Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 4 tháng 2, 2015

Gíáo Hoàng Pius XII (1939-1958) Dưới Mắt Nhìn Của Một Người Dân Việt

Nguyễn Mạnh Quang



09-Feb-2014
Tìm hiểu lịch sử Giáo Hội La Mã trong thời cận và hiện đại, người viết nhận thấy Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) là một con người có bản chất cực kỳ độc ác, đã gây ra những khu rừng tội ác trời không dung đất không tha. Đó là những tội ác đối với Giáo Hoàng Pius XI (1922-1939), đối với nhân loại, và đối với dân tộc Việt Nam.  


Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958)
Riêng đối với Việt Nam, các hành động trên có thể tóm tắt (a) qua việc cấu kết với Pháp bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry  d' Argenlieu làm Cao Ủy Đông Dương đem quân sang tái chiếm Việt Nam, gây nên cuộc chiến triền miên kéo dài cả 30 năm trời, (B) qua việc vận động với Hoa Kỳ (a) dùng 6 trái bom nguyên tử  thả xuống miền Bắc Việt Nam để giải vây cho hơn 16 ngàn quân lính của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đang bị vây khổn tại các cứ điểm Điện Biên Phủ vào thời điểm trong mùa xuân năm 1954 (nhưng không thành công), và (b) đưa con chiên phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền khiến cho dân tộc Việt Nam rơi vào thảm họa đất nước  bị chia đôi và  tàn phá với một số lượng bom đạn khổng lồ (14 triệu tấn thuốc nổ thuộc loại hiện đại nhồi trong bom và đạn đại pháo để đánh phá cái diện tích bé nhỏ  của nước Việt Nam chúng ta, hơn gấp 3 lần tổng số bom được sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến) và hơn 18,2 triệu gallons (hơn 68 triệu lít) Chất Độc Da Cam xuống hơn 10% diện tích đất ở miền Nam Việt Nam, một thứ vũ khí hóa cực kỳ tàn độc chưa từng xẩy ra trong lịch sử nhân loại. Phần trình bày dưới đây sẽ cho thấy rõ  bộ mặt thật vô cùng man rợ của Giáo Hội La Mã nói chung và của tên giáo hoàng ác ôn khốn nạn này.
Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và sau đó, Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) chủ trương cấu kết với Đức Quốc Xã, Phát Xít Ý Đại Lợi, rồi  lại cấu kết với Pháp, với Hoa Kỳ và cùng với các cường quốc đế quốc này gây ra những khu rừng tội ác cực kỳ khủng khiếp chống lại nhân loại, trong đó có mưu đồ dùng bom nguyên tử để tàn phá đất nước và dân tộc Việt Nam chúng tôi. Như vậy, rõ ràng là  giáo hội của Ngài Pius XII là một tổ chức tội ác, và Giáo Hoàng Pius XII là một tên tội phạm chiến tranh độc ác nhất trong lịch sử thế giới trong thời cận và hiện đại. Phần trình bày dưới đây cho thấy rõ việc làm của Giáo Hội La Mã đối với nhân loại nói chung và đối dân tộc Việt Nam nói riêng từ năm 1945 cho đến ngày nay. Xin chia làm hai phần:
Phần A nói về những chủ trương và những hành động cấu kết với hai chế độ Đức Quốc Xã của nhà độc tài Adolf Hitler và chế độ Phát Xít Ý Đại Lơi của nhà độc tài Benito Mussolini.
Phần B nói về những khu rừng tội ác gây ra bởi giáo hội có chủ trương cấu kết với đế quốc Pháp và Đế Quốc Mỹ để rồi cùng với các đế quốc này gây ra những khu rừng tội ác chống lại dân tộc Việt Nam chúng tôi.

A.-/ Những tội ác chống nhân loại của Giáo Hoàng Pius XII trong những năm 1939-1945
Với lòng tham không đáy, Giáo Hội La Mã tóm thâu cả thần quyền lẫn thế quyền vào trong tay, biến giáo hội thành ông chủ và thành tên bạo chúa trùm của tất cả bạo chúa trên thế giới. Vì quyền hành quá nhiều như vậy và vì các bản chất của chế độ toàn trị, cho nên sách sử gọi là chế độ chính trị của Giáo Hội La Mã là “Chế độ quân chủ tăng lữ chuyên chính” (monarchial sarcedotal). Cũng vì thế mà ở bất kỳ nơi đâu và ở bất kỳ lãnh vực nào cũng có bàn tay tội ác của giáo hội ở đó. Tiến sĩ Trần Chung Ngọc thường mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo để mô tả tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại như sau:

Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.

(Dơ bẩn thay, nước bể Đông không thể rửa sạch;
Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội.)
Nếu muốn nói cho hết những tội danh và tội ác do giáo hội đã gây ra, thì trăm ngàn trang giấy cũng không thể nói hết. Vì giới hạn của bức thư ngỏ này, ở đây chúng tôi chỉ có thể kể ra đây một số tiêu biểu cũng đủ thấy bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã gồm cả các thành phần tu sĩ áo đen ghê tởm đến mức nào!

1.-/ Chủ mưu và chủ động để lên ngôi giáo hoàng.

Vào năm 1939, Hồng Y Pacelli, muốn lên ngôi Giáo Hoàng, cho nên ông ta đã  âm mưu sát hại Giáo Hoàng Pius XI (1922-1939) khi ông này đang  nằm điều trị trên giường bệnh. Hành động tội ác như vậy được sách The Vatican Exposed Money, Murder and the Mafia ghi nhận như sau:
“Trong cuốn nhật ký của ông, Hồng Y Tisserant nói rằng, ông nhớ lại là mặt của Giáo Hoàng Pius XI bị “méo xẹo“ và thân hình ông ta có nhiều vết “bầm màu xanh lơ”. Tisserant còn  nói rõ hơn nữa là những chỗ có vết bầm này được bao phủ bằng một lớp bột màu trắng để làm cho mầu xanh  ít xanh hơn. Hồng Y Tiserant đã thỉnh cầu giải phẫu (để làm sáng tỏ vấn đề này), nhưng thỉnh cầu của ông không được ai nghe cả. Hồng Y Pacelli (ngay sau đó trở thành Giáo Hoàng Pius XII), người đảm nhiệm việc tang lễ và chôn cất,  không cho phép và cương quyết từ chối những lời khẩn khoản thình cầu của ông.
Trong cuốn nhật ký này, Hồng Y Tisserant còn đưa ra một thông tin  khác nữa bằng tiếng Pháp bản địa của ông, làm mọi người sửng sốt, “chúng nó đã ám sát Giáo Hoang XI”. Theo Hồng Y Tisserant, thì rõ ràng nghi can là  Hồng Y  Pacelli và Bác-sĩ  Petacci, đặc biệt là sau khi Hồng Y Tiserant  khám phá ra rằng cô Claretta Petacci (một minh tinh màn ảnh, là con gái của Bác-sĩ Petacci) và cũng  là tình nhân sủng ái nhất của Mussolini. Hồng Y Tiserant cũng tin rằng Đức Ông Umberto Benigni, thư ký riêng của  Hồng Y Pacelli,  cũng có liên hệ với âm mưu này. Hồng Y Tiserant nghi ngờ Đức Ông Benign là có cơ sở. Sau chiến tranh (sau Đệ Nhị Thế Chiến), Đức Ông Benigni bị phát hiện là viên chức của tố chức mật vụ của chế độ phát xít Ý và thường xuyên báo cáo tình hình trong Tòa Thánh Vatican cho chính quyền Đức Quốc Xã.” [1]

2.-/  Cấu kết với Đức Quốc Xã trong suốt thời Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945). Tội ác này đã được các nhà viết sử khẳng định trong các tác phẩm của họ và đã được in thành sách cũng như đã được phổ biến trong interrnets. (1) Sách The Vatican Exposed Money, Murder, and the Mafia (New York: Prometheus Books 2003) của tác giả Paul L. Williams nói rõ trong Phần Appendix C: The Concordat Between The Holy See And The German Reich (gồm 34 điều khoản và Phần Phụ Lục) nơi các trang 223- 234, và  (2) sách Hitler’s Pope: The Secret History of Pius XII (Viking, 1999) by John Cornwell – ISBN: 0-670-87620-8.

3.-/ Đồng mưu với Đức Quốc Xã trong tội ác diệt chủng

- (a) tàn sát khoảng 6 triệu người Do Thái,

- (b) sắp xếp đưa tên con chiên cuồng tín Ante Pavelich lên nắm chính quyền ở Croatia vào năm 1941 để Ki-tô hóa nhân dân Croatia bằng bạo lực, tàn sát 700 ngàn người (Chính Thống giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo) trong một quốc gia vỏn vẹn chỉ có chưa tới 3 triệu người.

- (c) tổ  chức đường giây bí mật để tẩu tán những  số tiền và vàng khổng lồ của chính quyền Ante Pavelićh khi chiến tranh chấm dứt, rồi bí mật đưa những tên tội ác chiến tranh trong chính quyền Croatia và một số trong chính quyền Đức Quốc Xã đi ẩn náu ở Nam Mỹ. Sự kiện này được sử gia Avro Manhattan kể lại như sau:
“Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Ca-tô (Thiên Chúa La Mã). Các linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của giáo hội là sĩ quan trong các đơn vị quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô giết hại." [2]
"Ante Pavelich, người lãnh đạo mà cũng là người chủ mưu và tạo nên quốc gia Croatia độc lập theo đạo Gia Tô. Ông ta đã dùng chính sách khủng bố cũng như tinh thần cực đoan về chính trị và lòng cuồng đạo với tất cả những tàn bạo hơn cả hai nhà độc tài bảo trợ cho ông ta là Benito Mussolini và Adolf Hitler. Trước khi nước Nam Tư bị phân hóa, ông ta là người chủ mưu trong vụ ám sát vua Alexander (của nước Nam Tư) và các vụ giết hại các nhà chính trị khác. Nhờ vậy mà ông ta đã tạo nên được quốc gia Ustashi Croatia độc lập siêu Gia Tô giáo và thiết lập một chế độ độc tài siêu hơn cả chế độ độc tài Đức Quốc Xã. Ông ta được Giáo Hoàng Pius XII che chở và giúp đỡ bằng các phương tiện ngoại giao và tài chánh nhằm để đạt được cứu cánh của Giáo Hội La Mã. Khi quốc gia  Ustashi Croatia sụp đổ (vào đầu năm 1945), Pavelich chạy vào ẩn trốn ở trong Tòa Thánh Vatican, rồi giả dạng như là một tu sĩ. Sau đó, ông ta trốn sang nước Á Căn Đình."[3]
Vấn đề này cũng đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 11, sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, Washington: TXB, 1999).
B.-/ Những hành động ác độc đối với dân tộc Việt Nam của Giáo Hội La Mã:
Đây là việc Tòa Thánh Vatican chủ trương và chủ động cho người đi thuyết phục, cấu kết với các chính quyền của các Đế Quốc Pháp và Đế Quốc Mỹ rồi cùng nhau lao vào vực thẳm tội ác chống lại dân tộc Việt Nam. Nếu tính từ khi các giáo sĩ Ca-tô đến Việt Nam truyền đạo vào năm 1533 để thi hành các điệp vụ thâu thập các tín tức tình báo chiến lược chuẩn bị cho kế hoạch đánh chiếm Việt Nam (rồi can thiệp vào nội tình Việt Nam  một cách vô cùng thô bạo từ cuối thế kỷ 18), cho đến nay,  Giáo Hội La Mã đã gây ra cả hàng chục rặng núi tội ác chống lại dân tộc Việt Nam. Dân tộc chúng tôi đã phải khốn khổ điêu linh vì  mang cái đại họa “đạo Ki-tô” của Ngài.
Những hành động xâm chiếm nước tôi của Giáo Hội La Mã như vậy đã khiến cho đất nước chúng tôi phải lâm vào tình trạng chiến tranh triền miên từ năm 1847 (thời điểm Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican khai hỏa tấn công rồi cưỡng chiếm Việt Nam làm thuộc địa) kéo dài cho đến ngày 30/4/1975 mới chính thức chấm dứt.
Kể từ ngày này (30/4/1975) hay ít năm sau đó, cả hai đại cường Pháp và Mỹ đều đã công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và đã trở thành những nước bạn của  đất nước chúng tôi. Trong khi đó, Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican vẫn còn níu kéo bám lấy Việt Nam như loài đỉa đói, vả sử dụng tập thể tu sĩ và con chiên người Việt  ở trong nước cũng như ở hải ngoại để đánh phá Việt Nam  giống như giáo hội đã làm để đánh phá triều đình nhà Nguyễn trong thế kỷ 19.
Trong mục này, chúng tôi xin trinh bày những rặng núi tội ác của giáo hội đối với dân tộc Việt Nam từ  năm 1945 đến ngày nay.

1.-/ Cựu Linh-mục Thierry G. d’ Argenlieu làm Cao Ủy Đông Dương:


cựu Linh-mục Thierry G. d’ Argenlieu
Tháng 8 năm 1945, Giáo Hoàng Pius XII cấu kết với chính quyền Pháp của Tổng Thống Charles  de Gaulle trong việc bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry G. d’ Argenlieu làm Cao Ủy Đông Dương (để lôi cuốn tập thể con chiên người đi theo Pháp chống lại Chính Quyền và Quân Đội Kháng Chiến Việt Nam Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh) cùng với việc gửi đoàn quân viễn chinh sang Viễn Đông lo việc tái chiếm Việt Nam để rồi gây ra cuộc chiến mà nhân dân Pháp gọi là “Cuộc Chiến Bẩn Thỉu” (La Sale Guerre). Cuộc chiến này kéo dài tới giữa năm 1954  mới chấm dứt khi 16 ngàn quân của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican bị thảm bại tại  các cứ điểm Điên Biên Phủ và đầu hàng vô điều kiện vào lúc hơn 5 giờ chiều ngày 7  tháng 5 năm 1954.

2.-/ Phá Hoại Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Của Việt Nam:  


Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường vườn hoa Ba Đình - Hà Nội, ngày 02.9.1945
Ngày 28/12/1945: Việt Nam đã giành lại được chủ quyền độc lập từ trong tay người Nhật vào ngày 19/8/1945 và Cụ Hồ Chí Minh, chủ tịch chính phủ  lâm thời của nước Việt Nam độc lập, đã long trọng công bố Bản Tuyên Ngôn Đôc Lập cho cả thế giới cùng biết vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Ấy thế mà ngày 28/12/1945, không cần biết đến chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam chúng tôi, Tòa Thánh Vatican ra lệnh cho  viên Khâm Sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Huế là Tổng Giám Mục Antoni Drapier đề nghị với Pháp dùng cựu hoàng Bảo Đại (đã thoái vị vào ngày 23/8/1945) thành lập chính phủ bù nhìn làm bung xung cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican thi hành chính sách chia để trị, xé nước Việt Nam ra là nhiều mảnh vụn theo biên giới đia phương về  địa lý, về sắc tộc và đặc biệt về tôn giáo, rồi dùng người Việt đánh người Việt và đưa con chiên Ki-tô cuồng tín lên nắm chính quyền để thi hành kế hóa nhân dân Việt Nam bằng bạo lực từ trến xuống dưới. Sự kiện này được sách sử ghi nhận như sau:


Cựu Hoàng Bảo Đại
 “28/12/1945: Huế:  Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại  diện Roma tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier avant le mars; DOM [Aix], CP 125).Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long lên kế vi, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].”[4]

3.-/ Đầu tháng 6  năm 1948: Đề nghi trên đây của Vatican được  thực dân xâm lược Pháp chấp thuận: Bảo Đại được đưa lên thành lập chính quyền mà bộ máy truyền truyền của Vatican gọi là “chính quyền Quốc Gia” để làm bung xung  cho  Pháp và Vatican tiến hành chính sách chia để trị như đã nói ở trên.  Vì không có đủ nhân sự tham gia cái chính phủ Việt gian ma nớp này, Pháp biến chính phủ Nam Kỳ Quốc của bọn Việt gian mang quốc tịch Pháp Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Nguyễn Khắc Vệ, kéo thêm mấy tên Việt khét tiếng như con chiên Phan Văn Giáo ở miền Trung và Vũ Quý Mão ở miền Bắc vào cái chính quyền Việt gian phản quốc này. Để có thể làm cho chính sách chia rẽ được hữu hiệu, bộ máy tuyên truyền của Vatican liền:

a.-/ Chế ra cụm từ “Chính quyền Quốc Gia” được dùng như một chiếc áo choàng khoác lên cái chính phủ Việt gian này với Bảo Đại làm Quốc Trường (thay vì gọi là vua) ngồi ở hậu trường nhận lênh của Vatican và của Pháp rồi truyền xuống cho nội các chính phủ có trụ sở ở Sàigòn gồm toàn những bọn Việt gian bán nước cho Pháp và Vatican thi hành.

b.-/ Chế ra cụm từ “chính nghĩa quốc gia”  làm bức bình phong che đậy cho cái bản chất phản quốc bán nước cho Liên Minh Xâm Lược  Pháp – Vatican cúa cái chính quyền Việt gian ma nớp  trên đây và những hậu duệ của nó sau này mà Vatican đã dự trù.

c.-/ Chế ra các cụm từ “Người Việt Quốc Gia”, “Người Việt Quốc gia chân chính” để làm cái áo choàng khoác lên những tên Việt gian phản quốc trong cái chính quyền phản quốc và bọn lính đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Minh Pháp – Vatican lúc bấy giờ. Kể từ đó, những tên con chiên người Việt vốn là những tên phản quốc truyền tử lưu tôn đã từng bán nước cho Vatican từ hậu bán thế kỷ 16 và bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican từ giữa thế kỷ 19 như các con chiên Trần Bá Lộc, Lê Hoan, Ngô Đình Khả, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Phan Văn Giáo,  Lê Hữu Từ,  Phạm Ngọc Chi, Mai Ngọc Khuê, v.v… đều trở thành những “Nguời Việt Quốc Gia chân chính”  chiến đấu cho “chính nghĩa quốc gia” tuốt luốt.

d.-/ Chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ (hàm chứa ý nghĩa của Chúa Ba Ngôi) làm biểu tượng cho các chế độ đạo phiệt Ca-tô. Mầu vàng tượng trưng cho hoàng gia Nhà Nguyễn mà Vatican đã có chủ ý đưa con chiên Bảo Long lên làm vua (như đã nói ở trên), và ba sọc đỏ là tượng trưng ý nghĩa Chúa Ba Ngôi trong chế độ do Vatican dựng nên. Sự xuất hiện lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được chúng tôi trình bầy khá đầy đủ với nhiều tài liệu trích dẫn trong Chương 4 với tựa đề là “Ý Nghĩa Thực Sự Của Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”, sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (http://sachhiem.net/ )
Đó là chủ trương của Giáo hội La Mã thi hành chính sách chia rẽ dân tộc Việt Nam trong những năm 1945-1954. Nói về chính sách thâm độc và dã man này cái “Hội thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền” khốn nạn này,  “sách Vatican Thú Tội và Xin Lỗi?” viết:
“Trọng tội của Giáo Hội (La Mã) không phải là nguồn phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lại, và riêng Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam là dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại đạo theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo.. Đức Hồng Y Hà Nội Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáo Hội trong bài tham luận đọc tại Roma vào năm 1998, có Đức Giáo Hoàng đương kim (John Paul II) ngồi dự thính.” [5]

4.-/ Xúi  giục con chiên bản địa nổi loạn  chống lại  chính quyền kháng chiến Việt Nam:
Sau khi cống bố đề nghị đưa Bảo Đại thành lập chính quyền được mấy tháng, Giáo Hội La Mã ra lệnh cho Khâm Mạng Toà Thánh Đông Dương là Frater Antoninus Drapier công bố lá thư luân lưu mang số 827/61 đề ngày 15/5/1946 với mục đích lên án và răn đe giáo dân Việt Nam không được  ủng hộ  hay tham gia hoạt động trong các đoàn thể hoặc chính quyền hay quân đội kháng chiến Việt Nam. Dưới đây là nguyên văn một vài đoạn của lá thư này:
"Mọi người đã hẳn đều có nguyện vọng được người đồng chủng cai trị mình. Con nhà Công Giáo ao ước có những đấng chăn chiên bản quốc... Nhưng chỉ có một mình Giáo Hội mới minh xét cho biết đã đến thời phải  thực  hiện nguyện vọng đó hay chưa. Vậy ai dùng lời nói hay báo chí để đưa dư luận đi quá cấp tốc kẻ ấy tự thị muốn đi trước Tòa Thánh Roma và tỏ thái độ xấc ngạo và bất tuân với đức giáo hoàng.... Nhận thấy ít nhiều giáo hữu Việt Nam, trong thời buổi ấy đã ăn ở phạm đến quyền của Tòa Thánh, nên chỉ định mấy điều sau đây:

1.- Chiểu khoản 2.334 luật giáo hội: kẻ nào nhờ đến thế lực phần đời mà làm ngăn trở quyền cai trị của đấng bề trên phần đạo hoặc trực tiếp hay gián tiếp thì phải vạ tuyệt thông.

2.- Chiếu khoản 2.331 luật giáo hội: kẻ xúc phạm đến đức giáo hòang, đức khâm mạng, hay bề trên địa phận chính thức thì tức khắc phải vạ tuyệt thông.

3.- Các hội đòan Công Giáo bất kỳ lấy tên nào làm danh hiệu đều buộc phải nhận quyền bề trên trong đạo..Nếu mà chối thì phải kể là người ngọai đạo, tội nhân và phải vạ tuyệt thông nữa."

"Bộ Thánh Vụ Vatican ra thông cáo cho cha mẹ những vị thành niên có chân trong tổ chức cộng sản đều bị vạ tuyệt thông. Thông cáo này cũng tố cáo những ai dự vào các tổ chức có mục đích đưa thanh niên vào thuyết duy vật lôi cuốn."[6]

5.-/  Kêu gọi tín đồ Da-tô Việt Nam phải từ bỏ hàng ngũ kháng chiến.
Triệu tập các giám-mục tại Đông Dương nhóm họp khẩn cấp để hợp soạn một lá thư chung với nội dung vừa ra lệnh, vừa kêu gọi tín đồ Da-tô Việt Nam phải từ bỏ hàng ngũ kháng chiến và mạnh bạo đứng về hàng ngũ Liên Minh Thánh Xâm Lược Pháp – Vatican chống tại tổ quốc Việt Nam. Đây là một trong những muôn ngàn hành động của Vatican chống lại  dân tộc và tổ quốc Việt Nam một cách vô cùng trắng trợn và hết sức thô bỉ. Sự kiện này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Việt Nam, Niên Biểu 1939-1975 (Tập B: 1947-1954) ghi lại sự kiện này như sau:
“5/11/1951: SÀIGON: Khai mạc Hội Nghị Các Giám Mục Đông Dương [cho tới ngày 10/11/1951].
9/11/1951 : HÀ NỘI: Hội Nghị Các Giám Mục Đông Dương, dưới sự chủ tọa của của John Dooley:
Ra một thư chung, với chữ ký của 14 tổng giám mục và giám mục: Dooley, Jean Baptiste Chabalier (Pnom Penh), Thục (Vĩnh Long), Jean Cassaigne (Sanh, Sàigòn), Marcel Piquet (Lợi, Qui Nhơn), Jean Marie Maze (Kim, Hưng Hóa), Anselme Taddé Từ (Phát Diệm), Pierre Marie Chi (Bùi Chu), Jean Baptiste Urrita (Thi, Huế), Dominique Hoàng Văn Đoàn (Bắc Ninh), Joseph Marie Trịnh Như Khuê (Hà Nội), Fr. Felice Pérez (Hiên, Hải Phòng), Fr. Bernard Illomera (Yên, Thái Bình), Paul Renaud (Ái, Kontum).
Đức Thánh Cha của chúng ta đã tuyên bố rằng tuyệt đối không bao giờ có thể vừa theo Cộng Sản vừa theo Ki-tô giáo được, và người Ki-tô giáo nào gia nhập đảng cộng sản thì thực tế tách rời khỏi giáo hội. Chẳng những Thánh Cha cấm các bạn không được gia nhập đảng cộng sản mà còn không thể cộng tác với họ hay dưới bất kỳ hình thức nào giúp đỡ họ nắm chính quyền.”[7]

6.-/ Võ Trang con chiên Việt Nam chống lại cuộc Kháng Chiến của nhân dân Việt Nam:- Kể từ đầu năm 1947, các tu sĩ quản nhiệm xóm đạo hay cai quản các giáo khu đã  được các đấng bề trên giao phó trách nhiệm phải lợi dùng hoàn cảnh  thuận lợi để tổ chức nam nữ thanh niên thành những đội quân thập tự và phải cố gắng quyên góp và kêu gọi giáo dân đóng góp tiền bạc, lén cử người đi mua vũ khi về trang bị đội quân thập tự trong xóm đạo hay trong giáo khu. Các đội quân thập tự này nằm tiềm phục chờ cơ hội thuân lợi thì nổi lên chống lại chính quyền kháng chiến, không cho các cán bộ và bộ đội của chính quyền Việt Minh vào họat động hay trú đóng trong xóm đạo hay giáo khu, và nếu mạnh hơn, thì mở các cuộc hành quân ruồng bố các làng lương chung quanh. Riêng tại giáo khu Phát Diệm, việc này được giao phó cho Giám-mục Lê Hữu Từ lo liệu cho cả giáo khu và các xóm đạo trong vùng quản nhiệm. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm như sau:
"Với sự ủng hộ của Giám-mục Chaize Hà Nội, các Giám-mục Artaraz Bắc Ninh, Ubierna Thái Bình, Cooman Thanh Hóa, Gomez Hải Phòng, và phép lành của Giam-mục Drapier, (Khâm Mạng Tòa Thánh), Giám-mục Lê Hữu Từ quyết định vũ trang cho giáo hữu của mình. Người ta có thể đọc trong tập Hồi Ký của ông như sau: "Vào thời  ấy, hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải có một lực lượng tự vệ hùng mạnh để có thể "nói chuyện" với chính phủ Cộng Sản. Vì thế, lợi dụng tình hình, chúng tôi đã có các toán du kích địa phương và lợi dụng đường lối chiến tranh nhân dân do ông Hồ Chí Minh công bố, tôi đã xin phép được mua súng đạn. Hồ Chí Minh không thể từ chối tôi việc này, bèn đề nghị tôi gặp ông Phan Anh, Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã được ông Hồ mớm cho việc tìm lý do, ra những điều kiện, để đừng phải cấp cho tôi giấy phép. Nhưng với cái phép miệng, tôi đã gửi người lên Móng Cáy mua vũ khí.
"Tuy vậy, việc chuyên chở vũ khí được tiến hành một cách bí mật và phải dùng mưu mẹo mới qua được. Nhiều lần xe ô tô của tôi chở vũ khí đã có thể qua các trạm gác vốn được kiểm soát rất nghiêm nhặt, vì tôi đưa ra cái thẻ "Cố Vấn Tối Cao Của Chính Phủ" và tôi nhất quyết không cho khám xe. Tôi nói với bọn cảnh sát: Chủ tịch đã chọn tôi làm Cố Vấn vì Người tin tưởng ở tôi; nếu Người không tin tôi, tôi sẽ từ chức. Và bởi vì tôi là Cố Vấn Tối Cao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chẳng ai có quyền khám xét tôi mà không có lệnh rõ ràng của Chủ Tịch. Một khi súng và đạn dược đã tới nơi yên ổn, tôi thông báo cho Ủy Ban Nhân Dân và cảnh sát biết rằng, tôi đã mua vũ khí với sự đồng ý của  Hồ Chí Minh.
"Khi súng ống và đạn dược về đến Hải Phòng thì bị quan Pháp giữ lại, bọn này chỉ chịu trao cho tôi khi chính tôi phải đích thân can thiệp và bọn họ còn cấp thêm súng đạn (để mua chuộc tôi). Tuy nhiên, nguyên tắc của tôi là nhận khí giới từ bất cứ phía nào, kể cả phía Nga hay Tầu Cộng Sản để chống lại Cộng Sản. Tôi đã vay tiền nơi Đức Cha Gomez, một người Tây Ban Nha giám mục Hải Phòng và đã xin Ngài vui lòng hỗ trợ tôi trong chuyện này. Sau khi đã bàn hỏi Đức Khâm Mạng Drapier (Sứ thần của Tòa Thánh Vatican ở Việt Nam), Ngài đã cho tôi mượn một khoản tiền lớn (1.000.000 đồng) và đã cung cấp cho tôi một lượng súng đạn quan trọng".
Vì Cụ Hồ Chí Minh đã nhường cho vị Cố Vấn Lê Hữu Từ việc quản lý thị trấn Phát Diệm (một bề chỉ 1 km và bề kia dài 3 km), giám-mục đã biến nó thành "khu an toàn" có quân lính riêng canh gác. Khu an toàn này sẽ trở nên cứ điểm, qui tụ những kẻ chống lại Cụ Hồ Chí Minh, hoặc làm chỗ núp ẩn cho bọn hoạt động chính trị, bọn mưu đồ lật đổ v.v...
Cũng lúc đó, quân Pháp, sau khi đã chiếm phần lớn các tỉnh quanh Hà Nội, bắt đầu gặp phải cuộc kháng cự kiên quyết mạnh mẽ của du kích và của dân chúng. Cái hy vọng tái chiếm nhanh cả nước bị lu mờ..."[8]

7-/  Đầu năm 1954: Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) cùng với các con chiên có thế lực trong chính quyền Hoa Kỳ (Hồng Y Francis Spellman, Ngoại Trưởng John Foster Dulles (anh), Giám Đốc CIA Allen W. Dulles (em) nỗ lực vận động và thuyết phục chính quyền Tồng Thống Eisenhower dùng 6 trái bom nguyên tử bỏ xuống Bắc Bộ để cứu nguy cho hơn mười ngàn quân Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican đang bị vây khổn  tại các cứ điểm Điện Biên Phủ.


Từ trái: Hồng Y Francis Spellman, Ngoại Trưởng John Foster Dulles, Giám Đốc CIA Allen W. Dulles
Sự kiện này được sử gia Avro Manhattan nói rõ ràng sách  trong cuốn “Vietnam why did we go?” (New York: Chino, CA: Chick Publications, 1984) với nguyên văn như sau:
Pius luôn luôn có ảnh hưởng sâu đến Hồng y Francis Spellman, Tổng giám mục New York. Ông ta được cất nhắc lên Hồng y trong tháng hai, 1946. Cả hai kiên quyết đề xướng Chiến Tranh Lạnh, không bao giờ kết án các kế hoạch xử dụng bom nguyên tử của Hoa Kỳ, ngay cả sau khi Tổng thống Truman tuyên bố "xem ra Chiến tranh Thế giới III đang gần kề."
Pius XII tiếp tục hỗ trợ cuộc vận động hành lang Hoa Kỳ kêu gọi "một chiến tranh nguyên tử phòng ngừa." Vào năm 1954 khi Quân đội Mỹ lập kế hoạch tấn công hạt nhân bộ đội Việt nam, đang bao vây lính Pháp ở Điện Biên Phủ, chính Vatican đã hỗ trợ cho cuộc vận động hành lang tán thành đề nghị ấy. Dưới thời Eisenhower, khi anh em nhà Dulles, Spellman và Pius XII giúp hình thành những sách lược của Hoa Kỳ, quân đội Mỹ định thả từ một đến sáu quả bom 31-kiloton lên những lực lượng Việt nam. Những qủa bom này có sức mạnh ba lần hơn quả bom ném xuống Hiroshima. Âm mưu sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Việt nam được bạch hóa trong cuốn đầu tiên của loạt 17 cuốn lịch sử chính thức về Chiến tranh Việt nam được xuất bản vào 1984 bởi Phòng Quân sử Lục Quân Hoa Kỳ.” [9]

8.-/ Các toan tính mưu lược chính trị khác.
Từ mùa xuân năm 1950, Giáo Hội La Mã lo sợ rằng Mao Trạch Đông và Cộng Đảng Trung Hoa sẽ viện trợ ồ ạt cho chính quyền Kháng Chiến Việt Minh  để cho họ chuyển sang thế tổng phản công, và tin rằng, NẾU mối lo sợ này thể hiện ra thành sự thực, THÌ Pháp sẽ bị thảm bại, rồi bỏ cuộc và rút quân về nước. Vì thế mà Giáo Hoàng Pius XII mới tính kế:
Thứ nhất: Ra lệnh cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại ban hành Dụ số 10 làm cơ sở pháp lý cho giáo hội chuyền nhượng khối bất động sản khổng lồ đã ăn cướp được của đất nước Việt Nam trong những năm 1862-1945 (do các giáo sĩ người Âu Châu đứng tên)  cho các tu sĩ áo đen người Việt đứng tên để đề phòng trường hợp NẾU chính quyền Việt Minh đánh bại được Liên Quân Xâm Lược Pháp-Vatican RỒI  thi hành biện pháp quốc hữu hóa tất  cả những bất động sản do người ngoại quốc đứng tên. Giáo hội hy vọng rằng làm như vậy rồi, NẾU  mà tình thế xẩy ra như giáo hội đã dự đoán,  THÌ những khối khổng lồ bất động sản của Vatican đã ăn cướp được của Việt Nam từ năm 1862 cho đến lúc đó (1950) sẽ có thể không bị quốc hữu hóa (tịch thu).
Thứ hai: Ra lệnh cho Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn tên con chiên cuồng tín Ngô Đình Diệm sang Mỹ trao cho Hồng Y Francis Spellman để  vận động chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền khi Vatican đã tiên liệu là Mỹ sẽ thay thế Pháp làm chủ nhân ông miền Nam Việt Nam.  Việc làm này gây ra những hậu quả  khủng khiếp dưới đây:

a.)  Khi Viêt Nam bị chia đôi thành hai miền Nam và Bắc vào tháng 7/1954, con chiên Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về cầm quyền ở miền Nam vào đầu tháng 7/1954, rồi (1) truất phế Quốc Trưởng Bảo Đai vào ngày 23/10/1955 và tự phong là Tổng Thống miền Nam, (2) thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô,  (3)  tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực, tàn sát tới hơn 300 ngàn lương dân vô tội.  Vấn đề này đã được chúng tôi trình bầy đầy đủ nơi các trang 127-131, sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004).

b.) Chính quyền Ngô Đình Diệm triệt để nghe theo lời Vatican và Hoa kỳ, khăng khăng từ chối, nhất định không chịu nói chuyện với chính quyền miền Bắc Việt Nam về việc tổ chức tổng tuyền cử vào tháng 7 năm 1956 để thống nhất đất nước theo như Hiệp Định Genève 1954 đã quy định. Hành động phản tiến hóa này của Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm khiến cho chính quyền miền Bắc không còn cách nào khác để thống nhất đất nước, bắt buộc phải phát động chiến tranh để đòi lại miền Nam cho dân tộc. Trong cuộc chiến này, Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican đã sử dụng những loại vũ khí hiện đại nhất, tàn độc nhất để tàn phá đất nước Việt Nam và tàn sát nhân dân Việt Nam. Hành động dã man này được sách sử ghi nhận với nguyên văn như sau:
Từ năm 1965 cho đến năm 1973, Hoa Kỳ đã dùng tới hơn 14 triệu tấn thuốc nổ thuộc loại hiện đại nhồi trong bom và đạn đại pháo để đánh phá cái diện tích bé nhỏ này. Riêng về khối lượng bom do không quân Hoa Kỳ sử dụng cũng đã lên tới hơn 7 triệu tấnhơn gấp 3 lần tổng số bom được sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Phần lớn những bom trong các trận không kích và đạn đai bác do pháo binh bắn phá (gần 12 triệu tấn) thực sự là những hóa chất có công dụng làm rụng lá cây đã sử dụng ở miền Nam Việt Nam. Mục đích của nó là hủy diệt hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cũng là để Mặt Trận mất đi sự ủng hộ của quần chúng miền Nam bằng cách đẩy họ chạy về các vùng do chính quyền miền Nam kiểm soát. Trong một buổi điều trần tại Quốc Hội vào tháng 1 năm 1966, ông Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara đưa ra chứng cớ về sự thành công của các cuộc tấn kích bằng trọng pháo và không kích kể cả những phi vụ B.52 nhằm mục đích cưỡng bách người dân trong vùng “phải di chuyển về những nơi an toàn, khỏi phải bị tấn kích như vậy bất kể là thái độ của họ đối với chính quyền Miền Nam.” Ông McNamara nói tiếp,” làm như vậy không những phá vỡ được những hoạt động của quân du kích Việt Cộng, mà còn làm cho nền tảng kính tế của đối phương suy sụpTuy nhiên, tác dụng của việc sử dụng những thứ vũ khí như trên đã hủy diệt gần 1/3 ruộng đất canh tác và gần 50% xóm làng của người dân Việt. Vào năm 1972, theo bản báo cáo của tiểu ban Thượng Viện Hoa Kỳ thì bom và đạn trọng pháo của Mỹ đã làm cho cà 10 triệu người phải bỏ làng xóm đị tỵ nạn và hầu hết đã gây tổn thất cho người dân.”[10]
Riêng về chất độc Da Cam, chúng ta nên biết rằng đó là một trong những thứ vũ  khí hóa học vô cùng độc hại, đang bị Liên Hiệp Quốc nỗ lực ngăn cấm và ngăn ngừa. Chất độc Da Cam, một thứ vũ khí hóa học cực kỳ độc hại được quân đội Mỹ sử dụng với sự hồ hởi nhiệt liệt tán thành của Tổng Thống Ca-tô Ngô Đình Diệm, tác giả sách Chất Độc Màu Da Cam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005) ghi nhận như sau:
Ngày 30/11/1961, Tổng Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.”[11]

Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam gây nên hậu qủa vô cùng khủng khiếp.

http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/chatdocdacam/dioxine01.htm
Sách sử ghi nhận về tác hại của hành động rải chất độc hóa học này như sau:
“Quân đội Mỹ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.” [12]

Các bản tài liệu sử trên đây cho mọi người thấy rằng từ mùa thu năm 1945, Giáo Hội La Mã đã  liên tục can thiệp vào nội tình Việt Nam một cách vô cùng trắng trợn bằng mọi thủ đoạn  kể cả những thủ đoạn cực kỳ  thô bạo. Vì vậy mà đất nước Việt Nam mới phải hứng chịu một số lượng bom đạn khổng lồ và số lượng lớn lao chất độc Da Cam khủng khiếp như thế!.
C. Thay lời kết
Giáo Hội La Mã luôn luôn cao rao là giáo hội của bác ái, giáo hội của tình thương và luôn luôn khoe khoang tranh đấu cho (1) công bằng, công lý và hòa bình, (2) cho nhân quyền và tự do tôn giáo. Ây thế mà giáo hội lại có chủ trương liên kết với các đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ để dựa vào sức mạnh quân sự cùng với vũ khí hiện đại và vũ khí hóa học của hai đế quốc này đánh chiếm và tàn phá đất nước Việt Nam chúng tôi một cách cực kỳ dã man như vậy!
Qua phần trình bày trên, các vị chức sắc trong giáo triều Vatican có thấy hỗ thẹn với những tội ác của mình, cả trong lịch sử lẫn trong hiện tại hay không?
Khi muốn bỏ bom giết hại dân tộc chúng tôi, các ngài có nhân đạo hay không, nói chi đến "bác ái" hay "nhân quyền?"
Khi các ngài hoành hành trên sân khấu chính trị trong xứ sở của chúng tôi, các ngài đã thực thi "công bằng" và "công lý" như thế nào?
Khi các ngài áp đặt Ki-tô hóa trên văn hóa xã hội chúng tôi, các ngài tôn trọng tự do tôn giáo của dân tộc chúng tôi hay sao?
Vì danh Chúa, giáo hội của các ngài đã làm bao nhiêu chuyện trời không dung đất không tha như thế.
Thưa Giáo Hoàng Francis, ngài là đương kim lãnh đạo giáo hội ngày nay, ngài có cảm thấy nhục nhã và xấu hổ cho các hành động dã man như vậy của giáo hội Ngài không?
Ước mong những lời dội lại nếu có, cũng dựa trên những giá trị nhân bản, lương tâm con người, và đặt trong vị thế của người dân Việt, chứ không phải "dân Chúa", "lương tâm Công giáo", hay vì "tình yêu Chúa" , "vì danh Chúa" của đạo Ki-tô của quí vị.
Mong lắm thay!

____________________
CHÚ THÍCH

(1) Paul L. Williams, The Vatican Exposed Money, Murder and the Mafia (New York: Prometheus Books, 2003) p. 53. Nguyên văn:  “In his journals, Tisserant recalls that the face of Pius XI was ”distorted” and that the body bore strange bruish markings.” He  further notes that the markings seemed to be covered with a white powder to make them appear “less blue.” Tisserant asked for an autopsy. But  his request fell upon deaf ears. Pacelli, who as Carmerlengo remained in charge of the funeral and burial, would not grant permission and remained  “stony” and “impassable” before Tisserant’s pleas.
 In his journals, Tisserant drops the second bombshell by writing in his native French “Ils l’ont assassiné” – “They have assassinated him.” Who, according to Tisserant, were the aassassins? Cardinal Tisserant clearly suspected Pacelli and Dr. Petacci, especially after he came to discover that Petacci’s daughter was Mussolini’s favorite mistress – Claretta Petacci, an Italian starlet. Tisserant  also believed that Monsignor Umberto Benigni,  who acted as Pacelli’s secretary, was involved in the conspiracy. His suspicion of Monsignor Benigni was well founded. After the war, Benigni was revealed to have been an official OVRA, the Fascist Secret Police, who regularly reported developments within the Holy See to Nazi officials.”
(2) Avro Manhattan, The Vatican’s Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1986) p. VII.  Nguyên văn: “During the existence of Croatia as an independent Catholic State, over 700,000 men, women and children perished. Many were executed, tortured, died of starvation, or burned to death. Hundreds were forced to become Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were officers of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a total population of a few million, proportionally, would be as if one-third of the USA  population had been exterminated by a Catholic militia.”
(3) Avro Manhattan, Vietnam: Why did we go? Chino, CA: Chick Publications, 1984, tr 125. Nguyên văn “Ante Pavelich, the inspirer, creator and leader of the independent Catholic state of Croatia. He employed terrorism, political extremism and religious fanaticism with such ruthlessness as to outsmart even his two main fascist protectors, Beneto Mussolini and Adolf Hitler. He was the brain behind the assassination of King Alexander and other political murders which preceded the disintegration of Yugoslavia and thus the erection of his super-nazi, super-Catholic independent Ustashi Croatia. He enjoyed the protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary means to achieve his ultimate objective. When Ustashi Croatia collapsed, Pavelich hid in the Vatican, then, disguised as a monk, fled to Argentina.”
(4) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu (Houston, TX: Văn Hóa 1996), tr. 295.
(5) Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 246.
(6) Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (TP Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Nảm Trẻ, 1978), tr 17-18.
(7) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập B: 1947- 1954 (Houston, TX: Văn Hóa,  1997), tr. 265-66. Dưới đây là nguyên bản Thư Chung bằng tiếng Pháp và bản dịch Việt ngữ của Giuse Phạm Hữu Tạo, chủ bút  tờ Đông Dương Thời Báo (P. O Box 671091, Houston, Texas 77267-1091).
Lettre Commune Des Ordinaires Réunis A Hanoi
(texte original en francais)
9 novembre 1951
Nos bien chèrs frères,

Les ordinaires des Missions du Vietnam réunis à Hanoi sous la présidence de son Excellence Monseîgneur le Délégué apostolique, ont jugé qu'il est de leur devoir de coordonner leurs efforts en vue de coopérer plus efficatement à l'oeuvre de pacification des coeurs et restauration chrétienne qui s'impose à l'heure actuelle.
Les Êvêques du Viêtnam, émus de la confusion qui règne dans les esprits, croient de leur devoir de préciser la notion de la Patrie. Le Patriotisme, c'est l'amour de la Patrie, et la Patrie étymologiquement, c'est la terre des ancêtres. La Patrie, c'est donc une extension de la famille, l'une comme l'autre se rattachent à la vertu de piété, et par conséquent nous ne pouvons que l'encourager et le développer au même titre que les autres vertus chrétiennes. La notion chrétienne de Patrie n'exclut pas les autres nations que nous devons aimer aussi parce que nous sommes tous fils du même Dieu.
Animé par le sentiment de notre grave responsabilité devant Dieu et d'une grande affection pour vous tous, nos très chers frères, nous estimons qu'il est de notre devoir de vous mettre en garde contre le très grand danger du communisme athée, qui est le plus grand danger existant de nos jours. Le communisme est la négation de Dieu, la négation de toute religion, la négation de l'existence d'une âme immortelle, la négation des droits de la personne humaine et de la famille. Il y a la plus entière opposition entre l’Église Catholique et le communisme à tel point que notre Saint Père le pape a déclaré qu'il est absolument impossible d'être à la fois communiste et catholique et que tout catholique qui adhère au parti communiste est par le fait même séparé de L’Église. Non seulement, il vous est interdit d'adhérer au Parti Communiste, mais vous ne pouvez pas coopérer avec lui ou faire quoi que ce soit qui puisse de quelque facon amener le Parti Communiste au pouvoir.
Le danger est si grave et les conséquences possibles si terribles que nous nous sentons obligés de vous mettre en garde aussi contre les détours et les ruses employés par les communistes pour tromper le peuple, ruses qui ne servent que les seules fins des communistes.
En premier lieu, ils font preuve d'un grand zèle pour les réformes sociales et mettent en avant leur doctrine comme un remède aux maux sociaux de nos jours. Ils se cachent aussi sous le masque du patriotisme et cherchent par leur prétendu zèle pour le bien être de leurs compatriotes à rallier le peuple sous leur bannière. Mais ce ne sont là que des moyens pour atteindre leurs fins inavoués et une fois au pouvoir, ils installent une dictature impitoyable. Ce ne sont plus les intérêts des pauvres et des ouvriers, ni les intérêts de la Patrie qui comptent, ce sont uniquement les intérêts du communisme. Ainsi dans les pays sous le joug communiste, règnent la suppression de tout les biens et la persécution des milliers de nos frères catholiques, ces derniers vivent dans la terreur, ils dépérissent en prison, payant même de leur sang leur fidélité à la foi.
Alors résistez, très chers frères, ne vous laissez pas tromper, soyez fidèles à notre Dieu. Veuillez, soyez vigilants, restez ferme dans la foi.

Et vous, chers prêtres, enseignez la doctrine sociale de l'Église, instruisez les peuples des vertus chrétiennes de charité et de justice. Prêtres et fidèles, vivez intensément votre vie chrétienne selon les maximes de L'Évangile. La charité des premiers chrétiens a amené la conversion du monde: la charité, c'est à dire supporter son prochain, lui pardonner, lui vouloir et réellement lui faire du bien. L'amour du Christ a vaincu la haine, votre charité vaincra la haine des enemis de Dieu. Que voire voie soit toujours un témoignage pour Dieu, le Christ et l’Église.
Pour conclure, nous vous répétons encore avec saint Paul: “Veillez, restez ferme dans la foi, soyez vigilants, soyez forts, tout ce que vous faites, faites-le dans la charité” (I Cor. XVI, 13-14).
Nous demandons à nos prêtres de lire la présente lettre dans les Églises et leurs Oratoires. A tous, prêtres et fidèles, nous donnons de tout coeur notre bénédiction paternelle. Grace et paix vous soit données de la part de Dieu, notre Père, et du Signeur Jésus Christ.
Hanoi, le 9 novembre 1951
- John Dooley, Délégué apostolique en Indochine.
- Jean Baptiste Chaballier, Vicaire apostolique de Phnom-Penh.
- Pierre Ngô Đình Thục, Vicaire apostolique de Vĩnh Long.
- Jean Cassaigne (Sanh) - de Saigon.
- Marcel Piquet (Lợi) - de Qui Nhơn.
- Jean Marie Maze (Kim) - de Hưng Hóa.
- Anselme Tadée Lê Hữu Từ - de Phát Diêm.
- Jean Baptiste Urritia - de Huế.
- Pierre Marie Phạm Ngọc Chi - de Bùi Chu.
- Domonique Hoàng Văn Đoàn - de Bắc Ninh.
- Joseph Maide Trịnh Như Khuê - de Hanoi.
- Fr. Félice Pérez (Hiên) - Provicaire apostolique de Haiphong.
- Bernard Illomera (Yên) - Provocaim apostoloque de Thái Bình.
- Paul Renaud (Ái) - Provicaire apostolique de Kontum.

Thư Chung Của Các Giám Mục Công Giáo La Mã Họp tại Hà Nội
(bản dịch của Giuse Phạm Hữu Tạo)
Ngày 9 tháng 11 năm 1951
Anh em thân mến,
Chúng tôi, những giám mục của Hội Truyền Giáo tại Việt Nam họp tại Hanoi, dưới quyền chủ tọa của Đức Ông Khâm Mạng Tòa Thánh, thấy bổn phận của chúng tôi là phải kết hợp những nỗ lực để công tác hữu hiệu trong sự mưu tìm an bình cho lòng người và phục hoạt đạo Chúa hiện nay.
Là những giám mục tại Việt Nam, xao xuyến trước sự hỗn loạn đang đè nặng trên tâm hồn giáo dân, nghĩ rằng bổn phận của chúng tôi là phải xác định rõ ràng ý niệm Tổ Quốc! Ái quốc là tình yêu dành cho Tổ quốc, tổ quốc theo ngữ học là mảnh đất của tổ tiên. Vì vậy, tổ quốc chính là sự nối tiếp của gia đình, cả hai ràng buộc với nhau trong sự sùng kính, nên chúng tôi phải khuyến khích sự phát triển ngang nhau với những lẽ đạo khác. Ý niệm của đạo về Tổ Quốc không hề bỏ ra ngoài các quốc gia khác mà chúng ta phải yêu mến vì tất cả chúng ta đều là con cái Chúa!
Tác động bởi trách nhiệm nặng nề của chúng tôi trước Chúa và với một tình yêu lớn dành cho anh em, chúng tôi thấy cần phải nhắc nhở các anh em hãy cảnh giác trước hiểm họa Cộng sản vô thần là một hiểm họa lớn nhất trong thời đại chúng ta, Cộng sản chối bỏ Chúa, chối bỏ tín ngưỡng, chối bỏ linh hồn bất diệt, chối bỏ nhân quyền và gia đình. Lại còn có sự chống đối toàn diện ác liệt giữa Cộng sản và giáo hội, đến nỗi đức thánh Cha đã phải tuyên bố quyết liệt rằng không thể nào có thể vừa là Công giáo vừa là Cộng sản. Và người Công giáo khi gia nhập đảng Cộng sản, bằng hành vi ấy đã xa lìa giáo hội. Không những anh em bị cấm không được gia nhập đảng Cộng sản, mà anh em còn không được cộng tác để làm bất cứ điều gì để có thể đưa đảng ấy lên cầm quyền. Hiểm họa quá lớn và những hậu qủa rất ghê sợ, nên chúng tôi cũng buộc lòng phải cảnh giác anh em trước những lèo lái hay xảo thuật Cộng sản đã dùng để lừa bịp dân chúng chỉ nhằm chiếm đoạt được mục tiêu của họ.
Trước hết, họ đã chứng tỏ có nhiều nhiệt tình để cải cách xã hội và đề ra lý thuyết như là phương thuốc chữa trị những tệ đoan xã hội. Họ không che dấu mặt nạ yêu nước và cũng tìm cách đặt ra sự nhiệt tình làm như lo cho hạnh phúc đồng bào để quy tụ dân chúng dưới mầu cờ của họ. Nhưng đó chỉ là những phương tiện nhắm đạt tới những mục tiêu không tưởng của họ và khi cầm quyền rồi, họ áp đặt một nền độc tài tàn nhẫn. Không còn nữa những phúc lợi của người nghèo hay của giới công nhân lao động, cũng chẳng còn quyền lợi gì của tổ quốc nữa, mà chỉ còn quyền lợi của Cộng sản thôi. Bởi vậy, ngự trị trong các nước Cộng sản là sự tước bỏ mọi phúc lợi và sự đàn áp hàng ngàn anh em Công giáo, những người này phải sống trong sợ hãi, chết rũ trong tù ngục, phải đổ máu ra để bảo vệ đức tin.
Vậy xin anh em hãy chống cự, đừng bị mắc lừa, hãy trung thành với Chúa! Xin hãy thức tỉnh và sống mạnh bằng đức tin. Và qúy vị, những linh mục, hãy giảng dậy học thuyết xã hội Công giáo, dậy cho giáo dân những đức tính Công giáo về bác ái và công bình. Linh mục và giáo dân hãy sống đạo theo đúng với những lời dậy trong Thánh kinh. Đức bác ái của những người Công giáo đầu tiên là hoán cải thế giới. Đức bác ái là giúp đỡ đồng loại, tha thứ cho họ và thực sự làm những điều tốt cho họ. Tình yêu của đấng Ki-tô đã thắng hận thù, tình yêu của anh em cũng sẽ thắng kẻ thù của Chúa. Ước gì con đường anh em đi là sự làm chứng cho Chúa, đấng Cứu Thế và Giáo hội.
Để kết thúc, chúng tôi xin nhắc lại với anh em lời nói của thánh Phao-lồ: “Xin hãy vững mạnh trong đức tin, hãy thức tỉnh và hãy mạnh dạn  trong mọi việc của anh em làm trong tình bác ái!” Chúng tôi xin các linh mục đọc thư này trong các nhà thờ và nhắc nhở trong bài giảng. Với các linh mục và các anh em, chúng tôi ban phép lành thần phụ của chúng tôi. Xin Chúa Trời là Cha của chúng ta, và đấng KiTô ban ơn sủng và sự bình an cho các anh em.
Hanoi, ngày 9-11-1951
ký tên : 14 giám mục (9 gốc Pháp, 5 gốc Việt)
KẾT LUẬN:
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ dã tâm thâm độc Giáo Hội La Mã trong nỗ lực thi hành chính sách chia để trị với độc kế xé nước ta ra làm nhiều mảnh nhỏ và tích cực sử dụng nhóm thiểu sô con chiên người Việt làm lực lượng nòng cốt và xung kích để chống lại đại cuộc kháng chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican của nhân dât ta để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.
(8) Trần Tam Tỉnh, Sđd., trang 81-83.
(9) Trần Thanh Lưu “Âm Mưu Bí Mật Giữa Pius – Spellman – Dulles.” Sachhiem.net ngày 13/5/2009. Nguồn: http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=557 Nguyên văn: “Cardinal Spellman and Pope Pius XII. Pius had always had deep affection for Cardinal Francis Spellman, Archbishop of New York, whom he raised to Cardinal in Frebruary, 1946. These two consistently promoted the Cold War, never condemning the U.S. plans to use the atom bomb, even aftre President Truman’s declaration that “it looks like World War III is near.”
Pius XII continued to support the U.S. lobby advocating “an atomic preventive war.” When in 1954 the U.S. Army planned a nuclear attack on the Vietnamese, besieging the French at Dien Bien Phu, the same Vatican supported lobby gave their approval. During the Eisenhower Administration, when the Dulles brothers, Spellman and thus Pius XII helped formulate U.S. policies, the U.S. military considered dropping from one to six 31-kiloton bombs on the Vietnamese forces. The weapons were three times as powerful as the Hiroshima bomb. The scheme to use nuclear weapons against Vietnamese was disclosed in declassified material on the first volume of a 17-volume official history of Viet Nam war published in 1984 by the Army’s history offlice." Avro Manhattan, Vietnam why did we go? (Chino, CA: Chick Publications, 1984), p. 72.
(10) Stanley I. Kutler (Ed.), Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Simon & Schuster McMillan, 1996), pp. 591-592. Nguyên văn: “Between 1965 and 1973, the United States used more than 14 million tons of air – and artillery high explosives on the area. The bombing done accounted about 7 million tons or more than three times the tonnage used during World War II. Most of the bombs and artillery shells, and virtually all the defoliant (nearly 12 million tons), fell on the southern half of the country. The purpose to destroy the National Liberation Front revolutionaries’ infrastructure and to deprive them of popular support in the South by driving the population into areas controlled by the South Vietnamese government. In congressional testimony in January 1966, Secretary Defense Robert McNamara introduced evidence on the success of air and artillery attacks, including “the most devasting and frightening” B.52 raids in forcing the villagers “to move to where they will be safe from such attacks regardless of their attitude to the GVN.” This, Mc Namara contininued, not only disrupted Viet Cong guerrillas’ activities but also threatened” a major deterioration of their economic base. The effect, however, was to destroy nearly one third of the cropland and more than half of the hamlets. By 1972, according to a U.S. Senate subcommittee report, U.S. air and artillery attacks were responsible for great bulk of the ten million refugees and most of the civilian casualties.”
(11) Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35.
(12) Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét