Các hành động xác lập chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên biển Đông, đặc biệt qua vụ giàn khoan 981, đã làm chocác nước trong khu vực quan ngại, kéo theo đó là nhiều tiếng nói yêu cầu sự hiện diện mạnh mẻ hơn của Mỹ. Tuy vậy, từ năm 2011, khi chính phủ ông Obama công bố chính sách xoay trục (sau đó là tái cân bằng) luôn có những luồng đánh giá khác nhau. Một mặt, có ý kiến cho rằng chính sách này đang đi đúng hướng và tạo ra sự đồng thuận lớn với các nước trong vùng, từ đó tạo điều kiện cho Mỹ tái khẳng định lại vai trò lãnh đạo của mình tại khu vực Thái Bình Dương. Mặt khác cũng có luồng ý kiến khác nghi ngờ xem những gì mà Mỹ thể hiện cho đến thời điểm này chỉ qua lời nói. Hoặccho dù có Mỹ có hành động, nhưng những hành động đó là chưa đủ mạnh để đối phó lại tình hình an ninh và cán cân quyền lực đang thay đổi mạnh mẽ. Ý kiến này càng được nhiều sự ủng hộ hơn khi cùng một lúc khủng hoảng Ukraine xảy ra tại Châu Âu, và việc Nga “dễ dàng” sáp nhập được Crimea làm cho Mỹ rơi vào tình huống “lưỡng đầu thọ địch”.
Khi đối chiếu với tình hình biển Đông đang nóng lên gần đây thì những nghi ngờ đó trở thành những lo ngại cho rằng liệu Việt Nam có thể hợp tácvới Mỹ như một đối trọng với bá quyền của Trung Quốc trên biển. Hai góc nhìn trên theo NCS Trương Minh Huy Vũ (đại học KHXH&NV Tp HCM) đều là một sự thậm xưng hơn thực tế. Sự thậm xưng này bắt nguồn từ hệ quả lâu dài của lối suy nghĩ cạnh tranh chiến lược một mất một còn từ thờichiến tranh Lạnh: (i) coi liên minh với một nước lớn là cơ sở quyền lực duy nhất của một quốc gia; (ii) bỏ quên yếu tố về sự phụ thuộc kinh tế giữa các cường quốc và (iii) từ hai yếu tố trên dẫn đến việc giải quyết vấn đề mang lợi ích chồng chéo thì giải pháp quân sự không phải là tối ưu. Ngược lại nó chỉ là giải pháp răn đe, như một đòn bẩy buộc các quốc gia chấp nhận một cuộc chơi nào đó, mà theo ông Vũ đó là một khu vực biển Đông hòa bình và ổn định được quản lý bằng luật pháp quốc tế.
Ông ví von Mỹ đang theo đuổi chiến lược hai trục tại biển Đông. Chiến lược hai trục đó là gì?
Ông Trương Minh Huy Vũ: Khái niệm chiến lược hai trục xuất phát từ cuộc tranh luận lâu dài trong chính sách đối ngoại của Mỹ, qua đó đi tìm sự cân bằng giữa hai trường phái trong quan hệ quốc tế: chủ nghĩa thể chế quốc tế và chủ nghĩa sức mạnh hiện thực. Trong nhiều thời điểm, giai đoạn khác nhau, có lúc Mỹ ưu tiên đại chiến lược này nhưng có lúc lại ưu tiên đại chiến lược kia. Việc sử dụng song hành hai đại chiến lược thể hiện bản chất lưỡng thểcủa chính sách đối ngoại Mỹ: vừa là quốc gia mạnh nhất trên thế giới, cũng là quốc gia thúc đẩy và xây dựng thế giới được cai trị bằng luật lệ. Và sự đụng độ giữa hai trường phái này đã làm cho chính sách đối ngoại của Mỹ luôn đi dây giữa hai xu hướng vừa muốn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế bằng luật, nhưng cũng vừa muốn có được những ưu tiên chiến lược dựa trên các cân sức mạnh nghiên về ưu thế của mình.
Trong việc định hình vai trò của mình tại biển Đông, thế “lưỡng nan” của Mỹ tập trung vào suy nghĩ lựa chọn giữa ưu tiên về sức mạnh, hay ưu tiên về luật/thể chế. Ưu tiên luật pháp thì sợ bị xem là con cọp giấy, nhưng nếu “hùng hổ” về sức mạnh thì hoàn cảnh hiện tại (cả dư luận quốc tế, lẫn quốc nội không cổ xúy). Vì thế phải đi tìm điểm cân bằng giữa hai đại chiến lược, mà nếu chuyển tải thành chính sách có thể tạm gọi là giữa thúc đẩy “thể chế hóa” và tạo thế quân sự để “răn đe giới hạn”.
Tại sao trong vấn đề biển Đông, Mỹ phải đi tìm sự cân bằng giữa hai trường phái tiếp cậnnày?
Ông Trương Minh Huy Vũ: Lý do đơn giản và dễ nhận thấy nhất là Mỹ bị song trùng về lợi ích tại biển Đông. Một mặt, Mỹ cảm nhận không có lợi ích trực tiếp về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lẫn lãnh hải, trong khi đó Trung Quốc lại là đối tác lớn về kinh tế, lẫn an ninh-chiến lược. Vì thế trong một thời gian dài, chính phủ Mỹ đều giữ thái độ trung lập về các tranh chấp chủ quyền, tức là không đứng về bên nào trong việc phân định lãnh thổ với nhau. Nhưng mặt khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã thách thức Mỹ trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, hai vấn đề lớn nhất làquyền tự do hàng hải, một trong những nguyên tắc đã được chính phủ Mỹ định nghĩa là “lợi ích quốc gia” tại biển Đông. Nếu Trung Quốc có những tác động tiêu cực đến tự do hàng hải của khu vực thì Washington sẽ phản ứng để chống lại.
Bên cạnh đó, sự xét quyết và táo bạo hơn trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinhtạo thành một đe dọa an ninh cho hệ thống đồng minh của Mỹ. Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc và Nhật đụng độ quyết liệt xung quanh quần đảo Senkaku; ở biển Đông, Trung Quốc đụng độ Philippines ở bãi cạn Scarborough và nhiều điểm nóng khác. Nếu xem việc Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không(ADIZ) tại biển Hoa Đông hoặc đụng độ Philippines ở Scarborough là một phép thử của Bắc Kinh trực tiếp vào hệ thống đồng minh của Mỹ thì việc hai phép thử này thành công sẽ làm lung lay hai mắt xích quan trọng nhất, một ở Đông Bắc Á một ở Đông Nam Á. Chính sự song hành hai mục tiêu cùng lúc làm cho bất kì chính phủ nào của Mỹ rất khó khăn trong việc lựa chọn một chính sách “xuyên xuốt và rõ ràng”. Ý tôi muốn nhấn mạnh ở đây trong cả lời nói lẫn hành động.
Vậy thì trước hai thách thức đó, Mỹ sẽ can thiệp để ngăn chặn sự lấn lước của Trung Quốc tại biển Đông, cụ thể là vụ HD 981?
Ông Trương Minh Huy Vũ: Cần rõ ràng rằng, dầu khí và tạo nên xung đột không phải là mục tiêu tối thượng của giàn khoang HD981. Cái Trung Quốc muốn là hợp thức hóa chủ quyền thực địa và tạo phép thử cho các nổ lực của các nước Đông Nam Á nói chung, và Việt Nam nói riêng tìm kiếm một chính sách đối ngoại cân bằng và độc lập hơn. Trong một thế giằng co trên biển như vậy, kẻ mạnh thì thiếu lý nhưng ưu thế thực địa, ngược lại người chính nghĩa, có lý lại bị thua thiệt về chủ quyền thực tế. Về vụ giàn khoan Trung Quốc đã bị thế giới lên án là bá quyền, các nước ASEAN nghi ngờ chính sách trỗi dậy hòa bình, và tạo thêm nhiều “cơ hội” cho Mỹ và các đồng minh thúc đẩy chính sách “tái cân bằng chiến lược”. Lời nói có biến thành hành động hay không, và tốc độ có đủ nhanh để đối phó với vụ giàn khoan hay không lại là câu hỏi khác.
Trong bối cảnh như vậy, cần có một cái nhìn sát với thực tế. Nhìn lại nhiều thập niên qua, một trong những điều kiện giúp Mỹ giữ được vai trò này là nhờ sự thống trị của hải quân Mỹ trên các vùng biển Tây Thái Bình Dương, trong đó có biển Đông. Tuy nhiên, hiện nay cái khó của người Mỹ là Trung Quốc đang tận dụng điểm yếu của Mỹ bằng cách sử dụng yêu sách lãnh thổ, tạo ra tranh chấp lãnh thổ – yếu tố mà xét về nguyên tắc Mỹ phải đứng trung lập giữa các nước.Thế nên, ưu tiên của Mỹ tại biển Đông là nhất quyết bảo vệ tự do hàng hải tại khu vực và trước hết bằng công cụ pháp lý, quá đó có thể có thể xây dựng một trật tự chung cho các nước xung đột mà không mang tiếng “can dự chuyện nội bộ bất hợp pháp”. Trong bối cảnh một quốc gia muốn thúc đẩy trật tự bằng luật thì việc thúc đẩy thông qua UNCLOS phải là một ưu tiên như lời của Tổng Thống Obama trong bài phát biểu mới đây tại lễ tốt nghiệp của Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point: “Nước Mỹ cũng không thể giải quyết vấn đề xung đột ở biển Đông nếu Thượng viện Mỹ không phê chuẩn Công ước về Luật Biển (UNCLOS)”. Đó không những là cơ sở pháp lý, đạo đức như đã trình bày ở trên mà còn là “vũ khí chiến lược” của Mỹ tại biển Đông.
Xét trên mặt thực địa, Mỹ sẽ không có thêm nhiều hành động can thiệpquân sự trực tiếp chừng nào tình hình biển Đông còn chưa leo thang đến mức xung đột vũ trang. Còn nhớ trường hợp đụng chạm tại bãi đá Scarborough với Philippines, một đồng minh của Mỹ tại Đông Nam Á năm 2012. Việc Trung Quốc sử dụng những tàu cá với chiêu bài dân sự đã hạn chế Mỹ tham gia trực tiếp bảo vệ lợi ích cho Philippines. Nếu Bắc Kinh cứ tiếp tục sử dụng chiêu thức tương tự tại bãi cạn Scarborough, Washington sẽ không điểu động hải quânkhi các tàu của Trung Quốc được gắn mác dân sự. Quan trọng hơn, trong cả hai vụ Scarborough (và cả giàn khoan 981) cái Mỹ muốn đứng trên lợi ích của nước họ là một khu vực biển Đông hòa bình và ổn định được quản lý bằng luật pháp quốc tế chứ không ưu tiên hỗ trợ hay ủng hộ nước nào (dù có là đồng minh) bằng các biện pháp quân sự.
Theo phân tích của ông, có vẻ như giàn khoang HD 981 sẽ vẫn nằm đó, và Mỹ sẽ không có một hành động gì khác hơn những gì đã làm đến nay. Vậy Việt Nam có thể tận dụng hai đại chiến lược của Mỹ tại biển Đông như thế nào, thưa ông?
Ông Trương Minh Huy Vũ: Cả hai chiến lược của Mỹ đều nhắm tới một mục tiêu là quản lý các vụ việc bằng luật hay thúc đẩy quá trình này giữa các nước liên quan đến tranh chấp. Nói rõ hơn ngay cả khi Mỹ sử dựng biện pháp “răn đe tối thiểu” thì cũng nhằm mục đích (i) tăng cường khả năng tự vệ cho các nước Đông Nam Á trước sức mạnh trên biển của Trung Quốc và (ii) qua các sức ép về “quân sự” buộc Trung Quốc phải quay trở lại cuộc chơi đàm phán bằng luật và qua con đường thể chế quốc tế. Nếu Việt Nam thúc đẩy việc sử dụng luật quốc tế, chẳng hạn như cùng các nước ASEAN đẩy nhanh đàm phán COC với Trung Quốc hay sử dụng các kênh pháp lý để kiện những hành động hiếu chiến của Bắc Kinh, Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam bởi điều này hoàn toàn tương đồng với lợi ích của Mỹ. Điều này cũng đã được thể hiện qua các phát biểu của lãnh đạo hành pháp Mỹ những ngày vừa qua.
Xét trên phương diện hợp tác quốc phòng, Mỹ có thể hỗ trợ các nước trong khu vực thông qua một hình thức khác, đó là hỗ trợ tuần tra và hợp tác an ninh hàng hải, trao đổi thông tin. Theo đó, các giải pháp quân sự vẫn khả thi theo hướng Mỹ sẽ không đối đầu trực tiếp với Trung Quốc, nhưng sẽ thông qua hệ thống đồng minh của mình, đặc biệt là hai nước Nhật và Philippines. Mỹ sẽ đứng giữ vai trò “hậu phương” với khái niệm đã từng nêu ra trong cuộc chiến Libya là “lãnh đạo từ phía sau”. Mỹ cũng có thể sẽ triển khai hợp tác quân sự với các nước để ngăn ngừa mối đe dọa về an ninh trên biển. Qúa trình này sẽ được thúc đẩy với tốc độ nhanh hơn trong một tương lai gần. Hợp tác theo dạng này cũng hoàn toàn không đi ngược lại nguyên tác ba không của Việt Nam đồng thời kiềm chế được các bước đi trong tương lai của Trung Quốc mà không trực tiếp làm căng thẳng bằng một chính sác đối đầu.
Ngoài ra, thúc đẩy thành lập liên minh pháp lý gồm Nhật – Việt Nam – Philippines, những quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc hiện nay cũng nên là một giải pháp cần đặt lên bàn cân. Bài bình luận của cựu Ngoại trưởng Nhật trên tờ The New York Times năm 2012 lần đầu tiên nói về khả năng Nhật Bản sẵn sàng cùng Trung Quốc đưa vụ tranh chấp đảo Senkaku ra Tòa án công lý quốc tế. Đây là một điểm nhấn rất quan trọng không phải chỉ thể hiện rằng xu thế “ưu tiên luật pháp” đang được số đông thúc đẩy, mà còn cho thấy “chính sách làm gương” của các cường quốc, đầu tiên là Nhật (một nước có ưu thế thực địa khi đang kiểm soát thực tế tại quần đảo Senkaku).
Như vậy, việc sử dụng luật trong vấn đề biển Đông (qua liên minh pháp lý) và đẩy mạnh hợp tác an ninh biển và hàng hảilà cơ sởtiếp cận khả dĩ cho Việt Nam trong lúc thời điểm này. Đó vừa là cách hạn chế thế yếu, tận dụng thế mạnh của Mỹ khi bị Trung Quốc buộc phải tham gia vào một cuộc chơi mà bản thân mình “lưỡng nan” về lợi ích. Nhưng vì trong thế ép buộc như vậy, tính chính đang của một giải pháp“tiên pháp chế, hậu quân phạt” sẽ được phát huy.Qua đótrước tiên dùng pháp luật, tạo luật chơi chung, tạo sự đồng thuận làm cơ sở cho việc “dụng binh”, nhất là trong trường hợp an ninh Mỹ (và đồng minh) bị vũ trang đối phương đe dọa.
Xin cảm ơn ông!
Ông cho rằng UNCLOS là một “vũ khí chiến
lược” của Mỹ tại biển Đông. Nhưng đến nay chính phủ Obama –dù nhiều lần
lên tiếng ủng hộ- nhưng vẫn chưa thúc đẩy được Thượng Viện thông qua.
Đâu là lý do cho sự trì hoãn?
Ông Trương Minh Huy Vũ: UNCLOS là
“vũ khí chiến lược” của Mỹ tại biển Đông, nhưng nó có thể là “rào cản
chiến lược” của Mỹ với tư cách một quốc gia giữa vai trò siêu cường toàn
cầu. Phạm vi điều chỉnh của UNLOS liên quan đến nhiều lãnh vực, nhiều
đối tượng khác nhau, nên xuất hiện nhiều nhóm lợi ích trong lòng nước
Mỹ. Các nhóm này ra sức vận động hành lang qua cả hai kênh hành pháp lẫn
lập pháp để chống lại Công ước. Xét chiều dài lịch sử, tất cả các nỗ lực thông qua UNCLOS đến nay đều gặp thất bại bởi sự phản đối của các thành viên đảng Cộng Hòa trong Chính phủ và trong Thượng viện, dẫn đến vấn đề UNCLOS không được đưa ra, hoặc nếu được đưa ra thì lại không đủ 2/3 số phiếu cần thiết.Năm 2012, 34 thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa đồng loạt ký vào một lá thư phản đối việc phê chuẩn UNLOS được khởi xướng bởi Thượng nghị sĩ Jim DeMint. Lý do chính mà họ đưa ra là quan ngại về chủ quyền quốc gia của Mỹ sẽ bị giới hạn. Với các nhóm khác, hạn chế khả năng quân sự và tình báo của hải quân Mỹ, hạn chế quyền tự do hàng hải hay có thể ảnh hưởng các đặc quyền về kinh tế khác của Mỹ trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cũng là những nguyên nhân được nêu ra. Bên cạnh các tiếp cận phủ định tuyệt đối, còn có các đề xuất khác tìm kiếm một giải pháp ưu tiên dùng luật, nhưng không bắt buộc tham gia UNCLOS. Gần đây nhất năm 2013, trong một báo cáo trình bày tại Ủy ban liên ngành về Năng lượng và Khoáng sản thuộc Hạ Viện (Subcommittee on Energy and Mineral Resources), tác giả Steven Groves từ Heritage Foundation lập luận đại ý rằng Mỹ không cần phải tham gia UNCLOS mới có thể quản trị được các vùng biển của mình bằng luật và thể chế quốc tế, mà nên ưu tiên theo đuổi những hiệp ước mang tính song phương chỉ với với các nước có liên quan. Nói chung, sự vận động UNCLOS của chính trường nước Mỹ từ nhiều năm qua cần được đặc trong bối cảnh “lưỡng nan” của Mỹ trong việc song trùng lợi ích giữa một bên là mong muốn điều chỉnh các nước khác bằng luật và thể chế quốc tế, một bên là không muốn những điều chỉnh đó giới hạn lợi ích và quyền sử dụng sức mạnh của bản thân. Đây là một bài toán khó mà chính quyền Obama khó đưa ra lời giải rốt ráo trong những năm cầm quyền còn lại, xét về tầm quan trọng của UNCLOS so với các hồ sơ đối nội khác như kinh tếhay bất bình đẳng xã hội mà Obama và nội các của ông phải ưu tiên.Nếu có một điểm sáng náo đó, đó có thể là hy vọng về sự tiếp tục quá trình này sau năm 2016 bởi một nữ Tổng thống từ Đảng Dân Chủ? |
————-
Bản rút gọn của bài phỏng vấn đã được đăng bởi Vietnamnet
-
0 nhận xét:
Đăng nhận xét