Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

NGƯỜI VIỆT NAM & “ĐẠO GIÊ-SU” - NMQ - 6


CHƯƠNG 5



XI.- CHÍNH SÁCH NGU DÂN VÀ CHIA ĐỂ TRỊ ẢNH HƯỞNG MẠNH MẼ ĐẾN CÁC VĂN PHẨM LỊCH SỬ CỦA TÍN ĐỒ DA TÔ NGOAN ĐẠO
Trong chương trình giáo dục được áp dụng trong toàn cõi Việt Nam từ năm 1862 cho đến năm 1954 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, môn lịch sử thế giới hầu như không hiện hữu. Riêng về môn sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, những người soạn thảo chương trình đều được lệnh phải biến soạn theo đúng đường lối mà Giáo Hội đã vạch ra để làm thế nào trong chương trình học phải không có một bài học lịch sử nào để lộ ra những hành động can thiệp thô bạo của Giáo Hội La Mã vào chính sự Việt Nam trong suốt thời kỳ từ giữa thập niên 1780 cho đến tháng 4 năm 1975. Tình trạng này khiến cho những lớp người sinh ra và lớn lên trong thởi Liên Minh Pháp – Vatican thống trị Việt 1885-1945 và những người sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 cũng như những người theo học các trường đạo hầu như không biết gì về lịch sử thế giới và hiểu biết rất sai lạc về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Đặc biệt hơn nữa, họ lại càng không biết gì về những rặng núi tội ác mà Giáo Hội La Mã đã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ giữa thập 1780 cho đến ngày 30/4/1975.
Riêng về tín đồ Da-tô, tình trạng này càng tệ hơn nữa. Họ càng cuồng tín hay càng tin tưởng vào Tòa Thánh Vatican, thì họ càng không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật, càng không biết gì về lịch sử thế giới và càng không biết gì về lịch sử Việt Nam. Trong bài viết Những Đứa Con Hoang (đã đưa lên sáchhiem.net tháng 11/2007), người viết đã gọi những người không biết gì về lịch sử như vậy là những đưa con hoang trong cộng đồng dân tộc và cũng là những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại.

A.- MỘT SỐ NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÍN ĐỒ DA TÔ
Có một điểm hết sức nực cười là có một số nhiều tín đồ Da-tô cuồng tín (ngoan đạo) người Việt không biết rõ bản thân họ là những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc và trong cộng đồng nhân loại (dốt đặc về lịch sử), nhưng lại thường hay bàn luận về những vấn đề liên quan đến lịch sử. Khôi hài hơn nữa, trong các cộng đồng Da-tô người Việt ở trong nước trước ngày 30/4/1975 và ở hải ngoại sau ngày 30/4/1975, có một số người không có một chút căn bàn nào về sử học, lại ham hố học đòi biên soan sách sử để làm dáng và khoe khoang lảm ra vẻ ta đây cũng là loại người thông kim bác cổ. Tình trạng này chẳng khác nào những đứa con hoang trong xã hội viết giả phả về dòng họ của chúng. Rõ ràng là những kẻ dốt thường hay nói chữ.
Thật là tội nghiệp cho họ! Theo sự tìm hiểu của người viết, họ là những người có những đặc tính:
1.- Không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật. Tình trạng này đã khiến cho họ gặp rất nhiều khó khăn khi phải đối diện với những sự kiện lịch sử do các nhà viết sử chân chính nêu lên. Ở vào trường hợp này, đáng lý ra họ phải vào trong các thư viện tìm đọc các tài liệu lịch sử để kiểm chứng xem những sự kiện đó đúng hay không đúng (sai), sau đó họ mới có phản ứng. Nhưng họ đã không làm như vây. Dựa vào một chút hiểu biết sai lạc về lịch sử mà họ đã tiếp nhận được ở các trường học thi hành chính sách ngu dân do Giáo Hội La Mã chủ trương và đạo diễn và mớ kiến thức mấy ông giáo sĩ Da-tô mớm cho họ, họ khăng khăng cãi bựa, cãi cối, cãi chày, rồi chuyển sang đề tài khác mà thường thường là họ quay ra chửi bới các chế độ Cộng Sản hay chính quyền Việt Nam hiện nay hoặc là gièm pha và chửi bới các tác giả có văn phẩm đề cập đến những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã hay những rặng núi tội ác phản quốc của tín đồ Da-tô người Việt trong thời cận và hiện đại. Những trường hợp thông thường nhất là họ quay ra gièm pha, sỉ vả, chửi bới và chụp mũ đối phương là “Cộng Sản”, “Cộng Sản nằm vùng” hay “tuyền truyền cho Cồng Sản”, đặc biệt là khi phải đối đầu hay tranh biện về những đề tài như:
a.- Những tín lý Ki-tô chỉ là những chuyện hoàng đương láo khoét nặng tính cách mê hoặc để lừa gạt người đời.
b.- Những lời phán như “Chúa sẽ trừng phạt”, “sẽ bị Chúa đày xuống hỏa ngục”, “Kẻ nào không tin ông Jesus là Chúa Cứu Thế thì sẽ bị đày xuống địa ngục”, v.v.., bị cho là những lời láo khoét được bịa đặt ra để hù dọa và khủng bố tinh thần những người yêu bóng vía, ít học, nhẹ dạ cả tín,v. v…,
c.- Những lời dạy của Giáo Hội nặng tính cách bịp bợm, chẳng hạn như Giáo Hội La Mã “là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là “Hiền Thê Của Thiên Chúa Làm Người”, “ngoài Giáo Hội không có cứu rỗi”, “Giáo Hoàng không lầm lẫn”, “Kẻ nào tin ông Jesus là Chúa Cứu Thế thì sẽ được lên thiên đường”, v.v…,
d.- Những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua, và
e.- Những tội ác phản dân tộc và phản quốc của tín đồ Da-tô người Việt từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày nay.
Gặp những trường hợp như vây, hoặc là họ đổ lỗi cho người khác (như trường hợp nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn giải thích lươn lẹo về câu hỏi do nhân vật thằng Anh đặt ra là vấn đề “Đạo Công Giáo mang thực dân Pháp chiếm nước ta?” ở nơi trang 355 trong cuốn Xóm Đạo [i], hoặc là họ tìm cách lảng tránh và chuyển sang đề mục khác.
f.- Khi phải đối diện với những tác phẩm trình bày rõ ràng về những vấn đề nêu lên trong các mục a, b. c, d và e trên đây, vì không biết phải phản bác như thế nào, họ quay ra dùng những ngôn từ hạ cấp của phương đá cá lăn dưa để gièm pha và sỉ vả những tác giả của các tác phẩm này. Ở vào trường hợp này, họ thường dùng thủ đoạn bới móc đời tư và thêm thắt những gì xấu xa để miệt thị và chửi bới các tác giả của các tác phẩm này. Đây là thủ đoạn của ông Da-tô Nguyễn Văn Chức khi viết cuốn Việt Nam Chính Sử và các tác giả viết những bài viết (đăng trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong và các tờ báo lá cải khác ở hải ngoại) nhằm mục đích duy nhất là chửi bới và hạ nhục Cụ Đỗ Mậu, tác giả cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (California: TXB, 1986). Chính người viết cũng đã từng trở thành nạn nhân của họ vì đã biên soạn (1) bài viết Tướng Nguyễn Chánh Thi Vơi Cuộc Chính Biến 11/11/1960 in trong cuốn Nhìn Lại Biến Cố 11/11/1960 (Houston, TX; Văn Hóa, 1997), và đã phát hành (2) Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Tacoma, WA; TXB, 1998), (3) A Poem For My Children [Bài Thơ Cho Con] (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), (4) Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA: TXB, 1999), và (5) Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004).
2.- Không trực tiếp đọc hết Cựu Ước và Tân Ước mà chỉ nghe lời các ông truyền giáo hay các ông linh mục nói rằng thánh kinh là cuốn sách chứa đựng những tinh hoa của nhân loại. Vì thế mới có tình trạng:
a.- Ông cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức tuyên bố và viết ra thành giấy trắng mực đen rằng:
Riêng về phần Thiên Chúa Giáo, quyển Thánh Kinh sẽ là cẩm nang trong sứ mạng phục con người và đạo lý tại Việt Nam.”[ii]
b.- Ông Nguyễn Anh Tuấn hợm hĩnh bốc thơm thánh kinh còn hơn cả lời tấng bốc thánh kinh của ông Da-tô Nguyễn Văn Chức. Chúng ta hày đọc những lời ông Nguyễn Anh Tuấn viết:
"Từ một thế kỷ nay những người được coi hay tự nhận là trí thức hay sĩ phu đã chóa mắt vì văn minh khoa học vật chất của Tây Phương, nên chẳng còn ai tin vào đạo lý và sôi kinh nấu sử nữa. Họ háo hấc, hăm hở, cuồng nhiệt quay qua Tây phương để tìm kiếm học hỏi. Nhưng các giá trị tự do dân chủ cao quý và những giá trị sâu thẳm của toàn bộ văn minh tinh thần là Cựu Ước và Tân Ước, hay cuộc Cải Cách Tôn giáo (reformation) của khối Cơ Đốc giáo, thì không có ai để mắt tới.”[iii]
Những lời viết trên đây chứng tỏ ông Da-tô Nguyễn Văn Tuấn đã không đọc hết Thánh Kinh, hay đã đọc những không hiểu gì hết, cho nên mới có tình trạng “ăn ốc nói mò” như vậy! Xin ông Nguyễn Anh Tuấn hãy trưng dẫn những đoạn văn nào trong thánh kinh nói về “các giá trị tự do dân chủ cao quý và những giá trị sâu thẳm của toàn bộ văn minh tinh thần là Cựu Ước và Tân Ước, hay cuộc Cải Cách Tôn giáo (reformation) của khối Cơ Đốc giáo”?
Phải chăng “các giá trị tự do dân chủ cao quý và những giá trị sâu thẳm của toàn bộ văn minh tinh thần là Cựu Ước và Tân Ước” mà ông Nguyễn Anh Tuấn đề cao như trên ” là những gì được ghi rõ ràng trong Cựu Ước nơi các sách Leviticus (26:1-22), trong sách Dân Số (31: 1-54), Sáng Thế Ký (19:30-38), và trong Tân Ước, đặc biệt là những lời dạy của ông Jesus trong sách Matthew (10: 34-37) với nguyên văn như sau:
34.-Một Nguyên Nhân Chia rẽ. (A Cause of Division)- Chớ tưởng rằng ta đến đây để đem sư bình an cho thế gian; ta đến đây không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo.(Do not think that I have come to bring peace upon the earth. I have come to bring not peace but the sword.) 35.- Ta đến đây để con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng;(For I have to set a man against his father, a daughter against her mother, and a daughter–in- law against her mother-in-law). 36.- và sẽ có kẻ thù nghịch là chính những người trong nhà mình (and one’s enemies will be those of his householdd 37.- Điều kiện là môn đệ (Condition of Discipleship): Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta, ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta. (Whoever loves father or mother more than me is not worthy of me, and whoever loves son and daughter more than me is not worthy of me.”
Trong cộng đồng Da-tô người Việt, không phải chỉ có hai ông Nguyễn Văn Chức và Nguyễn Anh Tuấn “ăn ốc nói mò”, bốc thơm thánh kinh bậy bạ như vậy, mà còn rất nhiều người khác cũng như vậy hay còn tồi tệ hơn thế rất nhiều!.
3.- Không biết gì toàn bộ lịch sử thế giới, tức là không biết gì về trào lưu tiến hóa của nhân loại từ cái thuở hồng hoang: Thời đó, con người còn sống trong tình trạng hái lượm, ở trong hang trong hốc, chưa biết sử dụng lửa để nấu chín miếng ăn, chưa biết chế ra vải để may quần áo che thân. Rồi trải qua không biết bao nhiêu gian khổ, tiền nhân ta đã phải chống lại tình trạng ngu dốt bằng những cố gắng liên tục nặn óc suy nghĩ, tìm tòi, điều nghiên những hiện tượng thiên nhiên, rồi dựa vào những hiện tượng này phát minh ra những phương cách và dụng cụ để cải tiến cuộc sống hàng ngày, chống lại những khó khăn do thiên nhiên gây ra, chống lại những thế lực phong kiến phản động muốn kìm hàm con người ở trong tình trạng ngu dốt để dễ bề lừa gạt và bóc lột (người đời) mà điển hình là Giáo Hội La Mã. Nhờ những quá trình tranh đấu gian khổ và trường kỳ trong nhiều ngàn năm, loài người mới tiến đến trình độ văn hóa và văn minh vượt bực như thời đại tin học của ngày nay. Vì tín đồ Da-tô không được học toàn bộ lịch sử thế giới, cho nên không biết gì về những sự kiện này.

Nhân bất học, bất tri lý. Vì không được học sử, cho nên họ không biết:

a.- Tại sao các nhà viết sử lại gọi thời Trung Cổ ở Âu Châu là Thời Kỳ Hắc Ám (the Dark Ages)?

b.- Tại sao, từ đầu thế kỷ 14, nhân dân Âu Châu vùng lên thành những phong trào tranh đấu chống lại Giáo Hội La Mã mà sách sử gọi là Thời Kỳ Phục Hưng và Cải Cách Tôn Giáo - The Renaissance and Reformation (1309-1648)?.

c.- Tại sao hay nguyên nào đã đưa đến việc nẩy sinh ra phong trào Tin Lành của Linh-mục Martin Luther (1483-1546) và của nhà thần học John Calvin (1504-1564)?

d.- Động lực nào đã phát sinh Phong Trào Lý Trí – Age of Reason (1687—1789) và Phong Trào Cách Mạng Dân Chủ - The Age of Democratic Revolutions (1603-1815)?
e.- Động lực hay nguyên nhân nào đã khiến cho Cách Mạng Pháp 1789 bùng nổ?
f.- Tại sao chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 đã có những biện pháp mạnh như tịch thu toàn bộ hết bất động sản ruộng đất của Giáo Hội La Mã, tước bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi mà trước đó các chế độ đạo phỉệt Da-tô đã dành cho Giáo Hội, ban hành Bản Hiến Chương Dân Sự cho Giới Tu Sĩ Da-tô, trong đó có điều khoản đòi hỏi giới người này phải tuyên thệ trung thành với hiên pháp, chứ không phải trung thành với Tòa Thánh Vatican hay giáo hoàng, và nghiêm trị những tu sĩ và tín đồ Da-tô chống lại chính quyền Cách Mạng? (Sẽ nói rõ vấn đề này trong Mục XXVI, Phần VII trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.)
Không biết những biến cố trọng đại trên đây, họ quả thật là đã trở thành những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại.
4.- Có vẻ như rất thông suốt cổ sử nước Do Thái, nhưng lại không thông suốt quốc sử Việt Nam. Thực ra, dù là đã có bằng cấp đại học, về môn lịch sử, họ chỉ được học những bài lịch sử do bọn sử nô Da-tô biên soạn theo chỉ thị của Giáo Hội La Mã. Những gì mà nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn tuyên bố bậy bạ trong cuốn băng nhạc Paris By Night 81 và trong cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản, Tân Văn, 2003), và những gì mà ông trí thức Da-tô Nguyễn Gia Kiểng viết bậy viết bạ trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (Paris, TXb, 2003) đặc biệt là nơi trang 187 đều là do các nhà truyền giáo hay Giáo Hội La Mã đã dạy dỗ họ cả. Sự kiện này, chứng tỏ rằng họ quả thực là những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc.
5.- Di ứng đối với tất cả những sách sử và tài liệu lịch sử nói về Âu Châu trong thời Trung Cổ, nói về đời sống hoang đàng loạn dâm, loạn luân, dâm loàn, đĩ điếm và những hành động bạo ngược của các giáo hoàng cũng như các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican và của giới tu sĩ Da-tô tại các giáo khu và họ đạo rải rác khắp nơi trên thế giới.
6.- Không biết gì những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại cao chất ngất và trùng trùng như hàng chục rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Chính vì những rặng núi tội ác này mà trong khoảng 10 năm cuối của cuộc đời, khi đi đến bất kỳ quốc gia nạn nhân nào của Giáo Hội, Giáo Hoàng John Paul II cũng xin lỗi lia lịa, tính ra tất cả có tới trên dưới 100 lần. Rồi cũng vì những rặng núi tội ác này mà Ngài đã phải cho tổ chức một buổi đại lễ vô cùng long trọng ở Quảng Trường Peter (tại kinh thành Rome) vào buổi sáng ngày Chủ Nhật 12/3/2000 để chính Ngài và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican chính thức đứng ra cáo thú tội ác cùng với Chúa trước sự chứng kiến của hàng trăm triệu khán thính giả ở ngay tại chỗ và qua các kênh truyền hình khắp nơi trên thế giới.
7.- Có bản chất huênh hoang khoác lác, ưa thích lòe thiên hạ, làm ra vẻ ta đầy là trí thức thuộc loại thông kim bác cổ. Văn tức là người. Bản chất này được phơi bày ra một cách hết sức trơ trẽn (không bằng cách này thì cũng bằng cách khác) ở trong những lời nói khi họ nói chuyện với mọi người hay trong những ấn phẩm của họ. Chuyện ông Nguyễn Văn Chức khoe khoang ăn hết 5 ký yến rồi cuốn góii trốn khỏi Việt Nam vào ngày 29/4/1975, chuyện ông Cao Thế Dung tự xưng là có bằng tiến sĩ, chuyện mấy ông Da-tô ở Seattle tự xưng là thi sĩ, là giáo sư khi nói chuyện với những người mới gặp lần đầu và khi viết những chuyện lăng nhăng đăng trên mấy tờ báo lá cải.
Đọc những bản văn hay ấn phẩm của ông Da-tô Tiến-sĩ tự phong Cao Thế Dung, hay các ông Da-tô khác như Nguyễn Cần, Nguyễn Anh Tuấn (trong bài viết Đề Nghị Gửi “Tầng Lớp Sĩ Phu, Trí Thức và Chuyên Gia thụôc thế hệ trẻ trong và ngoài nước và độc giả đã được phổ biến trên diễn đàn tiengnoigiaodan.net, tháng 10/2007)”, v.v…, chúng ta có thể nhận ra cái đặc tính hợm hĩnh, huênh hoang khác lác, xấu xa này.
Ngoài các ông Da-tô dốt lịch sử trên đây, còn có nhiều ông Da-tô khác đã được chúng tôi nêu lên và trình bày khá rõ ràng trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000) và trong bộ sách Thực Chất của Giáo Hội La Mã (Tacoma, Washington, 1999). Riêng ông cựu luật sư Nguyễn Văn Chức, cũng có những giọng điệu khoa trương lòe đời với nhừng lời văn rỗng tuếch qua cung cách sử dụng sách lược “cáo đội lốt hùm” trong cuốn Việt Nam Chính Sử mà chúng tôi đã trình bày ở nơi Chương 16 trong cuốn Thực Chất Của Giáo Hội La Mã - Quyển Hai, và trong lá thư đề ngày 1/11/1995 gửi ông cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara mà chúng tôi đăng lại nguyên văn và phân tích ở nơi Chương 22 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963.[iv] .
8. Mang cố tật ưa thích tố cáo láo, tố cáo suông, vu khống, bới móc đời tư và thêm thắt đủ điều xấu xa để hạ giá và làm nhục tất cả những tác giả có ấn phẩm nói lên những sự thật về những chủ trương, chính sách và những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua và của các chế độ đạo phịêt Da-tô tay sai của Tòa Thánh Vatican.
9.- Mang căn bệnh cuồng tín, rất sợ Chúa, nhưng lúc nào cũng nghĩ đến Chúa và tuyệt đối tin tưởng vào những lời cầu xin để được Chúa ban phước lành. Sự kiện này được nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại với nguyên văn như sau:
Từ thuở chưa có trí khôn, cũng giống như bao nhiêu người Công Giáo khác, anh (Thông) đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí thượng tôn tín ngưỡng, bằng những giáo điều bất di bất dịch, theo thời gian ngấm dần vào trí óc anh, khiến anh làm cái gì cũng sợ tội, sợ Chúa trừng phạt.” [v]
Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì….”[vi]
10.- Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican và các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội La Mã hay các chính quyền liên minh với Vatican, thí dụ như chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954 và các chính quyền miền Nam Việt Nam làm tay sai cho Liên Minh Mỹ- Vatican trong những năm 1954-1975.
Đây là một trong những phương cách của Vatican để rèn luyện và uốn năn tín đồ thành những người sống theo tinh thần “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa. [vii] , và sống theo cái “ý niệm về trật tự trên dưới: Nhất Chúa, nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống.[viii]
11.- Mang căn bệnh đội trên, đạp dưới, kèn cựa, ganh ghét, đố kị, ti hiềm với những người đồng đẳng, nhưng lại vô cùng sợ Tòa Thánh La Mã đến nỗi có những linh mục nói rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.” Sự kiện này được ông Da-tô Nguyễn Văn Trung ghi nhận với nguyên văn như sau:
Điểm lại tình hình của Giáo Hội Việt Nam, có những điều trông thấy mà đau đớn lòng! Thực vây, chuyện giáo dân bị coi như cỏ rác thường ngày ở huyện. Chuyện đau lòng hơn cả là chuyện các ngài chủ chăn chơi nhau thay vì chơi với nhau ngày càng phơi trần ra. Sự sa đoạ trong Giáo Hội càng ngày càng tăng thêm….
Người dân chỉ có quyền vâng lời, đóng góp và hầu hạ các Đấng, các bậc trong Hội Thánh. Ai vâng lới dưới 100% có thể bị coi là rối Đạo và bị loại trừ dưới mọi hình thức, nhất là không vâng lời về chuyện chính trị và tiền bạc thì xem như là lúa đời, phạm tội cực trọng, đáng sa hoả ngục đời đời chẳng cùng Amen. Thật ra, chính trị và tiền bạc đã và đang là nguyên nhân chính gây nên sự mất bình an, sa đọa và làm hoen ố hình ảnh tươi đẹp của Giáo Hội Việt Nam.
Thượng bất chính hạ tắc loạn: Ai có dịp gần gũi các giám mục Việt Nam đều có chung nhận xét rằng về cá nhân, các ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dẽ mến, trừ một ít vị tỏ ra cao ngạo, khép kín, quan liêu. Nhưng trong lề lối làm việc của các giám mục thường rất độc tài, độc đoán. Trong đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và kèn cựa với đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những điểm nổi bật nhất là tiền hậu bất nhất,việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại khinh nội, tham phú phụ bần, vô cùng sợ hãi Tòa Thánh đến nỗi Tòa Thánh Vatican, đến nỗi có những linh mục nói rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.”[ix]


B.- NHỮNG ĐIỀU “DỊ ỨNG” KHIẾN CHO TÍN ĐỒ DA TÔ NGOAN ĐẠO KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC CÔNG VIỆC VIẾT SỬ
Vì mang nặng những đặc tính không biết gì về lịch sử thế giới, đặc biệt là thời Trung Cổ, hiểu biết sai lạc về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, dị ứng với tất cả các tài liệu nói lên sự thật về những việc là tội ác của Giáo Hội La Mã và của những chế độ đạo phiệt tay sai của Vatican, nặng tinh thiên vị Ki-tô giáo và khinh rẻ những thành phần thuộc các tôn giáo khác, (tà giáo là sai quấy,tín đồ Ki-tô là đúng - Pagans are wrong, Christians are right), chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican, v.v…), cho nên tín đồ Da-tô ngoan đạo người Việt trở thành hạng người không có khả năng và quá nhiều dị ứng như:
1.- Không biết rằng viết sử là phải ghi lại những biến cố lịch sử đúng như đã xẩy ra trong quá khứ và phải nói rõ những quá trình hoạt động của các tác nhân lịch sử:
a.- Hoặc là họ đã từng liều thân hy sinh chiến đấu cho quyền lợi tối thượng cho dân tộc hay đã làm được những việc làm ích quốc lợi dân đáng được ghi vào sách sử. Đây là trường hợp của những vị anh hùng dân tộc đã hy sinh trọng đời cho đại cuộc đánh đuổi Liên Quân Xâm Lược Pháp - Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và đại cuộc đánh tan Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để hioàn thành nhiệm vụ lịch sử thống nhất đất nước.
b.- Hoặc là họ đã từng hoạt động tiếp tay cho một hay nhiều thế lực ngoại thù chống lại dân tộc và tổ quốc để thoả mãn tham vọng của cá nhân, gia đình, phe đảng, hay tôn giáo riêng của họ. Đây là trường hợp của nhóm thiểu số tín đồ Da-tô, của bọn phong kiến phản động và của bọn lưu manh xu thời đón gió đã đi theo các thế lực ngoại xâm Pháp, Vatican và Mỹ chống lại dân tộc và tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 24/4/1975.
Tín đồ Da-tô ngoan đạo (cuồng tín) không thể hay không có khả năng làm được những điều trên đây vì rằng truyền thống Da-tô của họ là “tốt khoe ra xấu xa đậy lại” và “phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật xẩy ra trong giáo xứ”. Sự kiện này đã được nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn đã nói rõ cho chúng ta biết trong tác phẩm Xóm Đạo của ông.[x]
2.- Không có khả năng phân biệt phải, trái và điều nào thuận lý, điều nào nghịch lý, vì họ:
a.- Có nỉềm tin mù quáng vào những chuyện cực kỳ huyễn hoặc, hết sức hoang đường trong hệ thống tín lý Ki-tô.
b.- Chỉ biết phải triệt để sống theo cái ý niệm về trật tự trên dưới “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” Khẩu hiệu quái đản trên đây bắt nguồn từ chủ trương “Thần quyền chỉ đạo thế quyền” của Tòa Thánh Vatican. Chủ trương này phải được hiểu rộng là “Nhất Tòa Thánh Vatican hay Giáo Hội La Mã, thứ nhì là các ông giáo sĩ, thứ ba là các chính quyền do Vatican đưa lên làm tay sai cho Giáo Hội La Mã.”
c.- Tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican bất kể là tư cách và hành động của Tòa Thánh có đáng cho họ phải trung thành hay không!
d.- Triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã bất kể là những lệnh truyền này đúng hay sai.
Cũng vì tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican và triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đấng bề trên trong Giáo Hội La Mã mà trong thời Cách Mạng Pháp 1789, tín đồ Da-tô ngoan đạo người Pháp đã nghe lời các đấng bề trên của họ nổi loạn tiếp tay cho Liên Minh Thánh Phổ - Áo - Anh chống lại dân tộc và tổ quốc Pháp, và trong suốt chiều lịch sử từ thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975, tín đồ Da-tô người Việt đã cam tâm muối mặt làm tay sai cho Liên Minh Thánh Pháp - Vatican và Liên Minh Thánh Mỹ - Vatican chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Cho đến ngày nay, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, tín đồ Da-tô cuồng tín người Việt vẫn còn triệt để tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên của họ để chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
3.- Không có khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa ý kiến (opinions) và sự kiện (facts), giữa nguyên nhân và hậu quả.
4.- Không được học toàn bộ lịch sử thế giới, nên hiểu biết lịch sử Việt Nam một cách sai lạc.
5.- Không có đủ kiến thức tổng quát vì rằng họ quá cuồng tín, thành khẩn tin rằng con người khởi thủy được nặn ra bằng đất sét theo hình ảnh của Thiên Chúa và sống theo sự an bài của Thiên Chúa tức là sự an bài của Tòa Thánh Vatican. Vi vậy, họ không hiểu biết gì về những bước tiến của nhân loại từ thuở hồng hoang cho đến thời tin học như ngày nay như đã nói ở trên. Họ không biết rằng loài người đã phải trải không biết bao nhiêu là chông gai gian khổ, chống lại những sự khó khăn thiên nhiên, chống lại sự ngu dốt, chống lại những thế lực chuyên chế, phong kiến phản động có chủ trương dùng bạo lực và thi hành chính sách ngu dân để kìm hãm loài người trong ngục tù ngu dốt để dễ bề mê hoặc và lừa bịp người đương thời bằng những chuyện huyễn hoặc, hoang đường láo khoét để thủ lợi. Điển hình cho thế lực chuyên chế phong kiến phản động này là Giáo Hội La Mã.
6.- Không có khả năng sử dụng lý trí để phân tách tài liệu lịch sử đáng tin cậy và loại bỏ những gian thư ngụy tạo, để rồi chỉ căn cứ vào những tài liệu khả tín mà tham khảo.
7.- Không có thái độ vô tư và tinh thần công bằng khi đưa ra những nhận xét về những việc làm hay nhân vật trong lịch sử. Họ luôn luôn có đầu óc thiên lệch với định kiến là “Tà giáo (các thành phần thuộc các tôn giáo khác) là sai quấy. Tín đồ Ki-tô là phải. ” (Pagans are wrong. Christians are right.)[xi]
8.- Không có can đảm để nói lên những sự thật về những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua cũng như những rặng núi tội ác của giới tu sĩ và tín đồ Da-tô người Việt đã cấu kết với Liên Minh Pháp - Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày nay.
9.- Bệnh Dị Ứng đối với :
a. Quốc sử Việt Nam, đặc biệt là trong thời cận và hiện đại.
b. những tài liệu và sách sử nói về những việc tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua.
c. những tài liệu nói về những tội ác của giới tu sĩ và tín đồ Da-tô người Việt đã liên tục gục mặt cúi đầu làm tay sai cho Liên Minh Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ thập niên 1780 cho đến ngày nay.
d. những tài liệu và sách sử nói về đời sống phóng đãng, loạn luân, dâm loàn, gian dâm, thông dâm với nữ tín đồ, sờ mó và hiếp dâm các trẻ em rước lễ của các giáo hoàng, của các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican và của giới tu sĩ Da—tô ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tình trạng này đã xẩy ra trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ 4, cho đến ngày nay, tình trạng này cũng vẫn chưa chấm dứt.
e. những tài liệu nói về những cuộc thanh toán tàn sát lẫn nhau đề giành giật ngôi vị giáo hoàng và chiếm ưu thế quyền lực trong giáo triều Vatican từ thế kỷ 4 cho đến khi Cách Mạng Pháp 1789 bùng nổ, và vẫn còn tiếp cho đến ngày nay dưới một hình thức tinh vi hơn, siêu việt hơn.
(Tội ác của Giáo Hội La Mã nêu lên trong tiểu mục 15 và trong tiểu mục 16 trên đây đã được trình bày một phần nào ở trong Chương 1 ở trên và sẽ được trình bày đầy đủ ở trong Mục V và Mục VII (Phần II) trong bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.)
f. tội ác của các ông Da-tô lãnh đạo chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975, không dám nói đến cũng như bản chất đánh thuê của Quân Đội Miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
g. những tư tưởng tiến bộ của các đại tư tưởng gia trên thế giới và những phát minh khoa học nếu không được Giáo Hội La Mã cho phép. Sư kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận như sau:
Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển Việt Nam, hoặc các tài liệu đều bị cho là ngược với đạo. Các sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói, tới Các Mác (Karl Marx) vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ…”[xii]
h. thuyết tiến hóa của nhà bác học Robert Darwin (1809-1882).
Vì ở vào tình trạng bất khả và mang những căn bệnh dị ứng như trên đây, họ không có đủ khả năng và điều kiện để biên soạn một tác phẩm về lịch sử.
Với thực trạng như vậy, làm sao mà họ có thể hoàn thành được một tác phẩm lịch sử?
Độc giả có thể kiểm chứng lời khẳng định này bằng cách tìm đọc bất kỳ ấn phẩm nào của họ. Thí dụ như các cuốn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo của Linh-mục Bùi Đức Sinh, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan của Linh-mục Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Chính Sử của ông Da-tô Nguyễn Văn Chức, Tổ Quốc Ăn Năn của ông Da-tô Nguyễn Gia Kiểng, tất cả các tác phẩm cúa ông Da-tô Lữ Giang, tất cả những tác phẩm của ông Da-tô Cao Thế Dung và bất kỳ những ấn phẩm nào khác của bất kỳ ông Da-tô cuồng tín (ngoan đạo) người Việt ở hải ngoại cũng như ở trong nước. Đọc xong rồi, quý vị sẽ thấy rõ sự thực thê thảm này về trình độ hiểu biết về lịch sử cũng như về kiến thức tổng quát của họ.
Do đó, họ chỉ có thể trở thành bọn sử nô và chỉ có thể sản xuất ra những mớ tài liệu tuyên truyền để tôn vinh Giáo Hội La Mã và các chế độ đạo phiệt Da-tô tay sai của Vatican.

C.- MỘT VÀI MÁNH MUNG CỦA BỌN VĂN NÔ DA–TÔ ĐỂ ĐÁNH BÓNG GIÁO HỘI LA MÃ VÀ BỌN DA-TÔ PHẢN QUỐC LÀM TAY SAI CHO VATICAN
Dĩ nhiên là khi biên soạn những ấn phẩm có liên hệ đến Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo phiệt Da-tô, họ phải cố gắng bịa đặt ra những điều tốt đẹp tưởng tượng hoặc là moi móc tìm ra cho được điều gì khả dĩ có thể cho là tốt đẹp để họ tô son điểm phấn và tôn vinh Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo phiệt Da-tô tại các địa phương. Đồng thời, họ còn có nhiệm vụ phải che giấu hay bưng bít tất cả những việc làm xấu xa, dã man và tàn ác của Giáo Hội cũng như của bọn tay sai bản địa. Đây là sạch lược của Giáo Hội La Mã về việc biên soạn sách sử tại các quốc gia địa phương có quyền lực của Giáo Hội vươn tới. Sách lược này đã được các nhà truyền giáo tiên phong thực thi trước để làm guơng cho tín đồ. Chính vì tình trạng này mà các nhà viết sử mới cho rằng những gì mà các nhà truyền giáo nói hay kể lại đều là chuyện hoang đường. Đây là sự thực và sự thực này được các linh mục biết rõ hơn ai hết. Thỉnh thoảng, có lẽ vì vô tình, họ thốt ra sự thật này cho chúng ta biết như trường hợp Linh-mục Phan Phát Huồn ghi lại trong cuốn Việt Nam Giáo Sử với nguyên văn như sau:
Phần đông các sử gia cho những truyện của giáo sĩ thuật lại là những chuyện hoang đường.” [xiii]
Về kỹ thuật đánh bóng Giáo Hội La Mã và chính quyền đạo phiệt tay sai của Vatican, ngoài việc bịa đặt ra những chuyện tốt đẹp tưởng tượng, bọn văn nô Da-tô còn sử dụng thủ đọan “nhập nhằng đánh lận con đen” và “lộn sòng”, nghĩa là để ké những nhân vật của Giáo Hội mà chúng muốn đánh bóng vào chung với những vĩ nhân của nhân loại hay những vị đại anh hùng của dân tộc. Xin kể ra đây một số trường hợp:
Trường hợp 1.- Năm 1986, nhóm văn nô Da-tô biên soạn cuốn Anh Hùng Nước Tôi (San Jose, CA: Đông Tiến, 1986). Trong cuốn gian thư này, họ kê ra khoảng 60 vị anh hùng dân tộc thực sự của đất nước từ thời Bà Trưng cho đến ngày nay, trong gần cuối cuốn sách, họ cho xen tên phản thần tam đại Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm vào trong đó với ý đồ làm cho những người ít học hay không thấu hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại lầm tưởng rằng tên tam đại Việt gian Da-tô họ Ngô này thực sự là một nhà ái quốc.
Trường hợp 2.- Năm 1998, tên thi nô Da-tô Bút Chì làm bài thơ thất ngôn bát cú có tựa đề là Chướng Tai Gai Mắt đăng trong tờ Góp Gió số 55 phát hành tại Seattle vào tháng 6 năm 1998 với nguyên văn như sau:
Mác-lê dăm đứa Việt lai căng
Sách báo gần đây chúng viết rằng:
Đại Đế Quang Trung là bọn cướp,
Gia môn Đình Dệm mấy người gian
Chướng tai cẩu trệ tru văn hóa
Gai mắt đười ưoi bẹo diễn đàn
Cái lũ bôi đen dòng lịch sử
Nghe qua ai chẳng giận bầm gan.
Ngày 18/5/1998 – Bút Chì.

Sự thực, việc gọi là “Đại Đế Quang Trung là bọn cướp” là do các nhà truyền giáo đã dạy dỗ tín đồ Da-tô người Việt từ giữa thập niên 1780, thời điểm mà Giám-mục Bá Đa-tô cấu kết với Nguyễn Phúc Ánh và được trao cho việc dẫn Hoang Tử Cảnh sang Pháp vận động xin quân viện cho tên Việt gian “cõng rắn căn gà” nhà này để đánh bại nhà Tây Sơn. Lời dạy dỗ mất dạy này cũng được tên Da-tô Nguyễn Gia Kiểng ghi lại trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn với nguyên văn như sau:
Nguyễn Huệ xuất thân là tướng cướp, nhờ liên hệ với quân Thượng và quân gốc Chiêm Thành mà mạnh dần lên, rồi nhờ tài dùng binh ma lên làm vua….” [xiv]
Cũng nên biết, ông Da-tô Nguyễn Gia Kiểng là em ruột tên Việt gian Da-tô Nguyễn Gia Hiến và cũng là lãnh tụ của Lực Lượng Đoàn Kết (gồm toàn tín đồ Da-tô ở Hố Nai, Dốc, Mơ, Gia Kiệm, Xóm Mới, Bình An, Bùi Môn, Bùi Phát, Tam Hiệp, Tam Hà, v.v…). Trong những năm 1964-1966, tên Việt gian Da-tô Nguyễn Gia Hiến cùng với hai tên linh-mục Việt gian Hoàng Quỳnh và Mai Ngọc Khuê tổ chức những cuộc biểu tình của giáo dân chống lại chính quyền của Đại Tướng Nguyễn Khánh trong những năm 1964-1965 và đưa ra khẩu hiệu “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” vào tháng 8 năm 1964.
Giống như tên Da-tô Nguyễn Gia Kiểng, tên thi nô Da-tô Bút Chì cũng dùng ngôn từ mất dạy trên đây của bọn truyền giáo để nặn óc viết ra bài thơ trên đây với mục đích vừa bôi bẩn Vua Quang Trung vừa dùng thủ đọan gian manh bằng cách sắp xếp tên Da-tô phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm ngồi ngang hàng với Vua Quang Trung, một vị đại anh hùng của dân tộc Việt Nam ta. Chuyện này đã được người viết trình bày khá đầy đủ ở trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 trong Chương 21, nơi các trang 447-449 (ấn bản 1998) và nơi các trang 468-472 (ấn bản 2000).
Trường hợp 3.- Mới đây, năm 2004, trong bài viết Lịch Sử Việt Nam đăng trong vietnamconghoa.com, tác giả Phạm Quân Khanh cũng “lộn sòng” nhập nhằng để tên vua hề Da-tô vô liêm sỉ Thành Thái vào ngồi chung một chỗ với Vua Duy Tân được dân tộc Vỉêt Nam kính trọng và tôn thờ là một nhà ái quốc. Thâm ý của việc làm nhập nhằng này cũng không ngoài mục đích dựa vào uy tín và tiếng tăm của Vua Duy Tân để tô son điểm phấn cho tên vua hề Da-tô Thành Thái, con người đã có những hành động hèn hạ và vô liêm sỉ làm mất cả thể diện của dân tộc Việt Nam ta. Nhân tiện đây, người viết xin trích dẫn hai đoạn văn lịch sử nói về chuyện loạn luân của tên vua hề Da-tô vô liêm sỉ khốn nạn này. Hai đoạn văn này được trích ra từ sách Việt Sử Khảo Luận với nguyên văn như sau:
Hoàng tử Vĩnh San (Vua Duy Tân) chỉ được Pháp cấp dưỡng một số tiền chết đói là 35 ngàn quan một năm. “Bà vợ trẻ là Hoàng Quý Phi Mai Thị Vàng” không chịu nổi cuộc sống xa quê cũng như khí hậu của đảo (Réunion) và cuộc đời nghèo khó. Ngài xin cho vợ, mẹ và em gái (tức Mệ Cười) được hồi hương (HtThược 1984 tr.196).
Sự thực khác: Hoàng Quí Phi bị chồng đuổi về nước năm 1917 vì tội “loạn luân” với cha chồng là vua Thành Thái – có bệnh bạo dâm - , còn mẹ và em gái Vĩnh San chỉ hồi hương 3 năm sau (Vũ Ngự Chiêu, tập san Đường Mói Số 1 năm 1983 tr. 1000). Nói bà bị hiếp dâm có lẽ đúng hơn.” [xv] .
Về tư cách con người của tên vua hề Da-tô Thành Thái loạn luân này, chúng tôi đã trình bày khá đầy đủ trong Chương 19, sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã, Quyển Hai (Tacoma, WA: TXB, 1999)[xvi], trong đó có in bản chụp lá thư viết tay đề ngày 17/11/1914 của ông ta gửi viên Toàn Quyền Đông Dương với nội dung năn nỉ xin được tha “trở về xứ để làm một prince như các ông prince khác”, trong đó có những cụm từ làm mất thể diện quốc gia như “Bẩm lạy quan lớn”, “nay tôi dám xin kêu nài một lần nữa”, “trăm lạy quan lớn xin quan lớn làm cái ơn mọn này…” v.v…
Về kỹ thuật “bóp méo sự thật” hay “xuyên tạc lịch sử”, việc làm này thường xẩy ra vào những khi gặp phải những sự kiện lịch sử nói lên những bằng chứng về những việc làm bất chính, độc đóan, bạo ngược, đại gian, đại ác của Giáo Hội hay của bọn cán bộ tay sai của Giáo Hội. Gặp những trường hợp như vậy, thì họ cố tình lờ đi, không nói tới. Nếu lờ đi không được, vạn bất đăc dĩ phải nói ra, thì họ sẽ nói ra bằng một luận điệu xuyên tạc. Những trường hợp này được gọi là “bóp méo sự thật” hay “xuyên tạc lịch sử”.

D.- SỰ GIAN DỐI CỦA VATICAN BỊ PHƠI BÀY
Thói đời, gian dối sinh ra gian dối, và sớm hay muộn thì mọi sự gian đối cũng lòi đuôi cho thiên hạ biết. Đây là quy luật về tâm lý và xã hội. Giáo Hội La Mã dù là đã tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền” và là “Hiền Thê của Thiên Chúa Hiện làm Người” cũng không thoát ra khỏi quy luật này. Bằng chứng là những thủ đoạn gian dối bịp bợm trong những tín lý Ki-tô và trong những lời dạy của Giáo Hội La Mã tự nó đã phơi bày ra trước mắt cho mọi người đều nhìn thấy. Chỉ có những tín đồ Da-tô cuồng tín vì quá ngu dốt cho nên mới không nhìn thấy mà thôi. Phần trình bày dưới đây làm sáng tỏ vấn đề này.
Bản chất của Giáo Hội La Mã là gian dối, nói láo, tự cao, tự đại, huênh hoang, khóac lác, bạo ngược, độc ác, và dã man. Cái bản chất ghê tởm này bắt nguồn từ trong Cựu Ước, và đều được nói rõ trong sách Leviticus (26: 1-18, 24:19-20, 26: 1-43) và nhiều sách khác như sách Deteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20). Dưới đây là bản văn của những lời lẽ ghê tởm này trích ra từ trong sách Levitcus:
“26:1- "You shall not make idols for yourselves; neither a carved image nor sacred pillar shall you rear up for yourselves; nor shall you set up an engraved stone in your land, to bow down to it; for I am the LORD your God".(Các ngươi không được tạo ra những hình tượng nào để sùng bái cho chính các ngươi; các ngươi cũng không được khắc chạm một hình ảnh nào hay dựng nên một trụ cột thiêng liêng nào để nâng cao cho chính các ngươi; ở trong vùng các ngươi cư ngụ, các ngươi cũng không được dựng nên một hòn đá nào có khắc chạm để cúi đầu nghiêng mình trước nó; vì rằng Ta là Thượng Đế của các ngươi).
26:14.- "But if you do not obey Me, and do not observe all these commandments", (Nhưng nếu các người không nghe lời Ta, không tuân hành những lời răn dạy này).
26:15.- "and if you despise My statutes, or if your soul abhors My judgements, so that you do not perform all My commandments, but break My covenant". (và nếu các ngươi khinh thường những quy luật của Ta, hay nếu linh hồn của các ngươi khinh ghét những lời phán xét của Ta, cho nên các người không thực thi tất cả những lời răn dạy của Ta, và không tuân hành quy ước của Ta".
26:16.- "I also will do this to you: I Will even appoint terror over you, wasting disease and fever which shall consume the eyes and cause sorrow of heart. And you shall sow your seed in vain, for your enemies shall eat it". (Ta sẽ gây ra những tai họa dưới đây cho các ngươi: Ta sẽ đem lại cho các ngươi những gì khủng khiếp nhất, những bệnh tật tàn phá các ngươi, dịch sốt rét sẽ hủy hoại những tròng mắt của các ngươi và nhiều cảnh đau buồn khác nữa. Những hạt giống mà các người gieo xuống đất sẽ không nẩy mầm được nữa vì rằng kẻ thù của các người sẽ ăn mất đi hết những hạt giống đó).
26:17.- "I will set My face against you, and you shall be defeated by your enemies. Those who hate you shall reign over you, and you shall flee when no one pursue you". (Ta sẽ nhìn thẳng vào mặt các ngươi, và các ngươi sẽ bị thảm bại trước kẻ thù. Những người nào thù ghét các ngươi sẽ đè đầu cỡi cổ các ngươi, và các ngươi sẽ phải chạy trốn cả những khi không có người nào đuổi bắt các ngươi).
26:18.- "And after all this, if you do not obey Me, then I will punish you seven times more for your sins". (Và sau hết, nếu các ngươi không nghe lời Ta, Ta sẽ trừng phạt các ngươi bẩy lần hơn về tội lỗi của các ngươi).
Với nội dung của những đọan văn trên đây, không ai có thể chối cái được là ông Thượng Đế Jehovah này quả thật là bạo ngược quá, hẹp hòi quá, hung dữ quá và lại ưa thích trả thù một cách cực kỳ tàn bạo và hết sức dã man. Ấy thế mà Giáo Hội La Mã lại rêu rao một cách vô cùng trắng trợn rằng, “Chúa Jehovah sinh ra lòai người, nghĩa là tất cả mọi người ở trên thế gian này đều là con Chúa”, rẳng “Chúa Cha Jehovah toàn trí, toàn thiện, toàn năng và có mặt ở khắp mọi nơi.”
Cựu Ước nói rằng Chúa Cha Jehovah sinh ra tất cả loài người, thì TẠI SAO Giáo Hội lại chỉ công nhận những tín đồ của Giáo Hội là “con Chúa”, còn những người ở ngoài Giáo Hội thì Giáo Hội lại gọi là “những quân mọi rợ”, “những phường tà giáo” hay “những dân mọi rợ”, “những người ngoại đạo”? Và TẠI SAO Giáo Hội lại bảo rằng, "Ngoài Giáo Hội, không có cứu rỗi."
Có một điều vô cùng ngạc nhiên là tất cả các tín đồ Da-tô ngoan đạo, bất kể là người Việt hay người Âu Mỹ, đều tuyệt đối tin tưởng vào những tín lý Ki-tô cũng như vào những lời dạy của Giáo Hội mà không biết rằng những tín lý và những lời dạy này cực kỳ vô lý và đầy mâu thuẫn. Họ không hề nêu lên những thắc mắc như là:
Giáo Hội nói rằng ông Chúa Jehovah “toàn trí”, thì TẠI SAO ông Chúa này lại không dùng cái khả năng toàn trí của ông để đối phó với các ông thần khác, mà lại phải ra lệnh nghiêm cấm tín đồ bằng những lời lẽ bạo ngược dã man đầy tính cách khủng bố tinh thần như đã nói trong sách Leviticus để hù dọa những người nằm dưới ách thống trị của ông ta (đúng ra là dưới ách thống trị của Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo phiệt Da-tô) không được thờ bất kỳ ông thần nào?
Giáo Hội nói rằng Chúa Cha Jehovah “tòan thiện”. Điều này hoàn toàn trái ngược với lời lẽ ác độc tàn ngược và dã man như đã nói trong sách Leviticus trên đây.
Giáo Hội nói rằng Chúa Cha Jehovah “toàn năng”, thì TẠI SAO Chúa lại không dùng quyền năng của Chúa để hủy diệt các thần linh khác. Nếu làm được như vậy, thì trong vũ trụ này chỉ còn lại có một mình ông ta là thần hay thượng đế mà thôi và đương nhiên là trong cõi nhân gian này không còn có một ông thần nào khác để cho những người bất hạnh phải nằm trong vòng kìm kẹp của ông ta đến đó để thờ cúng hay cầu khấn.
Giáo Hội nói rằng Chúa Cha ở khắp mọi nơi, thì TẠI SAO Giáo Hội lại đòi hỏi tín đồ phải đến nhà thờ tham dự buổi lễ dâng cúng tiền bạc cầu khấn do chính Giáo Hội làm chủ tế? Có phải làm như vậy là để cho Giáo Hội thu vơ tiền bạc dâng cúng không?


Chú thích Chương 5
[i] Nguyễn Ngoc Ngạn , Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 355.
[ii] Chu Văn Trình, Thái Vân & Trần Quang Anh, Việt Nam Với Cuộc Dấy Loạn Hòa Bình Của Giáo Chủ John Paul II (Dora, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực, 1994), tr. 10.
[iii] Trần Chung Ngọc, “Một Chút “Sản Phẩm Trí Tuệcủa Nguyễn Anh Tuấn và Nhóm Người Công Giáo chủ trương Hòa Đồng Tôn Giáo và Dân Tộc…” sáchhiem,net. Tháng 11/2007.
[iv] Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000).
[v] Nguyễn Ngọc Ngạn, Sđd., tr 71.
[vi] Nguyễn Ngọc Ngạn, Sđd., tr. 148.
[vii] Trần Văn Kha, Thời Đại Mới (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1992), tr 251.
[viii] Nguyên Ngọc Ngạn Sđd., tr. 18.
[ix] Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa? Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 115-116
[x] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo Sđd.,tr. 320.
[xi] Malachi Martin, The Decline And Fall of The Roman Church (NY: G.P. Putnam’s Sons, 1982), p. 111.
[xii] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 54.
[xiii] Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử - Quyển I (Sàigòn: Cứu Thế Tùng Thư, 1965),tr 39.
[xiv] Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn (Paris: TXB, 2001), tr. 96.
[xv] Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr.1925.
[xvi] Nguyễn Mạnh Quang, Thực Chất Của Giáo Hội La Mã - Quyển Hai (Tacoma, WA: TXB, 1999), tr. 680-684.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét