Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015
Lịch sử Bài học Israel Chương 4 - MỘT CUÔN SÁCH MỎNG ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN TỚI LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
08:04
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lịch sử Bài học Israel Chương IV MỘT CUÔN SÁCH MỎNG ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN TỚI LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
Lịch sử Bài học Israel Chương IV (B) "Théodore Herzl và cuốn “Quốc gia Do Thái”
Théodore Herzl viết trong cuốn tự truyện của ông:
“Tôi sanh năm 1860 ở Budapest, ngay sát giảng đường Do Thái giáo nơi đó
mới rồi viên Giáo trưởng (Rabbin) kết tội tôi kịch liệt chỉ vì (…) tôi
muốn cho người Do Thái được vinh dự hơn, tự do hơn hiện nay… Mới đầu tôi
vô học một trường tiểu học Do Thái, ký ức xa xăm nhất của tôi về trường
đó là lần tôi bị trừng phạt vì không thuộc các chi tiết, về cuộc di cư
ra khỏi Ai Cập. Ngày nay thì chắc có nhiều giáo viên muốn phạt tôi vì
tôi nhớ kỹ cuộc di cư đó quá”.
Ông cùng với gia đình tới Vienne, nhập tịch Hung, và viết báo, soạn vài
vở kịch, ông làm thông tín viên ở Paris cho tờ “Neue Freie Presse”, sau
làm chủ bút trang văn chương của tờ đó. Stefan Zweig khi mới cầm bút, có
lần được ông tiếp, ghi lại cảm tưởng rất tốt về ông:
“Herl đứng dậy để chào tôi và tôi cảm thấy ngay rằng lời người ta châm
biếm ỏng, gọi ông là “đức vua Sion” không sai đâu; quả thực ông ra vẻ
quốc vương lắm”.
Không phải là vì Herlz bệ vệ, oai nghiêm, mà vì ông có những nét cao
quí, một thứ cao quí bẩm sinh, làm cho Stefan Zweig phải kính phục.
Năm 1894, Herzl sống một đời vô tư, vui vẻ như phần đông người Do Thái
tri thức ở châu Âu tin rằng thế giới đã văn minh, luật pháp các nước đối
với người Do Thái đã công bằng thì các mối thù truyền kiếp hồi xưa rồi
đây dần dần sẽ mất hẳn không có gì đáng lo ngại nữa.
Ngày 22 tháng chạp năm 1894, ông được toà báo “Neue Freie Presse” phái
lại dự vụ lột lon Dreyfus trước công chúng ở Paris để viết bài tường
thuật.
Ông vì phận sự mà tới chớ không cho việc đó là quan trọng. Nhưng khi ông
thấy Dreyfus mặt tái xanh, giọng vô cùng thiểu não, thốt ra câu: “Tôi
vô tội”, thì ông bỗng thấy quặn ở trong lòng. Và khi ông nghe quần chúng
Pháp hô hét “Giết chết tụi Do Thái!” thì ông kinh hoàng, toát mồ hôi
mặc dầu trời lạnh: ông tin chắc rằng Dreyfus chỉ vì lỡ sinh là người Do
Thái như ông mà bị tội oan.
Về nhà ông đâm ra suy nghĩ: Dân tộc Pháp là dân tộc có tinh thần rộng
rãi nhất, biết trọng tự do và bình đẳng nhất; tư tưởng cách mạng đã thấm
nhuần họ trên trăm năm rồi kể từ cái hồi họ phá ngục Bastille, vậy mà
còn kì thị, bài xích Do Thái đến mức đó, thì còn mong gì ở các nước khác
nữa? Nông nỗi này thì thảm kịch Do Thái quả là bất tuyệt, vô phương
giảm được. Dân tộc Do Thái còn bị nguyền rủa, xua đuổi, căm thù đến lúc
tận thế thôi. Trừ phi là lật ngược lại vấn đề, không xin đồng hoá với
các dân tộc khác nữa, không ở nhờ một quốc gia nào nữa - họ có thực tâm
cho mình đồng hoá đâu - mà tạo lấy một quốc gia Do Thái được Hội Vạn
Quốc thừa nhận.
Vẻ mặt thê thảm của Dreyfus, tiếng gầm thét: “Giết tụi Do Thái!” ảm ảnh
ông hoài. Và tháng sáu năm 1895 sang Paris, Herzl viết trong hai tháng
xong một cuốn sách nhỏ nhan đề “Quốc gia Do Thái” (L’Etat juif). Cuốn
sách xuất bản ở Vienne ngày 14 tháng 2 năm 1896 và được dịch ra nhiều
thứ tiếng:
“Quốc gia Do Thái cần thiết cho thế giới; vậy thì thế nào nó cũng sẽ
thành lập. Nếu tinh thần thế hệ hiện nay còn hẹp hòi quá thì sẽ có có
một thế hệ khác tốt hơn, cao thượng hơn. Người Do Thái nào muốn có một
quốc gia của mình thì sẽ có quốc gia và xứng đáng được có quốc gia”.
Ông đã suy nghĩ rất kỹ, đã tiên liệu hết thảy, cả những tiểu tiết nữa,
như các vấn đề thuộc về pháp luật vì ông có bằng tiến sĩ luật. Ông tưởng
tượng sự di trú (ông chưa gọi là hồi hương) sau này sẽ thực hiện trong
những điều kiện, hoàn cảnh ra sao. Ông vẽ cờ và quốc huy cho quốc gia
tương lai của ông, ông đưa ra những dự án về các cơ quan cần thiết cho
sự thành lập quốc gia đó. Có người cho là giản dị quá ngây thơ quân
nhưng chính cải ngây thơ đó là thiên tài của ông, vì quả nhiên sau thực
hiện được.
Sự thực, trước ông đã có vài người - Do Thái và không Do Thái - viểl
những cuốn sách tương tự cuốn của ông, càng nuôi cái mộng thành lập một
quốc gia Do Thái như ông. May thay, ông đã không được đọc nhưng cuốn ấy,
vì nếu đọc thì tất ông sẽ không viết, mà quốc gia Do Thái sẽ không bao
giờ thành lập.
Những cuốn trước không gây được tiếng vang vì xuất hiện sớm quá, chưa
phải lúc và cũng vì lòng tin tưởng không nồng nhiệt, chỉ là một công
trình của lý trí, không xuất phát từ con tim.
Cái công lớn nhất của Herzl, sự nghiệp lịch sử của ông là đã tiêm được
một bầu nhiệt huyết vào lòng người Do Thái, đã làm cho lòng tư hương của
của họ có thêm một ý chí hành động, tích cực chiến đấu. Lần đầu tiên
trong lịch sử Do Thái, ông đã tạo cho dân tộc đó một sức mạnh để xây
dựng tương lai. Lần đầu tiên, một người Do Thái nhận ra rằng nếu mọi
ngưởi Do Thái ở khắp nơi trên thế giới tự coi mình là một dân tộc, tự tổ
chức thành một dân tộc thực sự có non sông, tổ quốc, thì các dân tộc
kia phải nhận họ là một dân tộc, đối đãi với họ như với một dân tộc -
chứ không phải như một giống người ăn đậu ở nhờ, lang thang, bị khinh
bỉ, hắt hủi, ông bảo: chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề
Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy.
Tác phẩm của ông hơn hẳn nhưng tác phẩm trước ở điểm ông là người Do
Thái, biết nhìn vấn đề một cách đích xác, với tấm lòng thiết tha hơn
những tác giả không phải Do Thái, mà đồng thời lại biết vượt lên trên
phạm vi Do Thái, đặt vấn đề vào một phạm vì quốc tế, điều mà các tác giả
Do Thái trước kia chưa ai nghĩ tới
Nhưng khi tác phẩm mới xuất bản, nhiều người trong giới trí thức Tây Âu
đã cho là ông điên. Một mình đứng lên hô hào thành lập một quốc gia khi
mà giang san đã vào tay người khác non hai ngàn năm rồi, khi mà đồng bào
đã phiêu bạt khắp thế giới, mất cả ngôn ngữ! Mà tại sao lại xui người
Do Thái ở Đức, Pháp, Anh… về Palestine về cái thẻo đất cháy khô đó để
làm gì. Bỏ tất cả các ngân hàng, các hãng, xưởng, bỏ công trình nghiên
cứu, công ăn việc làm ở châu Âu này à? Rồi con cải đương học ở Đại học,
Trung học, về bên đó làm gì có trường. Khí hậu bên đó nóng như thiêu,
chịu sao nổi? Đương sống yên ổn được mấy chục đời nay, vụ Dreyfus là một
vụ nhỏ, nên dìm nó đi, quên nó đi chứ sao lại đổ thêm dầu vô lửa, khêu
gợi lại vấn đề kỳ thị chủng tộc. Người ta mỉa mai ông là ôm cái mộng xây
dựng một quốc gia để làm một quốc vương, làm ngài Ngự, và khi ông vô
rạp hát thì người ta chỉ trỏ nhau: “Kìa, ngài Ngự đã tới!”. Chính chủ
nhiệm tờ “Neue Freie Presse” cũng chê là ông gàn, cấm ông không được bàn
tới vấn đề Do Thái trên tờ báo.
Nhưng cuốn sách của ông đã gây được ảnh hưởng khá lớn trong giới Do Thái
lao động ở Nga và vì họ sống điêu đứng, vẫn còn bị kỳ thị, bị ức hiếp,
vẫn hướng về Jérusalem. Thấy vậy ông sung sướng, hăng hái hoạt động,
không ngại phá sản, không ngại kiệt sức, bỏ công ăn việc lảm, mà tận tuỵ
phục vụ dân tộc Do Thái.
Ông hoạt động trên hai mặt: về nội bộ, ông tổ chức phong trào Sion, đào
tạo cán bộ, cung cấp phương tiện vật chất và tinh thần, vạch chương
trình hoạt động rồi điều khiển, theo dõi; đồng thời về ngoại giao ông
bôn tẩu khắp các xứ, ráng thuyết phục các vị vua chúa, các vị tổng
thống, các người có thế lực để họ giúp ông lập lại quốc gia Do Thái ở
Palestine. Ông muốn rằng dân tộc Do Thái tự tạo lấy vận mạng cho mình,
nhưng các dân tộc khác cũng phải tiếp tay với họ.
Năm 1897, ở Bâle, ông họp nghị Sion đầu tiên, vẻ uy nghi, râu rậm, trán
cao, nét mặt như một quốc vương Syrie. Có kẻ la: “Vạn tuế ngài Ngự”, ông
bất chấp lời mỉa mai đó. Trong nhật ký ông chép:
“Ở Bâle tôi đã thành lập quốc gia Do Thái, nhưng không tuyên bố, nếu
tuyên bố ra thì chắc mọi người sẽ cười rộ. Nhưng có lẽ trong năm năm
nữa, chắc chắn là trong năm chục năm nữa, mọi người sẽ thừa nhận quốc
gia đó”.
Thực là một lời tiên tri đúng lạ lùng. Đúng năm mươi năm sau, năm 1947,
Hội Vạn Quốc (tức Liên hiệp quốc ngày nay) quyết định tạo một quốc gia
Do Thái ở Palestine và năm sau 1948, quốc gia Israel được hết thảy các
quốc gia Âu, Mỹ thừa nhận.
Ông hoạt động không tiếc sức. Đâu đâu cũng có mặt ông, lại Paris thuyết
phục nhà xã hội học Max Nordau, qua London thuyết phục văn hào Do Thái
Zangwill; lại Istambul bệ kiến vua Thổ Nhĩ Kỳ Abd Ul-Hamid II để xin ban
bố một hiến chương cho Palestine (Palestine thời đó còn là thuộc địa
của Thổ Nhĩ Kỳ); ông tới Rome yết kiến Giáo hoàng, và vua Victor
Emmanuel III; rồi gặp Đức Hoàng, Nga Hoàng, Joseph Chamberlain.
Ông sáng lập tuần báo “Die Welt”, sáng lập ngân hàng Do Thái “Jewish
Colonial Trust”, sáng lập Quĩ quốc gia Do Thái “Keren Kayemeth Leisrael)
để mua đất ở Israel, và mỗi năm đèu tổ chức một hội nghị Sion.
Người Anh thực tình muốn giúp ông, sẵn lòng tặng ông xứ Ouganda ở trung
bộ Châu Phi để thành lập quốc gia, nhưng các người Do Thái ở Nga đặc
biệt là một thanh niên đầy nhiệt huyết, Chaim Weizmann, sau này thành vị
tổng thống đầu tiên của Quốc gia Israel - nhất định không chịu, đòi về
Israel cho được. Ouganda ở đâu? Nó là cái thứ ma quỉ gì? Trong thành
kinh không thấy có tên đó! Ông đành nhượng bộ, hứa không khi nào quên
Jérusalem, sở dĩ nghĩ tới Ouganda là muốn tạm thời giảm nỗi khổ của
người Do Thái đương chịu cái nạn pogrom tại Kichinev.
Anh còn để nghị một miền ở Ba Tây, rồi đảo Chypre ở Địa Trung Hải, họ
vẫn một mực lắc đầu. Không, Chúa đã hứa cho tổ tiên chúng tôi xứ Israel
thì chúng tôi sẽ về Israel.
Herzl mừng thầm: phong trào ông gây nên bây giờ đây mạnh, sẽ không có
sức gì ngăn cản được nó nữa. Mỗi năm, ông trình bảy tất cả các hoạt động
của ông cùng những bước tiến của phong trào Sion cho các đồng chi ở hội
nghị Sion.
Ngày 2 tháng 5 năm 1901, ông viết trong nhật ký:
“Hôm nay tôi đúng bốn mươi mốt tuổi. Tôi đã gây phong trào gần được sáu
năm rồi. Nó lảm cho tôi già đi, kiệt sức, nghèo đi.” “Một ngày kia khi
quốc gia Do Thái thành lập, người ta sẽ thấy cái gì cũng có vẻ giản dị,
tự nhiên. Nhưng một sử gia có công tâm có lẽ sẽ nhận rằng thật lạ lùn…,
sao mà một ký giả Do Thái tầm thường có thể biến đổi một miếng giẻ rách
thành một lá cờ và một đám người sa đoạ thành một quốc gia được”.
Vì lao tâm khổ tứ, ngày đêm chiến đấu với các chính quyền, thư từ liên
lạc với đồng bào ở khắp thế giới, Herzl kiệt lực tắt nghỉ năm 1904, sau
một cơn đau tim, hồi mới bốn mươi bốn tuổi.
Ngày 3 tháng 7 năm đó, ở Vienne, mấy ngàn người đi sau xe tang của ông.
“… Ngày tháng bảy đó, ai đã thấy cũng không sao quên được. Vì bỗng nhiên
từ mọi nhà ga, do tất cả các chuyến xe lửa đêm cũng như ngày, những
người ở mọi xứ, mọi quốc gia ùa cả tới: Do Thái phương Tây và phương
Đông, Thổ, Nga; từ mọi thị trấn nhỏ họ thình lình đỗ tới như một cơn
giông và trên nét mặt người nào cũng có cái vẻ hoảng sợ vì tin đó; không
bao giờ người ta cảm thấy một cách rõ rệt hơn rằng (…) đây là đám đưa
ma của vị lãnh tụ một đại phong trào. Đám tang dài bất tận. Cả thành phố
Vienne bỗng nhận thấy rằng không phải chỉ là đám tang một văn sĩ, thi
sĩ tầm thường, mà đám tang của một trong những nhả phát minh tư tưởng mà
lâu lắm mới thấy rực rỡ xuất hiện trong một quốc gia, một dân tộc. Ở
nghĩa địa, thật là huyên náo. Biết bao nhiêu người chen lấn nhau cố tới
gần quan tài, khóc lóc, la hét, vang dội lên như thất vọng điên cuồng.
(…) và lần đầu tiên trước nỗi đau khổ vô tả bột phát từ thâm tâm cả một
dân tộc gồm mấy triệu người đó, tôi cảm thấy rằng sức mạnh tư tưởng của
một người lẻ loi đã gây biết bao nhiệt tâm, biết bao hy vọng trên khắp
thế giới”(Stefan Zweig - Thế giới hôm qua).
Khi hài cốt của ông cải táng về một ngọn đồi ở cửa thảnh Jérusalem (ngọn
đồi đó mang tên ông: núi Herzl) thì không phải chỉ có mấy ngàn người
như ở Vienne mà là mấy trăm ngàn người đi theo quan tài.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét