Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

Đường Thiền Vào Lối Chúa!


Minh Mẫn

13-Oct-2012
Thiền-trong-Chúa, đó là ý hướng của một số linh mục đang cố tìm hiểu về Thiền của Phật Giáo để áp dụng vào đời sống tín ngưỡng tâm linh cho các tu sĩ và tín hữu Kito giáo hiện nay. (MM)
Người ta tự hỏi – tại sao Phật giáo thâm nhập vào mọi xã hội một cách dễ dàng mà không cần dùng bạo lực, cưỡng bức như Giáo Hội La Mã vào thời Trung cổ và một số Hồi giáo cực đoan hiện nay. Khi mà Lão và Khổng đã có một căn bản vững chắc xây dựng xã hội Trung Hoa trước kia, thế mà Phật giáo đã hữu hảo một cách tinh tế để xã hội Trung Hoa có đỉnh ba chân phục vụ đạo đức tâm linh xã hội.
Khổng - ổn định trật tự xã hội bằng Tam Cang Ngũ Thường.
Lão - tìm chốn bình an cho những ai có khuynh hướng siêu thực, vô vi.
Phật – dung hợp cả nhập thế và xuất thế: -Thế gian pháp tức Phật Pháp. Tam giáo đồng hành không hề có ở bất cứ quốc gia nào như thế. Phật giáo cũng dung hợp với Thần Đạo ở Nhật, tại Việt Nam cũng dung hòa các tín ngưỡng nhân gian, thoạt nhìn như là mê tín, nhưng chẳng vì thế mà đánh mất giá trị thật của nhà Phật.
I- Quá trình truyền nhập:
Kito giáo đến Việt Nam vào thế kỷ thứ 16 do các tu sĩ dòng Phanxico khai lập, nhưng có công phát triển là các linh mục dòng Tên. Nếu không có điều kiện giúp đỡ của những thể chế quyền lực trước kia thì Kito giáo Việt Nam cũng khó phát triển nhanh. Điều ràng buộc trong hôn nhân; các mặt khác như Từ thiện, giáo dục... cũng giúp Công Giáo La Mã có thêm tín đồ. Tuy nhiên, thời gian gần 6 thế kỷ, với số tín đồ 7% dân số tại Việt Nam như thế cũng chưa thể gọi là phát triển nhanh, do một số rào cản bởi giáo điều từ Hội Thánh. Rút kinh nghiệm sự khó khăn từ các quốc gia Châu Á, do không cùng văn hóa, tập quán khu vực, cộng đồng Vaticano II đã cải sửa một số điều để thích nghi và giảm bớt khó khăn cho số tín hữu bản địa. Hệ thống chặt chẽ, nhất quán đôi khi cũng thiếu linh hoạt và bất tiện. Trong khi đó, Tin Lành, các hệ phái đã sanh sôi nẩy nở khá nhanh, tuy chính thức có mặt tại Việt Nam vào thế kỷ 19, mặc dù cuối thế kỷ thứ 10 – hệ phái Cảnh giáo cũng đã đến nhưng chưa có hoạt động rõ ràng. Sau 1975, nhất là từ năm 1990, các vùng cao nguyên và Tây Bắc, số tín hữu Tin Lành phát triển như trăm hoa đua nở, lan truyền phổ biến trong cộng đồng sắc tộc thiểu số, kể cả đồng bằng Nam bộ. Sở dĩ được như thế do tính tự lập, không thuộc một tổ chức thống nhất như Công Giáo La Mã, họ tự trị và linh động truyền bá. Hệ phái Tin Lành có trên hai trăm tổ chức, 10 hệ phái chính thức được công nhận hiện nay tại Việt Nam. Trong số các Hội Thánh, có Hội Thánh tại gia, đi sâu vào quần chúng mà không cần nhà nguyện hay hình thức tổ chức của một tôn giáo. Mỗi hệ phái có một đường lối sinh hoạt riêng, mạnh nhất hiện nay là hệ phái phát xuất từ Nam Hàn, thông qua các công nhân hợp tác lao động và một số sinh viên hồi hương, thâm nhập vào các tầng lớp lao động nghèo và cư dân vùng quê; bước đầu họ được sự giúp đỡ tài chánh.
Về phương diện truyền đạo, các Linh Mục rao giảng trích đoạn từ kinh Thánh, có lúc dùng hiện trạng xã hội làm chủ đề để nói chuyện, nặng về đức tin và tín lý, tùy mỗi mùa lễ như lễ “lá”, mùa chay, mùa “phục sinh”, mùa Giáng Sinh... lối truyền giảng như thế trở thành lối mòn quen thuộc. Tuổi trẻ không còn hứng thú tiếp thu.
Vì thế, Trung Tâm Mục Vụ tại Sài Gòn đã mời Sư Cô Hương Nhũ và những giảng sư trẻ có tiếng, thường xuyên đến nói chuyện với các tu sĩ và giáo dân để tiếp thu kinh nghiệm truyền bá. Các giảng sư Phật giáo ít khi nào dùng từ chuyên môn hoặc đi sát chuyên đề một cách khô khan; phần lớn chuyển chủ đề qua lãnh vực tâm lý đạo đức xã hội, gần với thực tế đời thường, đã cuốn hút thính giả vào đạo đức nhà Phật một cách nhẹ nhàng.
II - Hành trì:
Về phương diện tu tập, tu sĩ và giáo dân chiêm niệm - tĩnh tâm là phương cách đến gần với Chúa. Chúa là đối tượng, là khách thể, tín hữu và tu sĩ là chủ thể, chủ thể hướng đến khách thể mong hiệp cùng Chúa, theo nhà Phật, làm như thế vẫn còn ranh giới giữa “khách” và “chủ” thể. Chiêm niệm và tĩnh tâm với cường độ miên mật, đôi khi cũng giúp cho chủ thể đạt đến trình độ tâm linh mà danh từ chuyên môn Phật giáo gọi là: Niệm- Định đưa đến Tuệ. Tức là chủ thể hòa nhập cùng khách thể. Đó là trạng thái thường có đối với một số vị tự tu trong Phật giáo, không thông qua pháp do thầy truyền đạt; do thành tâm nhiệt huyết và an định đưa đến phát sanh Huệ (nhưng chưa đạt đến Tuệ giác).
Thời xa xưa, Kito giáo La Mã cũng có một số ít linh mục ẩn tu để tĩnh tâm, chiêm niệm Thượng đế, đến một lúc tâm an định, trí phát sanh (minh sư tự tánh hay còn gọi là hội nhập với Thượng đế) tự biết được con đường tâm linh phải chọn. Giai đoạn nầy không còn thuộc về tín ngưỡng tôn giáo mà chỉ còn trạng thái tâm linh, bất cứ ai, dù không tôn giáo ở vào trạng thái nhập định đều phát sanh ánh sáng trí huệ, hoặc đôi khi xuất thần, (chưa phải giác ngộ toàn triệt); nếu tà pháp cũng phát sanh trí của tà pháp. “thánh Phao-lô có lẽ là nhân-vật thực-hành tuyệt-hào lối sống chiêm-niệm kiểu ‘Thiền trong đạo Chúa’ đầu tiên, trong thời-gian ngài vào sa-mạc để ‘tĩnh-tâm’ 3 năm liền.”
Tuy nhiên, vì chưa có một pháp hành đúng đắn và chưa có minh sư (vị thầy có kinh nghiệm và khả năng tâm linh cao) hướng dẫn, nên số thành tựu quá ít, những vị thành tựu bước đầu như thế hoặc do túc duyên tiền kiếp đã tích lũy công đức tu tập hoặc may mắn do phúc báu mà tâm an định nhập luồng huệ trí do tuyến Tùng hé mở. Hầu hết, tu sĩ và tín hữu tĩnh tâm chiêm niệm như một thành tâm hướng đến một đối tượng (Thượng đế) theo nghi thức của Tôn giáo.
Trước năm 1970, một số linh mục Pháp được một linh mục Việt Nam hướng dẫn đến tham bái và nghe Hòa Thượng Thanh Từ giảng tại thiền viện Chân Không – Vũng Tàu.
- Riêng linh mục người Việt vẫn thường xuyên nhập chúng để học Thiền với Hòa Thượng.
- Trên thế giới, rất nhiều tu sĩ Thiên Chúa Giáo tìm hiểu, nghiên cứu về Thiền, nhưng ít ai thâm nhập vào cốt tủy của Thiền, vì còn vướng vào định kiến tôn giáo.
- Rất nhiều linh mục người Việt trong đó có cha Hoàng Sỹ Quý cũng uyên áo (sâu xa) về Phật giáo, nhưng vẫn chưa là một Thiền sư đúng nghĩa.
- Một linh mục người Anh - Thomas Merton cũng ái mộ và hành Thiền, từng viết sách về Thiền, nhưng vẫn chưa vượt qua rào cản tín ngưỡng, vẫn phân biệt sự sai khác giữa Kito giáo và Phật giáo về đấng sáng tạo, đấng hằng hữu và ơn Thần Thánh.
- Hiện nay có một số Mục sư Tin Lành cũng đang say mê về Thiền. Tu sĩ các tôn giáo, các học giả trí thức, khoa học... đều đang hướng vào Thiền như một trào lưu thời trang. Chỉ có những ai can đảm bỏ tất cả kiến thức, tín ngưỡng để nhập vào một dòng tu chuyên biệt của Phật giáo mới hy vọng thâm đạt được một phần của Huệ giác hầu tiến đến Tuệ giác trọn vẹn.

Tu sĩ dòng Trappist thuộc Ca-tô La Mã
Sau khi nghiên cứu Thiền của Phật giáo, một số nhà tu đức của Kito đã thành lập dòng khổ tu chuyên Thiền theo Đông phương – đó là dòng Trappist, vì các ngài học được tính đơn giản của một hành giả, đơn giản từ cuộc sống vật chất đến tâm tưởng và đức khiêm cung, đó là đức nghèo khó, nhưng hầu hết hiện nay các linh mục Triều có cuộc sống khó mà nghèo!
- Cũng từng có những tu sĩ lập đoàn khổ tu chuyên đi khất thực như giáo phái Khất sĩ của Việt Nam. Kito giáo vẫn có những mẫu người thánh thiện, nhưng thánh thiện đó chưa hẳn đã chứng Thánh như linh mục Thư nói: Theo ngôn-ngữ Thiền thì Phao-lô đã thành Phật vì ngài đã đồng-hoá mình hòan-toàn với cái mẫu-mực tối-thượng mình đang tìm về.
III – Nghiên cứu:
Hiện nay, các tu sĩ Kito giáo nói chung nghiên cứu Phật giáo và Thiền khá công phu, nhưng cũng chỉ là học giả chứ chưa là hành giả đúng nghĩa. Vẫn có hành trì thực tập, nhưng mang theo trong tâm tưởng những tín lý mà theo nhà Phật gọi là sở tri chướng. Còn sở tri chướng là còn trong vòng nhị đế, cho dù nhị đế thánh thiện vẫn là sở tri chướng. Thánh Phanxico sáng tác nhạc phẩm nổi tiếng mà từ giáo dân đến hàng giáo phẩm đều xem là tuyệt thánh: “Lạy Chúa từ tôn, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem chân lý vào chốn lỗi lầm....”
Vâng, xét về đạo đức thế gian thì đó là lời chí Thánh của tôn giáo, nhưng để đạt đến đẳng cấp tâm linh thì không thể dính dấp đến tôn giáo, phải vượt thoát mọi tín lý, thần tượng, ngôn ngữ. Chính vì thế, mặc dù cha Thomas Merton đã sử dụng Thiền cho việc tĩnh tâm chiêm niệm, ngài vẫn biết Thiền không nằm trong bất cứ khuôn khổ nào, nên ngài xem Thiền là chất dầu và giáo lý Kito là nước – không thể hòa chung, nếu thế, cho dù việc khổ tu của ngài để tĩnh tâm chiêm niệm cũng chỉ thăng hoa tín ngưỡng mà khó thoát khỏi nhị đế để đạt đến đỉnh Tuệ giác. Lời ca của Thánh Phanxico còn nằm trong đối đãi của hai mặt một cuộc sống. Đã là đối đãi luôn là đối đãi, không thể nhị đế dung thông làm sao vượt thoát theo tinh thần Thiền? Thế mà, có người bênh vực trong Kito giáo vẫn có Thiền.
Thực ra sự tĩnh tâm chiêm niệm do Thánh An Tôn khai sáng sau nguồn Thiền Phật giáo khá lâu, mà tĩnh tâm theo Phật giáo là chỉ, nếu chỉ mà thiếu quán thì chưa đủ tầm của Thiền. Một số nhà Tu Đức của Kito sau khi nghiên cứu Thiền, đem cặp kính Thiền soi rọi vào giáo lý Thần học thì mới thấy được khía cạnh triết lý mang tính Thiền vị mà họ gọi là Thiền đã có trong Kito giáo từ lâu. Cha Merton còn dùng tư-tưởng của thánh Phao-lô diễn-tả Đức Ky-tô đã “tự hủy mình đi’ để xuống trần cứu chuộc loài người. Nó có thể là mẫu-mực để trưng-dẫn hình-ảnh người tu Thiền lúc làm mình tan-biến vào vũ-trụ”. So dẫn như thế có vẻ miễn cưỡng, đúng về biểu tượng nhưng khác xa về thực chất. Nếu “hủy mình để xuống trần cứu chuộc loài người” tạm xem là xả kỷ (bản ngã) nhập thế, thì hình ảnh “người tu Thiền tan biến vào vũ trụ” tạm gọi là thoát ly ngã chấp (vô ngã). Hủy mình chưa hẳn là vô ngã, đức hy sinh tạm thời quên cái ngã vì tha nhân khác với chuyển hóa phàm ngã để hiển lộ Phật tánh (tánh giác).
TÌM THIỀN TRONG ĐẠO CHÚA - Lm. Giuse Nguyễn văn Thư trong sách đã có cái hiểu chưa đúng với tinh túy Phật giáo, tuy đúng trên văn nghĩa. Ví dụ, L.M. viết:
“Giáo-lý Phật dạy đường tìm đến hạnh-phúc và giải-thóat - bởi vì tất cả đời người chỉ tòan là khổ-đau. Qua Tứ Diệu Đế (4 chân-lý nhiệm-màu), ta được yêu-cầu phải triền-miên đi tìm tiêu-diệt lòng Dục để mong hết khổ.”
Dục làm sao mà tiêu diệt được, mong cầu tiêu diệt cũng là một loại dục, dù dục thiện hay bất thiện đều là dục thì làm sao thoát khổ??? Chưa nói tới “triền miên” đi tìm tiêu diệt lòng dục, cứ như hăng say truy lùng diệt địch, còn hăng say là còn vọng động, còn vọng động thì sao Thiền được? Theo tinh thần nhà Phật thì chuyển hóa chứ không tiêu diệt thì làm gì có chuyện triền miên đi tìm để tiêu diệt lòng dục!
L.M. Giuse Nguyễn văn Thư lại viết:
“Bình thường, người ta hiểu Tọa-thiền là ngồi nhắm mắt, tập-trung đầu óc để hết còn dính mắc vào bất cứ chuỵên gì. Từ bậc Sơ Thìền giúp ta hết lo lắng, đưa tới bậc Nhị Thiền khiến tâm-trí không còn bóng-dáng khổ-não, rồi vào bậc Tam Thiền để khơi được lên niềm sướng vui nội tại, và cuối cùng là bậc Tứ Thiền cho phép mình từ từ thoát ra khỏi cái vòng Luân-hồi giăng lưới tứ bề.
Bốn nấc thang đó lần lượt giúp chúng-sinh tìm thấy cõi Hư-Vô, tạo nên thế-giới Cực-lạc. Sẽ chẳng còn cảnh Đầu-thai phiền-phức và cũng chẳng còn câu-chuyện u-mê gây khổ-lụy nữa.”
- Cách Thiền và Tứ Thiền mà L.M. Giuse Thư dẫn giải có vẻ xa lạ với Phật giáo. Quả vị tứ Thánh quả không đơn giản như L.M. nghĩ, dễ như thế thì đã thành Phật hết trơn. Lên khỏi 4 nấc thang để tìm thấy cõi Hư vô như L.M. nói thì bỏ công một đời tìm đến chốn hư vô để làm gì?
L.M. Thư lại quan niệm Thiền là: “Sau đó đi vào thói quen tham thiền thường-xuyên, tạo tâm-tư trống-rỗng, đem tới tình-trạng hòa mình cùng chân-Phật, hưởng phút giây an-nhiên tự-tại.
Cái Hư vô và trống rỗng của L.M. Thư chỉ là Thiền của L.M. Thư chứ không là Thiền của nhà Phật; hoặc là: “Đầu óc ta, tuy-nhiên, không mãi chỉ trống-rỗng và tiêu-cực như khi Thiền Phật, nhưng dần dà được đổ đầy bằng tình yêu-thuơng vô bờ của Chúa”.
- Về nhân quả, L.M. cũng hiểu không đúng: “mọi người đều có thể vươn lên để xóa sổ đen từ nhiều kiếp trước, qua phương-thức Thiền”.
Kinh sách không nơi nào cho thấy Thiền có thể xóa nghiệp. Hành giả thành tựu chỉ có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, Đức Bổn sư vẫn có thân bệnh, đau đầu, thì Thiền làm sao xóa sổ đen của chính mình?
- L.M. cũng hiểu sai về lịch sử truyền thừa Phật giáo: “Nói tổng-quát, vì Phật-giáo được truyền qua Việt-nam nhờ ngả Trung-hoa, nên chúng ta theo dõi và hiểu Thiền theo cái nhìn Đại-thừa gọi là Bắc tông hay Đại-chúng”.
Theo giáo sử của Lê Mạnh Thát và một số sử gia thì Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung Hoa, ngay cả Luy Lâu, Trung Tâm Văn Hóa Phật giáo Việt Nam cũng xuất hiện sớm hơn Bành Thành – Lạc Dương Trung Quốc. Sở dĩ Đại thừa ảnh hưởng sâu đậm tại Việt Nam, vì Phật giáo được truyền từ Phương Bắc, giao lưu văn hóa giữa hai khu vực lân cận ảnh hưởng nhau là chuyện bình thường. Campuchea, Lào, Myanmar, Srilanka, Thái... là những quốc gia chịu ảnh hưởng Phật giáo truyền từ phương Nam, tuy Campuchea cận kề Việt Nam, nhưng thuở xa xưa, biên giới hai nước vẫn còn xa tít.
- L.M. Nguyễn văn Thư cũng có nhiều so sánh giữa trạng thái Thiền Phật giáo và tín lý công giáo không được chính xác: “Được thành một phần-tử của gia-đình Chúa Ba Ngôi, sau khi được ban quyền làm nghĩa-tử, được nên giống như Ngài. Bên Thiền-học gọi là thành Phật.
Trở về nguồn gốc của câu truyện sáng-thế và việc ông bà nguyên-tổ phạm tội, ta có thể hình-dung trường-hợp A-dong và E-và chưa mất ân-sủng với Chúa, lúc đó họ chính là một thứ thần thánh, hòan-tòan tỉnh-thức và giác-ngộ. Việc này cho phép ta đôi chút về cái mục ‘thành Phật’ của câu chuyện Thiền”. Hoặc là: “Chính sự chênh-lệch này đòi ta có thái-độ hoàn-tòan cởi-mở, buông-lỏng và mang tính-cách thụ-động gần như bên nhà Thiền”.
Việc nghiên cứu so sánh Thiền với điển tích trong Thánh kinh là việc làm khiêng cưỡng của các học giả, mục đích chứng minh triết Thần học cũng mang hình ảnh Thiền - là người đã được trang bị triết học Phật giáo chiếu rọi vào giáo lý Cơ đốc giáo để thăng hoa tính triết lý. Tuy nhiên, các ngài Thần học cũng phải xắn tay nhập cuộc vào không gian Thiền mới rút tỉa được tính uyên áo và kỷ thuật siêu tuyệt từ Phật giáo.
L.M. Hoàng Sỹ Quý cũng như các nhà tu đức của Kito giáo từng bảo: “Nhờ học hỏi nơi Thiền, tôi đã thấy việc cầu-nguyện cũng như suy-niệm của tôi mỗi ngày mỗi đơn-giản, dễ dàng và kết-quả hơn. Dĩ nhiên tôi chỉ muốn đề cập tới phần phương-pháp và hình-thức. Người theo Phật khi thiền sẽ tìm thấy những điều linh-thiêng khác hẳn với tôi.”
Như vậy, từ kỹ thuật Thiền của nhà Phật, các tu sĩ Thiên Chúa giáo áp dụng để thăng hoa cùng Chúa trong việc chiêm niệm chứ không có mục đích giải thoát, vì dưới nhãn quan Thần học – giải thoát đồng nghĩa chối bỏ Chúa.
Tóm lại, L.M. Thư chỉ hiểu đạo Phật trên sách vở, hiểu Phật giáo qua lăng kính Thần học, nên còn quá nhiều sai sót về Thiền nói riêng và về Phật giáo nói chung.
KẾT:
Các nhà nghiên cứu Kito giáo đã từng học Thiền, đem áp dụng vào đức tin Thần học mà hai ngàn năm qua, với tín điều và tín lý không giúp cho tập thể tu sĩ, tín hữu có một đời sống tâm linh thâm diệu. Vì thế sinh khí nghèo nàn trong đời sống tâm linh đã không giúp cho xã hội phương Tây và thế giới trí thức ngày nay giải quyết những vấn nạn của cuộc sống nhị nguyên. Họ đã rời xa nhà thờ khá nhiều, để tạo lại sức sống tâm linh và mảnh đất Thần học được màu mỡ, buộc lòng các nhà truyền giáo, các dòng chuyên tu phải quay về phương Đông để tìm ra bí quyết thành tựu đã tồn tại hàng ngàn năm qua và đang phát triển trên mảnh đất một thời từng là cái nôi của Kito giáo – đó là Thiền học. Đường Thiền vào lối Chúa là cách nói của các Linh mục áp dụng kỹ thuật Thiền để tín hữu và tu sĩ có sinh khí mới hữu hiệu hơn trong đức tin và thăng hoa tâm linh mà không đánh mất Chúa hay chối bỏ Chúa như Thiền chính thống.
Có điều mâu thuẫn chăng với 10 điều răn khi cha Hoàng Sĩ Quý đề nghị:
“Cha Sỹ-Qúy có nêu lên một cách Thiền bắt chước các anh chị em Phật tử khi liên-tục niệm lời ‘Nam mô A di đà Phật’: Sau khi ngồi thanh-thản và thở cho đều-đặn nhẹ-nhàng, ta bắt đầu đọc nhẹ tên Giê-su, hoặc chỉ nhẩm thầm trong trí, bằng tất cả lòng thành-kính và phó-thác.” Một trong 10 điều răn là “không kêu tên đức Chúa Trời vô cớ”
Kito giáo áp dụng Thiền của nhà Phật cũng tốt, giúp cho các hành giả của Thần học hoàn thiện hơn về Tam độc và lòng từ ái, sống đúng nghĩa của một hành giả tâm linh, cho dù nhờ Thiền mà đến với Chúa một cách trọn vẹn. Lấy cái hay của người bù đắp cái thiếu của mình cũng là một việc làm hữu ích. Phật giáo đã giúp cho tôn giáo bạn một lối sống mới, một sinh khí mới cả về hành trì lẫn thuyết giảng mới thích nghi với mảnh đất phương Đông mà không cần thêm một Công Đồng Vatican III.
Linh mục Hoàng Sỹ Quý đã chân thật xác nhận:
Thế là, trong cái khung-cảnh của xã-hội ồn-ào náo-nhiệt ngày nay, chúng ta cùng nhau ‘mạo-muội’ (hay táo-bạo) đi tìm một lối đi ‘đại-kết tân-thời’: Mượn cái ‘bao’ (vỏ) của Thiền, với những kinh-nghiệm về phương-pháp và kỹ-thuật dồi-dào, rồi thay vào bên trong (cái ruột) bằng những nội-dung, những giáo-lý, những tâm-tình đạo Chúa.
Nói khác đi, ta dùng toàn chất-liệu căn-bản Ky-tô giáo được lồng trong cái hình-thức Thiền theo nhà Phật. Tất cả chỉ là mượn cách tập-trung hơi thở, định-hướng nội-tâm, học thế đứng ngồi… để tiến tới trạng-thái ‘tâm an thần định’. Nó còn kèm theo cách-thức làm chủ trí tưởng-tượng và mọi cảm-quan, trước khi tìm về bậc thuần-nhất và đơn-giản-hoá cái đối-tượng ta suy-niệm, và cuối cùng siêu-thoát, không còn thấy cái ta lẻ-loi nữa: Sẽ biến tan làm một với Chúa và trở thành hư không trước thánh nhan Chúa (bên Phật gọi là tới chỗ ‘định hư’).
Nói một cách hình tượng: bình mới, rượu cũ; hay dí dõm hơn: Hồn Trương Ba, da hàng thịt! Rất may, các Linh mục học và áp dụng Thiền trong lòng Chúa vào thời đại khoa học tiến bộ, nếu trước đây, thời Trung cổ sẽ bị buộc tội các cha theo phù thủy, tà pháp, tức khắc giàn hỏa sẵn sàng đón các cha.
Tuy nhiên, Linh mục Giuse Nguyễn văn Thư cũng xác nhận giá trị của Thiền: “Cái tin vui là truyền-thống Thiền đã gây ấn-tượng và ảnh-hưởng tích-cực không nhỏ qua bao thế-hệ. Nó đã từng là động-cơ phát-triển cho bao tổ-chức và cơ-sở Phật-giáo, nhất là tại Việt-Nam
(tìm lên nương-náu cửa Thiền!) Phương-thức và kỹ-thuật của Thiền quả thật cao siêu, không mấy ai tranh-biện hay chối cãi.”
Chính vì chỉ cần mượn kỹ thuật Thiền để làm vỏ bọc, nên L.M. Giuse Nguyễn văn Thư phạm phải nhiều sai sót về cốt tủy giáo lý, tinh túy Thiền hay học lý nhà Phật.
MINH MẪN
11/02/2015

0 nhận xét:

Đăng nhận xét