Chương III (A) NHỮNG CẢNH ĐẦY ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO THÁI
Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015
Lịch sử Bài học Israel Chương 3 - NHỮNG CẢNH ĐẦY ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO
07:59
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lịch sử Bài học Israel
Chương III (A) NHỮNG CẢNH ĐẦY ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO THÁI
Chương III (A) NHỮNG CẢNH ĐẦY ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO THÁI
Tại các xứ theo đạo Hồi giáo:
Trước hết, chúng tôi xin kể thân phận người Do Thái ở các xứ theo Đạo
Hồi giáo. Xét chung thì ở các xứ này, số người Do Thái không đông (cả
thảy chỉ độ một hai triệu) và tình cảnh của họ không đến nỗi bi đát như ở
châu Âu.
Theo Clara Malraux trong “Civilisation du Kibboutz” (Editions Gonthier - 1964) thì tình cảnh của họ như sau:
Tại Ba Tư; năm 1875: Hễ một người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó
hoá ra dơ dáy; vậy Do Thái ở Ba Tư cũng như hạng tiện dân (intouchable)
ở Ấn Độ. Người Do Thái không được mở quán tạp hoá, trừ trong tỉnh
Hamadan. Ngày mưa họ không được ra khỏi khu vực riêng của họ - khu đó
gọi là mellah, cũng tựa như ghetto ở châu Âu - vì nếu họ đụng nhằm áo
ướt của một người theo Hồi giáo thì người này hoá ra dơ dáy.
Một người Do Thái không được làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Một người
Hồi giáo giết một người Do Thái thì chỉ phải đền cho thân nhân người bị
giết 140 kraus, rồi được tự do; người Do Thái tuyệt nhiên không được
chống án.
Ở Maroc, người Do Thái không được pháp luật coi là công dân. Họ ở dưới
quyền cai trị của nhà vua, nhà vua muốn xử với họ ra sao thì xử không
cần theo luật pháp gì cả, có thề bắt họ làm nô lệ, giết họ cũng được
nữa.
Ở Yemen, cho tới khi quốc gia Israel thành lập năm 1948, người Do Thái
không được phép lớn tiếng trước mặt một người Hồi giáo, không được cất
nhà cao hơn nhà các người Hồi giáo, không được đụng chạm người Hồi giáo,
không được cùng bán một món hàng với người Hồi giáo, phải đứng dậy
trước mặt một người Hồi giáo. Ngoài ra ngay từ hồi Mohamed (1), người ta
đã cấm họ bận những màu lợt, mang khí giới, từ lúc mặt trời lặn cho tới
lúc mặt trời mọc không được ra khỏi khu riêng của họ; họ bắt buộc phải
làm những việc dơ dáy như đổ thùng, có trẻ mồ côi thì phải giao cho nhà
cầm quyền để nhà cầm quyền cho nó theo Hồi giáo.
Cũng có khi nhà cửa của họ bị tàn phá, thân họ bị đánh đập, chém giết
nhưng đều do những nguyên nhân kinh tế, xã hội, chớ không do nguyên nhân
tôn giáo. Và tuyệt nhiên không có những phong trào diệt chủng như ở
châu Âu.
Sở dĩ vậy vì Hồi giáo không kỳ thị Do Thái giáo mạnh mẽ như Ki-tô giáo
kỳ thị (2). Do Thái và Hồi giáo chấp nhận được nhau, đôi khi còn góp sức
với nhau để chống kẻ thù chung nữa, như trong những thời Hồi giáo đi
xâm chiếm các nước khác, đặc biệt là chiếm vài nước ở châu Âu, như Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha.
***
Tại các xứ theo Ki-tô giáo
Tại các xứ theo Ki-tô giáo, nhất là ở châu Âu thân phận người Do Thái điêu đứng hơn nhiều, không thể tưởng tượng nổi.
Suốt mười mấy thế kỷ, không ở nơi này thì ở nơi khác, lúc nào cũng có
những người Do Thái bị cái cảnh: “ghetto”, “pogrom”, hoả hình, lò thiêu,
phải mang trên áo hình bánh xe hoặc hình ngôi sao vàng (một ngôi sao
sáu cánh gọi là ngôi sao David) như tội nhân mang áo dấu: bị trục xuất,
hoặc bắt buộc phải từ bỏ tôn giáo của họ mà theo tôn giáo khác: bị trút
lên đầu tất cả những tội lỗi mà họ không hề gây ra; bị treo cổ, dìm
nước, thọc tiết, thiêu sống… đâu đâu họ cũng gặp những cảnh địa ngục,
chỉ vì họ là Do Thái.
Những hồi họ được sống yên ổn nhất thì thân phận của họ cũng chỉ như
thân phận một nô lệ, một tên cùi. Người ta cấm họ có bất động sản, thành
thử muốn theo nghề nông thì họ chỉ có thể làm nông nô, tá điền. Muốn
khá giả họ phải ở châu thành làm thợ kim hoàn, hoặc buôn bán, đổi tiền,
cho vay. Giáo hội Ki-tô cấm tín đồ cho vay lấy lãi nên nghề sêt-ti, nghề
ngân hàng gần thành độc quyền của họ. Cha truyền con nối, nhờ có kinh
nghiệm của những thế hệ trước, họ làm giàu rất mau, chính vì giàu mà gây
nhiều kẻ thù.
Người ta bắt họ phải sống trong những khu biệt lập gọi là ghetto, ban
đêm không được ra khỏi khu. Những ghetto nổi danh nhất là ghetto Venise
thành lập năm 1516, trong đó họ sống chui rúc như trong những hang
chuột, chịu đủ thứ cấm đoán, mất hết tự do.
Sự học hành của họ bị hạn chế. Ngay đầu thế kỷ XX mà ở Nga, trẻ con Do
Thái cũng khó kiếm được một chỗ học. Chính phủ Nga không ra mặt cấm hẳn
mà dùng một chính sách xảo trá, ra một sắc lệnh cho các trường Trung học
chỉ được thu một số học sinh Do Thái bằng 10% số học sinh theo Ki-tô
giáo, trong khi châu thành nào có người Do Thái thì số dân Do Thái cũng
chiếm từ 30 đến 80% trong số dân vì họ bắt buộc phải sống chung gần như
trong những ghetto của Đức, Ba Lan.
Nếu chẳng may trong nước có một tai hoạ gì, bất kể là do tự nhiên hoặc
do nhân sự, thì người ta trút hết cả tội lỗi lên đầu lên cổ họ. Mất mùa
mà đói kém ư là tại tụi Do Thái đã làm cho Thượng đế nổi giận; bệnh dịch
hạch phát sinh ra ư, chết hàng triệu người ư, cũng tại tụi Do Thái nữa;
chiến tranh mà bại ư, tại tụi Do Thái phản trắc, ngầm cấu kết với địch;
có đảo chánh ư, cũng tại âm mưu của Do Thái.
Người ta bắt họ đóng thuế thật nặng, vắt họ như vắt bò sữa, có khi tịch
thu tài sản rồi đẩy họ ra khỏi cõi, thời nào cũng vậy, chớ không phải
chỉ trong thời Đức Quốc Xã, thế chiến vừa rồi. Tình cảnh đó bất công đến
nỗi một người trong Công giáo đã phải thốt ra câu này: “Nếu chỉ cần
ghét tụi Do Thái cũng đủ là một người công giáo ngoan đạo thì hết thảy
chúng ta đều là những công giáo ngoan đạo”.
***
Các cuộc tàn sát Do Thái
Từ hồi viễn chinh của Thập tự quân, thế kỷ XI cuộc tàn sát Do Thái mới thực sự bắt đầu.
Năm 1096 người ta rủ nhau đi giải thoát mộ của Chúa Ki-tô, và còn có gì
hữu lý đứng trước khi làm việc thiêng liêng đó, phải trả thù những kẻ mà
non 1100 trước đã chịu trách nhiệm vẽ cái chết của Chúa, đã giết Chúa.
Ở Worms trong hai ngày người ta giết tám trăm người Do Thái; bất kể là
đàn ông đàn bà, già trẻ, hễ là Do Thái mà không chịu theo đạo Ki-tô là
bị chém giết bằng gươm, bằng giáo, bằng thuổng cuốc.
Ở Mayence, cảnh còn rùng rợn hơn nữa vì người Do Thái chống cự lại, rồi
như say máu, họ quay lại giết chinh người cùng đạo với họ, giết cả vợ
con, cha mẹ họ! Thật là kinh khủng. Có những bà mẹ đương cho con bú, cầm
ngay lấy dao hay gươm cứa cổ con để cho chúng khỏi chết vì tay những
người không theo đạo Do Thái. Bảy trăm người chết trong vụ đó.
Cộng hai vụ là một ngàn rưởi mạng. Một ngàn rưởi mạng đó đã tạo cho dân
Do Thái một tâm hồn mới: họ biết rằng không thể sống chung được nữa,
người ta cũng bắt họ phải đổi đạo thì họ lại càng cương quyết giữ đạo,
giữ truyền thống của họ.
Thù oán họ nhứt là một số tín đồ Ki-tô giáo. Người phương Đông chúng ta
đọc lịch sử phương Tây không làm sao hiểu nổi cái mối thù non hai ngàn
năm của đa số dân chủng châu Âu đối với dân tộc Do Thái. Tôi có cảm
tưởng rằng người phương Tây có tinh thần - tôi gần như muốn nói là cái
“máu” kỳ thị màu da và tôn giáo. Chỉ ở châu Âu chúng ta mới thấy những
chiến tranh tôn giáo dằng dai và kinh khủng nhất trong lịch sử nhân
loại; và chỉ ở Mỹ - cũng là gốc Âu nữa - chúng ta mới thấy những vụ tàn
sát da đỏ và da đen nối tiếp nhau hàng thế kỷ. Người phương Đông chúng
ta vẫn thường chém giết nhau vì quyền lợi, vì danh dự, đôi khi cũng vì
tín ngưỡng, nhưng cơn giận xong rồi thì thôi, Việt Nam, Trung-hoa, Nhật
Bản hay Triều Tiên… lại vui vẻ sống chung với nhau, buôn bán với nhau,
gả con gả cháu cho nhau, nhậu nhẹt với nhau, làm thơ tặng nhau, có bao
giờ mà thù nhau truyền kiếp như đa số người theo Ki-tô giáo đối với
những người theo Do Thái giáo, hoặc đa số người Mỹ da trắng đối với
người Mỹ da đen.
Mà hai tôn giáo đó - Do Thái giáo và Ki-tô giáo - vốn là anh em với nhau
chứ! Thánh Mẫu Marie và Chúa Ki-tô đều là Do Thái cả. Cả hai đều tuân
theo những luật của Moïse, một vĩ nhân của Do Thái. Chúa Ki-tô lại còn
giảng đạo trong những giảng đường của Do Thái giáo, môn đệ của Ngài đều
là người Do Thái. Người ta bảo các thầy tu và tín đồ Do Thái đứng về
phía nhà cầm quyền La Mã mà phản Ngài, nên Ngài mới bị xử tử, và khi
Ngài bị đóng đinh trên thánh giá, tụi Do Thái reo: “Nếu chúng ta có tội
thì máu hắn cứ rớt lên đầu chúng ta và con cái chúng ta”, rồi người ta
dựng lên một thuyết kỳ dị rằng dân tộc giết Chúa sẽ đời đời kiếp kiếp bị
một hình phạt rất nặng là lang thang hoài trên thế giới để chuộc tội.
Những điều tôi mới trình bày ở trên đều rút trong bài “L’antisemitisme,
plaie des temps moderne” của Léon Poliakov đăng trong Le Courrier de
l’Unesco số đặc biệt tháng mười năm 1960.
Trong số tháng giêng năm 1961, cũng tạp chí đó, linh mục Congar, viết
một bài trả lời Léon Poliakov, nhan đề là Les chrétiens et l’
antisemitisme, đại ý nói rằng ý kiến của Léon Poliakov có phần đúng,
nhưng có vài điểm ông không đồng ý, chẳng hạn:
1. Người Công giáo ghét người Do Thái khỏng phải là vô lý: trong bốn thế
kỷ đầu sau Tây lịch, người Công giáo bị giết hại rất nhiều vì sự tố cáo
của người Do Thái
2. Sự thù oán Do Thái do tôn giáo khác nhau chứ không do óc kỳ thị chủng tộc.
3. Chính người Do Thái tự sống cách biệt với người Công giáo chứ không phải tại người Công giáo dồn họ vào cácghetto.
4. Tư tưởng Công giáo thời xưa không chống riêng gì người Do Thái mà
chống hết thảy những người ngoại đạo, Do Thái hay không Do Thái.
5. Trong giới Công giáo cũng có nhiều người bênh vực Do Thái, như Giáo hoàng Pie XI, Pie XII.
Ông Poliakov nhận rằng bốn điều 1, 2, 3, 5 đều đúng và ông cũng nghĩ như
Linh mục Congar có khác chỉ là ở tiểu tiết thôi. Nhưng về điểm 4 thì
ông giữ ý kiến của ông: rõ ràng là người Do Thái bị người Công giáo ghét
một cách đặc biệt vì cái mối thù “giết Chúa” từ hồi xưa.
Người Do Thái có giết Chúa không? Điều đó, chúng tôi không biết. Việc
xảy ra đã non hai ngàn năm rồi, nhà khảo cứu nào dám chắc là nắm được sự
thực? Nhưng dù rằng Chúa Ki-tô chết vì bị vu oan, bị phản, thì những
thầy tu và tín đồ đã phản Ngài cũng không phải là toàn thể dân tộc Do
Thái, không phải là toàn thể những người Do Thái có mặt lúc đó nữa. Vả
lại thời nào, dân tộc nào mà chẳng có những tăng lữ thối nát hoặc sợ sệt
hùa theo chính quyền. Chính Chúa Kitô trước khi tắt thở còn “xin Cha
tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”, thế thì tại sao người ta lại
thù oán cả dân tộc Do Thái, thù lây đến cháu chắt của họ cả mấy chục
đời sau nữa?
Sau vụ tàn sát năm 1096 ở châu Âu, tiếp tới các vụ dưới đây:
Năm 1113, “pogrom” đầu tiên ở Kiev, Ukraina ( Nga). Chúng tôi không được
biết pogrom hồi đó kinh khủng ra sao, nhưng đọc những tài liệu mới đây
viết về đời cô Golda Meyerson, (bộ trưởng Bộ ngoại giao của Israel hồi
nhỏ sống ở Nga) được biết ở cuối thế kỷ XIX, tại Nga, Ba Lan, người Do
Thái vẫn còn bị cái hoạ pogrom, pogrom là một tiếng Nga có nghĩa là bạo
động phá phách. Thỉnh thoảng dân Nga hay Ba Lan vì một chuyện xích mích
gì đó, nổi điên lên rủ nhau từng đoàn hàng mấy trăm người, cầm dao, búa,
gươm, gậy vào những khu Do Thái mà khủng bố, đập phá, chém giết vô tội
vạ. Cuộc bạo động lan từ tỉnh này qua tỉnh khác, một vài tháng mới dẹp
xuống. Dân Do Thái mỗi lần nghe tin một đợt pogrom nổi lên, sợ xanh mặt,
đóng kín cửa lại, chặn hai ba lớp, không dám ló mặt ra, hồi hộp đợi
từng giờ từng phút, luôn trong mấy ngày, cho bọn hung thần đi qua. Mặc
dầu vậy, chủng vẫn tông cửa xông vào, rất ít gia đình Do Thái tránh
được.
Chính Chaim Weizmann (2), tổng thống đầu tiên của Israel, trong cuốn
Naissance d’Israël (Ganimard 1957) nhắc lại những nỗi kinh khủng của
đồng bào ông trong những vụ pogrom năm 1881 và 1903.
Năm 1138 - Bọn Alhomade tàn sát Do Thái ở Tây Ban Nha.
Năm 1182 - 1198 - Vua Philippe Auguste lưu đày tụi Do Thái
Năm 1189 - Viễn chinh lần thứ ba của Thập tự quân. Tàn sát Do Thái ở Anh.
Năm 1215 - Giáo Hoàng Innocent III ra lệnh cho Do Thái phải đeo hình bánh xe nhỏ (rouelle) ở ngực.
1254 - Vua Saint Louis lưu đày Do Thái.
1290 - Do Thái bị trục xuất ra khỏi Anh.
1330-1338 - Do Thái bị tàn sát ở Đức.
1348 - Nhân bệnh dịch hạch hoành hành ở châu Âu, người trút tội lỗi lên đầungười Do Thái và tàn sát họ
1391 - Do Thái bị giết ở Séville và bắt buộc phải cải giáo ở Tây Ban Nha
1394 - Vua Charles VI lại lưu đầy người Do Thái.
1421 - Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne.
1492- Do Thái bị trục xuất khõi Tây Ban Nha
1495 – Do Thái bị trục xuất khỏi Lithuanie.
1498 – Do Thái bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha.
1516 – Thành lập ghetto đầu tiên ở Venise.
1563 – 1656 – Do Thái bị tàn sát ở Ukraine, Đức, ba Lan, Áo
1670 – Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne
1740- Do Thái ở Prague bị lưu đày.
1768 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Ukraine.
1827 – Nga hoàng Nicolas I bắt buộc các trẻ em Do Thái phải cải giáo.
1866 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Roumanie
1883 - Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Nga.
1883 - Do Thái bị trục xuất khỏi Moscow.
1894 - Vụ Dreyfus (trong chương sau chúng tôi sẽ kể)
1903 - Một vụ pogrom xảy ra ở Kichinev (Roumanie)
1905 - Nga thua Nhật - Cách mạng nổi lên ở Nga, và người ta lại trút cả
tội lên đầu Do Thái do đó có nhiều vụ pogromxảy ra trong tháng 10.
1919-1921 - Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Nga
Bảng liệt kê ở trên, chúng tôi trích trong cuốn Israel của David
Catarivas. Dĩ nhiên, ông chỉ ghi những vụ lớn lưu danh trong lịch sử
châu Âu thôi, còn những vụ hành hung; giết chóc lẻ tẻ, trong mỗi tỉnh,
mỗi làng thì không thể nào chép hết được.
Nhưng tất cả những vụ đó, ngay cả những vụ ở Worms, ở Mayence, thế kỷ
XI, cũng không thấm vào đâu so với những vụ tàn sát Do Thái ở Ba Lan và
Đức trong thế chiến vừa rồi.
Đã kỳ thị tôn giáo, nay lại thêm kỳ thị chủng tộc
Trước kia người ta thù oán, căm hận nổi doá lên mà chém giết cho hả, lần
này thì Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát Do Thái một cách bình tĩnh, có
kế hoạch, có tổ chức theo đúng tinh thần khoa học, cho nên ghê gớm rùng
rợn vô cùng, không tiền khóang hậu trong lịch sử nhân loại.
Người ta muốn tận diệt người Do Thái và như vậy, nhen lại lòng kỳ thị
tôn giáo dĩ nhiên, là không đủ, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo rồi,
lấy lẽ gì mà giết họ. Cho nên người ta phải gây thêm lòng kỳ thị chủng
tộc: hễ tổ tiên ba bốn mươi đời là Do Thái thì cũng bị giết, bất kỳ là
đã cải giáo hay không cải giáo. Muốn kỳ thị chủng tộc, thì phải có một
thuyết phân biệt chủng tộc: Dân Đức Quốc Xã moi các sách cũ trong thư
viện ra và tim thấy cuốn Espèces de Plantesxuất bản năm 1753 của nhà vạn
vật học Thuỵ Điển tên là Linné (1707-1778). Linné phân loại cây cỏ làm
24 giống, vạch những tinh chất đặc biệt của mỗi giống, lập thành một hệ
thống tài tình được các nhà khoa học thế giới rất hoan nghênh. Phân loại
cây cỏ rồi, ông phân loại tới loài người: “giống Âu da trắng mà siêng
năng”, “giống Á da vàng mà dai sức”, “giống Phi da đen mà bạc nhược” và
“giống Mỹ da đỏ mà nóng nảy”.
Thế là thuyết chủng tộc đã phát sinh và những người sau tha hồ mà phân
tích, tưởng tượng, chia thêm ra vô số tiểu chủng nữa: giống Âu gồm những
tiểu chủng Mông cổ, Thái, Mã Lai… Người ta cố tìm những nét đặc biệt về
sắc, tướng của mỗi giống rồi cố giảng rằng những sắc, tướng đó quyết
định tính tình, đức tốt, và tật xấu của con người. Cố nhiên, trong các
giống người đó, có giống Do Thái và người ta tranh nhau vạch những đức
cũng những tật của người Do Thái mà quên rằng thế giới hiện nay nếu còn
có một giống Do Thái thì giống đó tất phải là những người Ả Rập sống
trên lưu vực sông Euphrate, chứ không phải là những người Do Thái đã
nhập tịch Anh, Đức, Ý, Mỹ.., và sống ở London, Berlin, La Mã, New York…
vì những người này đã lai cả chục lần rồi, trong huyết quản may lắm là
còn giữ được một phần mười máu của tổ tiên họ hồi theo Moïse mà định cư ở
Israel.
Và người ta reo mừng rằng đã kiếm được một “căn bản khoa học” cho chủ nghĩa bài xích Do Thái.
Sau thế chiến thứ nhất, Đức Quốc Xã nắm ngay lấy cơ hội, tuyên truyền
rằng giống Do Thái có máu quỉ quyệt, phản bội - thì xưa họ chẳng phản
Chúa đấy ư? - không khi nào đồng hoá với các dân tộc khác, sống ở xứ nào
cũng như bọn người lạ, chỉ tìm cái lợi cho họ mà nhiều khi chống lại
chính phủ - thuyết cộng sản chẳng phải là thuyết của Karl-Marx, một tên
Do Thái đấy ư? - Vậy để cho họ sống, sẽ có hại cho nền an ninh của Đức,
mà một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi
nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới sẽ lai bậy bạ mà sa đoạ lần lần
mất. Phải tống cổ tụi Do Thái đi, sau khi tịch thu tài sản của chúng;
như vậy lợi cho quốc gia biết bao, vì người Do Thái nào mà chẳng có
nhiều tải sản: bọn đó là con buôn ham tiền mà keo cú, tích luỹ tiền đã
mấy chục đời rồi!
Mới đầu người ta cấm họ hành nghề, rồi người ta cấm họ vào các rạp hát,
các thư viện, các viện tàng cổ. Họ vẫn nhẫn nhục ở trong cái xứ mà từ
bấy lâu nay họ đã coi là tổ quốc, dù sao như vậy vẫn còn hơn là làm bọn
hành khất ở các nước khác. Rồi người ta cấm họ mướn người ở - một giống
hạ tiện đâu có quyền mướn một người thuộc giống cao quý nhất thế giới -
lại bắt họ phải đính ngôi sao David (3) lên áo để cho mọi người dễ nhận
ra họ như nhận tụi cùi, tụi tù nhân. Không ngờ ở thế kỷ chúng ta mà câu
tục ngữ Nga này lại đúng đến thế: “ Không ai dám chắc suốt đời không
phải làm kẻ ăn mày hoặc kẻ tù tội!”
Từ các nhà bác học tới các giáo sư Đại học, các giám đốc ngân hàng, hễ
tổ tiên ba bốn mươi đời là Do Thái, thì cũng đành phải xin tờ hộ chiếu
của một nước khác, rồi bỏ hết tài sản lại cho Đức Quốc Xã, xách một va
li nhỏ đựng ít quần áo rồi ra đi. Một sản phẩm lạ lùng của thế giới văn
minh này là tờ hộ chiếu. Không có tờ đó hộ thân thì có tài đức bực gì
cũng bị nhốt khám? Có khi ở trong một xứ, đi từ tỉnh này qua tỉnh khác
cũng phải có một tờ hộ thân. Einstein, nhà bác học làm vẻ vang cho cả
nhân loại, đã được chính phủ Đức ban cho đủ các ân huệ, dựng một tượng
bán thân của ông ở Postdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm,
gọi là tỏ “lòng quý mến và ngưỡng mộ bất tuyệt” của dân tộc mà rồi ít
năm sau, người ta đòi lại tất cả những cái đó, ông sợ, không dám trở về
quê quán nữa, trốn ra đi, qua Bỉ, sống lén lút trong một ngôi nhà có cửa
song sắt và đêm nào cũng phải có một người lính canh cho ngủ. Ở Bỉ cũng
không yên, ông lại phải trốn qua Mỹ, nhập tịch Mỹ làm giáo sư trường
Đại học Princeton.
Freud cũng là một bậc thiên tài của nhân loại, đã phải trốn trước
Einstein từ năm 1938, hồi 80 tuổi, ông qua ở nhờ nước Anh, gặp văn sĩ
Stefan Zweig ở London. Trước kia trong cuốn L’avenir d’ une illusion
(Tương lai của một ảo ảnh), Freud đã bảo rằng nhân loại xây dựng được
nhiều nền văn minh, nhưng số người văn minh thì thời nào cũng rất ít, và
đa số chỉ có cái bề ngoài là văn minh; họ hoảng sợ khi nghĩ tới chuyện
giết người, hiếp dâm nhưng rồi chính họ, nếu gặp cơ hội thoả mãn thú
tính của họ mà không bị trừng trị thì sẽ không do dự gì cả, thẳng tay
làm hại đồng loại bằng mọi phương tiện tàn nhẫn, bỉ ổi, không ngờ mà
ngay trong đời ông, ông phải thấy thuyết của ông đúng quá: ông và hàng
triệu đồng bào của ông đã là nạn nhân của cái nền văn minh bề ngoài ấy
của phương Tây.
Freud chết ở London năm 1936. Ba năm sau, nghe thấy những tin tức rùng
rợn về cuộc tàn sát Do Thái ở Trung Âu và Tây Âu, Stefan Zweig âu sầu
quá, tự tử sau khi đã để lại cho đời một hồi ký thê thảm nhan đề “Le
monde d’hier” (Thế giới hôm qua) trong đó có đoạn chua chát:
“Những
cái thảm thương nhất trong bị kịch Do Thái ở thế kỷ XX này là những kẻ
bị tai hoạ không thể hiểu nổi ý nghĩa của bi kịch đó; tại sao người ta
lại giết họ khi họ không có lỗi gì cả? Thời trung cổ, tổ tiên họ phải
đau khổ, nhưng ít nhất cũng hiểu mình đau khổ vì cái gì: vì tín ngưỡng,
vì luật trong đạo (…). Và khi người ta liệng họ lên giàn hoả, thì họ ôm
Thánh Kinh vào lòng, nhờ nhiệt tâm trong lòng mà chịu được sức nóng của
ngọn lửa thiêu họ (…) Nhưng đã từ lâu rồi, những người Do Thái ở thế kỷ
XX không còn tín ngưỡng đó nữa, chỉ muốn sáp nhập vào các dân tộc khác
(…); đã từ lâu rồi họ thành, những người Pháp, Đức, Anh, Nga, không còn
nhiều tính cách Do Thái nữa, thì tại sao người ta lại tàn sát họ, hốt họ
như hốt bùn trên đường (…) Tại sao họ phải chịu hoài số kiếp đó? Mà chỉ
có riêng họ phải chịu? Người ta tàn sát họ như vậy là có lý do gì
không? Có ý nghĩa gì không? Có mục đích gì không? Tại sao?
Chú thích:
1. Giáo chủ Hồi giáo (570 – 632) hồi xưa quen viết là Mahomet
2. Theo J. madaule trong Les Juifs et le monde actuel –Flammation – 1963
3. Ông sanh ở Motel (tỉnh Minsk) trên đất Nga – Có sách viết là Zaim Weizmann.
4. Vua thứ nhì của Israel, đã thắng dân tô(c Philistin (khoảng 1000 năm trước Tây lịch)
Lịch sử Bài học Israel Chương III (B) Châu Âu trở thành một lò sát sinh mênh mông và kinh khủng.
Đúng
năm Stefan Zweig tự tử ở bên Anh thì tại tổ quốc ông, bọn Hitler dùng
đủ các phương pháp khoa học tối tân để giết cho kỳ hết dân Do Thái ở Đức
và khắp các nước mà chúng chiếm được. Quê hương của Kant, Goethe, của
Bach, Beethoven thời đó biến thành một lò sát sinh mênh mông, kinh khủng
mà cảnh vạc dầu ở âm ti không thể nào sánh kịp. Một dân tộc chịu non
hai ngàn năm giáo hoá của đạo Ki-tô, rồi mấy trăm năm giáo hoá của biết
bao triết gia, thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ tài giỏi vào bậc nhất thế giới,
mà chỉ sau có mấy năm tuyên truyền của bọn Hitler, hoá ra tàn bạo đến
như vậy ư?
Nếu vậy thì nhân loại mấy ngàn năm nay lầm lẫn rồi ư? Cái công giáo hoá
của giáo đường, của trường học quả thực là không đáng kể: kết quả chẳng
qua chỉ như những chấn song sắt của một chuồng cọp sở thú. Hễ cửa sắt mở
ra lúc nào là cọp xông ra liền lúc đó, hoành hành dữ dội hơn trước nữa.
Có lẽ nên tìm một phương pháp khác chăng? Chẳng hạn kiếm một thứ thuốc
trị các thú tính của con người và cứ lâu lâu bắt mỗi người phải chích
như ngày nay chúng ta chích ngừa bệnh dịch thì loài người mới hết dã man
được chăng? Dẫu đến Néron, Tần Thủy Hoàng tái sinh cũng không thể tưởng
tượng nổi những phương pháp mà tụi Đức Quốc Xã đã dùng trong thế chiến
vừa rồi để giết sáu triệu người Do Thái châu Âu. Hành động của họ, nhân
loại chưa có danh từ gì để gọi, và năm 1946, trong vụ án Nuremberg để xử
bọn Quốc Xã chịu trách nhiệm về thế chiến, người ta đã phải đặt ra một
danh từ mới, danh tử Génocide (diệt chủng) vì Génocidegồm tiếng Hi Lạp
Génos nghĩa là chủng tộc và tiếng La-tinh Caedere nghĩa là giết. Diệt
chủng là tiêu diệt một giống người nhiều một cách suy tính, có phương
pháp.
Những người Do Thái nào vì bệnh tật, ốm yếu quá gần chết rồi thì bọn S.S
(1). của Đức khỏi tốn công bắn làm chi, cử xô cả xuống một huyệt lớn đã
đào sắn, đã chất củi, rồi tưới dầu xăng lên mà đốt.
Như vậy còn là nhân từ đấy. Nhiều kẻ tàn nhẫn tới nỗi coi sự giết người
là một trò chơi hoặc một môn thể thao: Chẳng hạn tên S.S. Gebauer chuyên
môn bóp cổ trẻ con hoặc dìm đầu chúng vào bể nước lạnh cho chết ngạt.
Một tên khác, Heinen, bắt các người Do Thái xếp hàng chữ nhất rồi hắn
trổ tài bắn một phát sao cho chết được càng nhiều người càng thích, cũng
như ta cầm cái xiên để xiên một xâu thịt nướng hoặc một xâu hành vậy.
Một tên nữa treo ngược người Do Thái lên rồi cá với bạn xem kẻ bị hình
phạt đó chịu đựng được bao lâu. Có kẻ muốn tỏ mình sức mạnh phi thường,
nắm hai chân một người đưa lên rồi xé như ta xé vải. Có kẻ lại tung em
bé lên trời cho thật cao rồi, cầm súng bắn để xem nó bị trúng đạn mấy
phát trước khi rớt xuống đất. Một tướng lãnh nọ tên là Frank Jaeckeln
muốn tỏ ra mình nhiều khả năng, bắn liên tiếp suốt ngày đêm, chỉ trong
bốn mươi tám ngày mà giết được ba mươi ngàn người Do Thái, trung bình
mỗi phút giết được mười hai người: Một nền văn minh đào tạo được những
con người như vậy, đáng phục thật!
Nhưng riết rồi họ cũng chán cái trò đó. Với lại phương pháp giết người
như vậy “ngoạn mục” thì ngoạn mục đấy nhưng thiếu tính cách khoa học:
tốn xăng, tốn đạn, phí sức, phí thì giờ, mà số Do Thái thì nhiều quá.
Người ta bèn nghĩ cách chế tạo những lò thiêu và những phòng hơi ngạt.
Dùng hơi ngạt - oxyde de carbon - kết quả rất mau, “năng suất” tăng lên
phi thường. Chỉ trong mươi, mười lăm phút là giết được mấy trăm mạng.
Khổ một nỗi là giết rồi còn phải đem chôn hoặc đốt ra tro nữa. Chôn thì
thịt tan ra, nhưng còn lại bộ xương, đốt ra tro thì mới phi tang được.
Muốn đốt thì phải dùng lò thiêu mà sức nóng lên tới 800 độ. Quẳng một
xác người vô lò thì chỉ trong một giờ là tiêu hết, còn lại một đống tro
nặng khoáng một kilogam.
Nhờ những phương pháp tân kỳ, rất khoa học đó mà sự tàn sát Do Thái mới
tiến mau được: trại giam Maidenneck trước sau giết được 750.000 Do Thái;
tại Chelmno giết được một triệu; rồi trại Dachau, Buchenwald,
Mauthausen, Oranienbourg. Bliziny, Fossenberg, Natgweiler, Ravensbruck
nữa.
Nhưng không có đâu ghê gớm bằng trại Auschwitz! Auschwitz với ba triệu
thây ma, Auschwitz nơi mà có những núi giày, những phòng chất đầy nhóc
những cặp kính của những kẻ bạc mệnh để lại, những kho đầy tóc dùng vào
việc nhồi đệm và những kho đầy răng vàng nhổ ở miệng các thây ma ra; nơi
mà tên giảm đốc dùng một sọ người để chặn giấy, nơi mà mỉa mai thay, ở
ngoài cũng có hàng chữ lớn: “Sự làm việc giải thoát con người!”. Họ làm
việc quả là đắc lực, có hiệu năng quán tuyệt cổ kim, chỉ trong có mấy
năm “giải thoát được ba triệu con người Do Thái”. Thượng đế thăm thẳm
trên chín tầng xanh chắc cũng ngửi thấy mùi khét lẹt, mùi thịt cháy của
ba triệu người Do Thái trong trại Auschwitz!
Cuối năm 1944, Đức Quốc Xã biết trước thể nào cũng thua Đồng minh, càng
hoảng hốt, giết cho thật nhiều Do Thái, nhất là hạng Do Thái có học
thức, sợ họ mà sống sót thì sẽ trả thù. Cho nên hai chục ngàn Do Thái từ
giáo sư Đại học tới y sĩ, văn sĩ, luật sư, bị đưa từ Tiệp Khắc về
Birkeneau để thủ tiêu. Sau đợt đó, kế tiếp nhiều đợt nữa, kết quả là ở
Birkeneau trước sau có 1.900.000 thây ma, trong số đó có gần một triệu
Do Thái Ba Lan, năm vạn Do Thái Đức, mười vạn Do Thái Hoà Lan, mười vạn
Do Thái Pháp, trên hai chục vạn Do Thái Hungary…
Rồi muốn phi tang, chúng ra lệnh phá hết các lò thiêu, các phòng hơi
độc, đem những bộ xương người chưa kịp đốt ra nghiền nát, rắc lên ruộng.
Chúng hoảng hốt làm việc suốt ngày đêm, và ngày 22 tháng giêng năm
1944, quân đội Anh ,Mỹ tới giải phóng Auschwitz và Birkeneau thì chỉ còn
cứu được năm vạn người Do Thái Ba Lan trong số ba triệu người bị chúng
giam.
Tính ra trước sau có trên sáu triệu người Do Thái bị Hitler giết trong
thế chiến vừa rồi, một số rất ít trốn thoát kịp qua Anh, Mỹ…, một một số
khác cũng được ít người bạn thân là người Công giáo giấu giếm như
trường hợp em Anne Frank (coi tập Nhật ký rất hồn nhiên cảm động của em,
đã lược dịch ra tiếng Pháp trong loại sách bỏ túi, gần đây cũng đã được
dịch ra tiếng Việt), nhưng hần hết rồi cũng bị bắt, nhưng hầu hết thì
rồi cũng bị bắt.
Dĩ nhiên, khi người ta đã thấy không sao thoát chết được, khi người ta
cầm bằng cái chết rồi thì người ta không sợ nó nữa, không sợ một bạo lực
nào nữa và người ta anh dũng chống cự lại, nắm tay nhau ca hát xông vào
họng súng và lưỡi lê của bọn sát nhân, tức như trường hợp bi hùng của
người Do Thái trong ghetto Varsovie.
Năm 1940, sau khi chiếm được Ba Lan, quân Đức Quốc Xã nhốt 400.000 người
Do Thái ở Varsovie. Một số rất lớn chết vì thiếu ăn thiếu mặc, hoặc bị
giết trong các trại diệt chủng. Đầu năm 1943 chi còn lại 60.000 người.
Himmler muốn “thanh toán” cho xong, ra lệnh “tập hợp” họ lại thật gấp để
“đưa vô trại”. Công việc bắt đầu ngày 19-4-1943. Dân số trong ghetto
giảm đi bao nhiêu thì chu vi của ghetto thu lại lấy nhiêu cho dễ kiểm
soát, vì vậy lúc đó ở ghetto chỉ còn là một khu rộng ba trăm thước, dài
một ngàn thước. Tên tướng S.S. Stroop ra lệnh tấn công, không ngờ dân Do
Thái chống cự lại kịch liệt bằng dao mác, búa thuổng, gạch đá… Bọn
S.S., phải đốt phá từng căn nhà một. Người Do Thái không còn nấp trong
nhà được nữa, chui xuống các ống cống lớn, quân Đức hun khói mà họ cũng
không ra, thà chịu chết với nhau trong cống chứ không chịu nạp mạng cho
Đức. Họ cầm cự như vậy non một tháng, mãi tới ngày 16-5-1943, Stroop mới
có thể báo cáo lên thượng cấp rằng ghetto Varsovie đã thành bình địa:
56.065 người Do Thái bị giết, một số bị bắt sống và chở ngay tới trại
Treklinka. Quân Đức tổn thất nặng, không biết đích xác là bao nhiêu.
Tinh thần anh dũng của người Do Thái ở Varsovie đã kích thích đồng bào
của họ chiến đấu trong bưng biền tại khắp các nước châu Âu, và sau này
kích thích đạo quân Hagana (vệ quốc quân) chống với Anh, với Ả Rập trước
và sau ngày thành lập quốc gia Israel.
***
Trách nhiệm về ai?
Đức Quốc Xã phải chịu trách nhiệm về tất cả những cuộc tàn sát dã man
đó, không còn chối cãi gì được nữa. Nhưng xét cho cùng bọn Hitler không
thể bỗng nhiên dựng lên thuyết chủng tộc để diệt Do Thái nếu tinh thần
bài xích, kỳ thị Do Thái không có sẵn trong lòng một số đông dân chúng ở
châu Âu, đặc biệt là Ba Lan và Nga.
Vậy thì lỗi ở một số người Ki-tô giáo đó, hạng người thở đức Ki-tô mà
không nhớ lời của Ngài khi hấp hối trên thành giá: “Xin Cha tha thứ cho
họ vì họ không biết họ làm cái gì”.
Lại truy nguyên lên nữa thì ta nhận như linh mục Congar trong bài Les
Chrétiens ét l’anteismetisme rằng chỉ tại người Do Thái hồi đầu kỷ
nguyên đã giết đức Ki-tô và tố cáo những tín đồ Ki-tô khi bị bài xích.
Nhưng nếu ta nhận rằng con người có quyền thù dai tới mức trên ngàn rưởi
năm vẫn chưa nguôi thì khắp thế giới này chỉ là một Auschwitz mênh mông
bất tuyệt. Vì không có một dân tộc nào không có cớ để thù một dân tộc
khác và như vậy thì có nên cho mấy vạn trái bom nguyên tử và khinh khi
hiện đã có sẵn ở Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Hoa, nổ luôn một lúc cho địa
cầu tan tành ngay bây giờ đi không?
Chú thích:
1. Tiếng Đức là Schutz Staffeln, viết tắt là SS, chỉ đội quân tinh nhuệ
của Đức Quốc Xã làm thị cho Hitler hoặc làm Cảnh sát, Công an.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét