thần Thánh.
- Hiện nay có một số Mục sư Tin Lành cũng đang say mê về Thiền. Tu sĩ các tôn giáo, các học giả trí thức, khoa học... đều đang hướng vào Thiền như một trào lưu thời trang. Chỉ có những ai can đảm bỏ tất cả kiến thức, tín ngưỡng để nhập vào một dòng tu chuyên biệt của Phật giáo mới hy vọng thâm đạt được một phần của Huệ giác hầu tiến đến Tuệ giác trọn vẹn.
Tu sĩ dòng Trappist thuộc Ca-tô La Mã
- Cũng từng có những tu sĩ lập đoàn khổ tu chuyên đi khất thực như giáo phái Khất sĩ của Việt Nam. Kito giáo vẫn có những mẫu người thánh thiện, nhưng thánh thiện đó chưa hẳn đã chứng Thánh như linh mục Thư nói: Theo ngôn-ngữ Thiền thì Phao-lô đã thành Phật vì ngài đã đồng-hoá mình hòan-toàn với cái mẫu-mực tối-thượng mình đang tìm về.
Vâng, xét về đạo đức thế gian thì đó là lời chí Thánh của tôn giáo, nhưng để đạt đến đẳng cấp tâm linh thì không thể dính dấp đến tôn giáo, phải vượt thoát mọi tín lý, thần tượng, ngôn ngữ. Chính vì thế, mặc dù cha Thomas Merton đã sử dụng Thiền cho việc tĩnh tâm chiêm niệm, ngài vẫn biết Thiền không nằm trong bất cứ khuôn khổ nào, nên ngài xem Thiền là chất dầu và giáo lý Kito là nước – không thể hòa chung, nếu thế, cho dù việc khổ tu của ngài để tĩnh tâm chiêm niệm cũng chỉ thăng hoa tín ngưỡng mà khó thoát khỏi nhị đế để đạt đến đỉnh Tuệ giác. Lời ca của Thánh Phanxico còn nằm trong đối đãi của hai mặt một cuộc sống. Đã là đối đãi luôn là đối đãi, không thể nhị đế dung thông làm sao vượt thoát theo tinh thần Thiền? Thế mà, có người bênh vực trong Kito giáo vẫn có Thiền.
Thực ra sự tĩnh tâm chiêm niệm do Thánh An Tôn khai sáng sau nguồn Thiền Phật giáo khá lâu, mà tĩnh tâm theo Phật giáo là chỉ, nếu chỉ mà thiếu quán thì chưa đủ tầm của Thiền. Một số nhà Tu Đức của Kito sau khi nghiên cứu Thiền, đem cặp kính Thiền soi rọi vào giáo lý Thần học thì mới thấy được khía cạnh triết lý mang tính Thiền vị mà họ gọi là Thiền đã có trong Kito giáo từ lâu. Cha Merton còn dùng tư-tưởng của thánh Phao-lô diễn-tả Đức Ky-tô đã “tự hủy mình đi’ để xuống trần cứu chuộc loài người. Nó có thể là mẫu-mực để trưng-dẫn hình-ảnh người tu Thiền lúc làm mình tan-biến vào vũ-trụ”. So dẫn như thế có vẻ miễn cưỡng, đúng về biểu tượng nhưng khác xa về thực chất. Nếu “hủy mình để xuống trần cứu chuộc loài người” tạm xem là xả kỷ (bản ngã) nhập thế, thì hình ảnh “người tu Thiền tan biến vào vũ trụ” tạm gọi là thoát ly ngã chấp (vô ngã). Hủy mình chưa hẳn là vô ngã, đức hy sinh tạm thời quên cái ngã vì tha nhân khác với chuyển hóa phàm ngã để hiển lộ Phật tánh (tánh giác).
TÌM THIỀN TRONG ĐẠO CHÚA - Lm. Giuse Nguyễn văn Thư trong sách đã có cái hiểu chưa đúng với tinh túy Phật giáo, tuy đúng trên văn nghĩa. Ví dụ, L.M. viết:
“Giáo-lý Phật dạy đường tìm đến hạnh-phúc và giải-thóat - bởi vì tất cả đời người chỉ tòan là khổ-đau. Qua Tứ Diệu Đế (4 chân-lý nhiệm-màu), ta được yêu-cầu phải triền-miên đi tìm tiêu-diệt lòng Dục để mong hết khổ.”
Dục làm sao mà tiêu diệt được, mong cầu tiêu diệt cũng là một loại dục, dù dục thiện hay bất thiện đều là dục thì làm sao thoát khổ??? Chưa nói tới “triền miên” đi tìm tiêu diệt lòng dục, cứ như hăng say truy lùng diệt địch, còn hăng say là còn vọng động, còn vọng động thì sao Thiền được? Theo tinh thần nhà Phật thì chuyển hóa chứ không tiêu diệt thì làm gì có chuyện triền miên đi tìm để tiêu diệt lòng dục!
L.M. Giuse Nguyễn văn Thư lại viết:
“Bình thường, người ta hiểu Tọa-thiền là ngồi nhắm mắt, tập-trung đầu óc để hết còn dính mắc vào bất cứ chuỵên gì. Từ bậc Sơ Thìền giúp ta hết lo lắng, đưa tới bậc Nhị Thiền khiến tâm-trí không còn bóng-dáng khổ-não, rồi vào bậc Tam Thiền để khơi được lên niềm sướng vui nội tại, và cuối cùng là bậc Tứ Thiền cho phép mình từ từ thoát ra khỏi cái vòng Luân-hồi giăng lưới tứ bề.
Bốn nấc thang đó lần lượt giúp chúng-sinh tìm thấy cõi Hư-Vô, tạo nên thế-giới Cực-lạc. Sẽ chẳng còn cảnh Đầu-thai phiền-phức và cũng chẳng còn câu-chuyện u-mê gây khổ-lụy nữa.”
- Cách Thiền và Tứ Thiền mà L.M. Giuse Thư dẫn giải có vẻ xa lạ với Phật giáo. Quả vị tứ Thánh quả không đơn giản như L.M. nghĩ, dễ như thế thì đã thành Phật hết trơn. Lên khỏi 4 nấc thang để tìm thấy cõi Hư vô như L.M. nói thì bỏ công một đời tìm đến chốn hư vô để làm gì?
L.M. Thư lại quan niệm Thiền là: “Sau đó đi vào thói quen tham thiền thường-xuyên, tạo tâm-tư trống-rỗng, đem tới tình-trạng hòa mình cùng chân-Phật, hưởng phút giây an-nhiên tự-tại.”
Cái Hư vô và trống rỗng của L.M. Thư chỉ là Thiền của L.M. Thư chứ không là Thiền của nhà Phật; hoặc là: “Đầu óc ta, tuy-nhiên, không mãi chỉ trống-rỗng và tiêu-cực như khi Thiền Phật, nhưng dần dà được đổ đầy bằng tình yêu-thuơng vô bờ của Chúa”.
- Về nhân quả, L.M. cũng hiểu không đúng: “mọi người đều có thể vươn lên để xóa sổ đen từ nhiều kiếp trước, qua phương-thức Thiền”.
Kinh sách không nơi nào cho thấy Thiền có thể xóa nghiệp. Hành giả thành tựu chỉ có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, Đức Bổn sư vẫn có thân bệnh, đau đầu, thì Thiền làm sao xóa sổ đen của chính mình?
- L.M. cũng hiểu sai về lịch sử truyền thừa Phật giáo: “Nói tổng-quát, vì Phật-giáo được truyền qua Việt-nam nhờ ngả Trung-hoa, nên chúng ta theo dõi và hiểu Thiền theo cái nhìn Đại-thừa gọi là Bắc tông hay Đại-chúng”.
Theo giáo sử của Lê Mạnh Thát và một số sử gia thì Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung Hoa, ngay cả Luy Lâu, Trung Tâm Văn Hóa Phật giáo Việt Nam cũng xuất hiện sớm hơn Bành Thành – Lạc Dương Trung Quốc. Sở dĩ Đại thừa ảnh hưởng sâu đậm tại Việt Nam, vì Phật giáo được truyền từ Phương Bắc, giao lưu văn hóa giữa hai khu vực lân cận ảnh hưởng nhau là chuyện bình thường. Campuchea, Lào, Myanmar, Srilanka, Thái... là những quốc gia chịu ảnh hưởng Phật giáo truyền từ phương Nam, tuy Campuchea cận kề Việt Nam, nhưng thuở xa xưa, biên giới hai nước vẫn còn xa tít.
- L.M. Nguyễn văn Thư cũng có nhiều so sánh giữa trạng thái Thiền Phật giáo và tín lý công giáo không được chính xác: “Được thành một phần-tử của gia-đình Chúa Ba Ngôi, sau khi được ban quyền làm nghĩa-tử, được nên giống như Ngài. Bên Thiền-học gọi là thành Phật.
Trở về nguồn gốc của câu truyện sáng-thế và việc ông bà nguyên-tổ phạm tội, ta có thể hình-dung trường-hợp A-dong và E-và chưa mất ân-sủng với Chúa, lúc đó họ chính là một thứ thần thánh, hòan-tòan tỉnh-thức và giác-ngộ. Việc này cho phép ta đôi chút về cái mục ‘thành Phật’ của câu chuyện Thiền”. Hoặc là: “Chính sự chênh-lệch này đòi ta có thái-độ hoàn-tòan cởi-mở, buông-lỏng và mang tính-cách thụ-động gần như bên nhà Thiền”.
Việc nghiên cứu so sánh Thiền với điển tích trong Thánh kinh là việc làm khiêng cưỡng của các học giả, mục đích chứng minh triết Thần học cũng mang hình ảnh Thiền - là người đã được trang bị triết học Phật giáo chiếu rọi vào giáo lý Cơ đốc giáo để thăng hoa tính triết lý. Tuy nhiên, các ngài Thần học cũng phải xắn tay nhập cuộc vào không gian Thiền mới rút tỉa được tính uyên áo và kỷ thuật siêu tuyệt từ Phật giáo.
L.M. Hoàng Sỹ Quý cũng như các nhà tu đức của Kito giáo từng bảo: “Nhờ học hỏi nơi Thiền, tôi đã thấy việc cầu-nguyện cũng như suy-niệm của tôi mỗi ngày mỗi đơn-giản, dễ dàng và kết-quả hơn. Dĩ nhiên tôi chỉ muốn đề cập tới phần phương-pháp và hình-thức. Người theo Phật khi thiền sẽ tìm thấy những điều linh-thiêng khác hẳn với tôi.”
Như vậy, từ kỹ thuật Thiền của nhà Phật, các tu sĩ Thiên Chúa giáo áp dụng để thăng hoa cùng Chúa trong việc chiêm niệm chứ không có mục đích giải thoát, vì dưới nhãn quan Thần học – giải thoát đồng nghĩa chối bỏ Chúa.
Tóm lại, L.M. Thư chỉ hiểu đạo Phật trên sách vở, hiểu Phật giáo qua lăng kính Thần học, nên còn quá nhiều sai sót về Thiền nói riêng và về Phật giáo nói chung.
Có điều mâu thuẫn chăng với 10 điều răn khi cha Hoàng Sĩ Quý đề nghị:
“Cha Sỹ-Qúy có nêu lên một cách Thiền bắt chước các anh chị em Phật tử khi liên-tục niệm lời ‘Nam mô A di đà Phật’: Sau khi ngồi thanh-thản và thở cho đều-đặn nhẹ-nhàng, ta bắt đầu đọc nhẹ tên Giê-su, hoặc chỉ nhẩm thầm trong trí, bằng tất cả lòng thành-kính và phó-thác.” Một trong 10 điều răn là “không kêu tên đức Chúa Trời vô cớ”
Kito giáo áp dụng Thiền của nhà Phật cũng tốt, giúp cho các hành giả của Thần học hoàn thiện hơn về Tam độc và lòng từ ái, sống đúng nghĩa của một hành giả tâm linh, cho dù nhờ Thiền mà đến với Chúa một cách trọn vẹn. Lấy cái hay của người bù đắp cái thiếu của mình cũng là một việc làm hữu ích. Phật giáo đã giúp cho tôn giáo bạn một lối sống mới, một sinh khí mới cả về hành trì lẫn thuyết giảng mới thích nghi với mảnh đất phương Đông mà không cần thêm một Công Đồng Vatican III.
Linh mục Hoàng Sỹ Quý đã chân thật xác nhận:
Thế là, trong cái khung-cảnh của xã-hội ồn-ào náo-nhiệt ngày nay, chúng ta cùng nhau ‘mạo-muội’ (hay táo-bạo) đi tìm một lối đi ‘đại-kết tân-thời’: Mượn cái ‘bao’ (vỏ) của Thiền, với những kinh-nghiệm về phương-pháp và kỹ-thuật dồi-dào, rồi thay vào bên trong (cái ruột) bằng những nội-dung, những giáo-lý, những tâm-tình đạo Chúa.
Nói khác đi, ta dùng toàn chất-liệu căn-bản Ky-tô giáo được lồng trong cái hình-thức Thiền theo nhà Phật. Tất cả chỉ là mượn cách tập-trung hơi thở, định-hướng nội-tâm, học thế đứng ngồi… để tiến tới trạng-thái ‘tâm an thần định’. Nó còn kèm theo cách-thức làm chủ trí tưởng-tượng và mọi cảm-quan, trước khi tìm về bậc thuần-nhất và đơn-giản-hoá cái đối-tượng ta suy-niệm, và cuối cùng siêu-thoát, không còn thấy cái ta lẻ-loi nữa: Sẽ biến tan làm một với Chúa và trở thành hư không trước thánh nhan Chúa (bên Phật gọi là tới chỗ ‘định hư’).
Nói một cách hình tượng: bình mới, rượu cũ; hay dí dõm hơn: Hồn Trương Ba, da hàng thịt! Rất may, các Linh mục học và áp dụng Thiền trong lòng Chúa vào thời đại khoa học tiến bộ, nếu trước đây, thời Trung cổ sẽ bị buộc tội các cha theo phù thủy, tà pháp, tức khắc giàn hỏa sẵn sàng đón các cha.
Tuy nhiên, Linh mục Giuse Nguyễn văn Thư cũng xác nhận giá trị của Thiền: “Cái tin vui là truyền-thống Thiền đã gây ấn-tượng và ảnh-hưởng tích-cực không nhỏ qua bao thế-hệ. Nó đã từng là động-cơ phát-triển cho bao tổ-chức và cơ-sở Phật-giáo, nhất là tại Việt-Nam
(tìm lên nương-náu cửa Thiền!) Phương-thức và kỹ-thuật của Thiền quả thật cao siêu, không mấy ai tranh-biện hay chối cãi.”
Chính vì chỉ cần mượn kỹ thuật Thiền để làm vỏ bọc, nên L.M. Giuse Nguyễn văn Thư phạm phải nhiều sai sót về cốt tủy giáo lý, tinh túy Thiền hay học lý nhà Phật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét