Mong rằng người Việt hải ngoại, nếu còn chút lương tâm tối thiểu của con người, hay còn hành diện là người Việt Nam, thì đừng nên a dua hùa theo những hạng người “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” đi làm những chuyện mưu đồ “cõng rắn cắn gà nhà” như bọn người vong bản trong cái gọi là “Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation” (được cho ra đời vào tháng 7/2003), mà hãy nên sống theo tinh thần lời di ngôn trên đây của Mạc Ngọc Liễn.
Nho giáo dạy rằng “nhân tham tài từ, điểu tham thực vong”. Tuy rằng những người Việt tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực hay vì ngu dốt mà lọt vào “cái trong Da-tô” không chết như lời Nho giáo dạy, nhưng tất cả những nhân tính (haman charactes), nhân tình (human feelins) tình yêu tổ quộc, tình tự quê hương, tình tự dân tộc, lòng nhân ái và cái ngũ thường trong nền đạo lý Khổng Mạnh, cái đạo từ bi hỉ xả của nhà Phất, cái lương tâm và liêm sỉ của con người đã thực sự chết hẳn trong lòng họ. Vì thế mới có :
Cái đạo hay tôn giáo cứu rỗi với cái Tin Mừng và Hồng Ân Thiên Chúa mà các nhà truyền giáo Da-tô đem vào rao truyền ở nước ta là như thế đó!
Những người Việt theo “cái tôn giáo ác ôn” này đã phản dân tộc và phản quốc như thế nào?
Nhìn vào lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, chúng ta thấy rằng, đạo Da-tô, tức Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican luôn luôn chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam một cách vừa thâm độ, vừa thô bạo tùy theo từng thời kỳ:
I.- Thời Kỳ 1784-1954:
b.- Được nắm độc quyền kiểm soát một phạm vi sinh họat kinh tế, thí dụ cho nắm độc quyền xuất hay nhập cảng một thứ sản phẩm hay hàng hóa nào đó, như đôc quyền thu mua và xuất cảng lông vịt, độc quyền chuyển ngân, độc quyền chạy đường hàng hải ở trong nước và quốc ngoại, độc quyền khai thác một nghiệp vụ kinh tài trong lành thổ (độc quyền phân phối báo chí trên toàn lãnh thổ, độc quyền nhập cảng thuốc phiện sống và khuếch trương kỹ nghệ chế biến và phân phối sản phẩm này trến toàn lãnh thổ.[ii] )
Do những thủ đoạn lợi dụng (dựa vào) thế lực chính quyền để câu nhử, dụ khị, cưỡng ép hay chèn ép dân ta phải theo đạo mà vào năm 1800 trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam chỉ có 320 ngàn tín đồ Da-tô[v] đến năm 1945, con số tín đồ Da-tô đã tăng vọt lên đến 1,700,000[vi] , và năm 1975, riêng ở miền Nam con số tín đồ Da-tô cũng lên đến khoảng 2 triệu trên tổng số dân vào khoảng gần 25 triệu (ở miền Nam).
Như đã nói ở trên, ngoại trừ những người bị cưỡng bách hay bị chèn ép phải theo đạo, những loại người theo chủ nghĩa xu thời “đi đạo lấy gạo để ăn” (rice Christians) và “theo đạo để tạo danh đời” đều là những phường tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng hạng người này (tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực) đều là những quân mặt người dạ thú, sẵn sàng làm những việc bất nhân, bất nghĩa, đại nghich bất đạo. Ở Trung Hoa, trong thời Đông Châu Liệt Quốc, Ngô Khởi giết vợ là Điền thị (con quan Tướng Quốc Điền Hòa của nước Tề) để cầu danh, mong được làm Đại Tướng ở nước Lỗ, Lữ Bát Vi hiến dâng vợ là nàng Triệu Cơ cho Dị Nhân (con trai của An Quốc Quân nước Tần) để lót đường tiến bước vào cửa quyền, Thái-tử Thương Thần nước Sở toa rập với quyền thần Phan Sùng đem quân vào bao vây cung điện giết cha ruột là Sở Thành Vương để chiếm đọat ngai vàng.
Cũng vì lòng tham lợi háo danh và thèm khát quyền lực mà tín đồ Da-tô người Việt đã cam tâm gục mặt làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975.
Những người này vẫn còn vì lòng tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực, mang nặng căn bệnh thiển cận, hẹp hòi, độc ác, háo danh, hám lợi, hung dữ, háo sát, khóac lác, huênh hoang, làm oai, làm phách, bất chấp cả tình người, bất chấp cả công lý, vẫn còn tiếp tục làm những chuyện đại nghịch bất đạo như đã nói ở trên, vẫn không còn biết đến đất nước và dân tộc là gì nữa, vẫn còn tiếp tục ngang nhiên tuyền bố “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, vẫn cho rằng “việc quỳ mọp xuống ôm hôn bàn chân của ông giáo hòang”, “việc gục mặt xuống hôn hít giày dép của các ông truyền giáo Da-tô người Âu Châu” và “quỳ mọp và gục mặt xuông ôm hôn cái nhẫn của một ông giám mục” là một đại phúc cho chính bản thân họ cũng như cho gia đình họ và cho cả tổ tiên của họ.
Ghê tởm và khốn nạn hơn nữa, tu sĩ và tín đồ Da-tô người Việt luôn luôn tỏ ra “vô cùng sợ hãi Tòa Thánh Vatican, đên nỗi có những linh mục nói rằng “:Tòa Thanh đánh rắm cũng thơm”, rồi bảo nhau rằng “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”. Cho đến ngày nay, tình trạng này cũng vẫn không thay đổi: Ở trong nước cũng như ở hải ngoại, chúng ta thườngthấy có một số không ít tu sĩ và tín đồ Da-tô vẫn còn tiếp tục cúi đầu đi bốn chân chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Phải chăng cái đạo lý xử thế khốn nạn như vậy là do Giáo Hội La Mã đã cấy vào đầu óc họ bằng chính sách ngu dân và giáo dục nhội sọ hay không?
Lịch sử cho thấy rằng những hành động của tín đồ Da-tô ngoan đạo người Việt giống y hệt như những hành động của các ông giáo-sĩ Da-tô đến Á Châu truyền đạo. Những ông giáo sĩ này từ một phương trời xa lạ đến nước ta truyền đạo mà lại có những hành động ngu xuẩn, hợm hĩnh và xấc xược, ngược ngạo không cần biết đến quy luật của xã hội văn minh là “nhập gia tùy tục”, bất chấp cả truyền thống, lễ nghi, phong tục, tập quán và luật pháp của các dân tộc bản địa. Bằng chứng rõ rêt nhất cho sự kiện nàylà Giáo-sĩ Alexandre de Rhodes (từ giữa thế kỷ 16) đã ngang ngược viết ra thành giấy trắng mực đen (trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày) với những lời lẽ chửi bới và miệt thị các tôn giáo cổ truyền của các dân tộc Đông Phương. Ông ta gọi Đức Phật là “thằng” trong nhóm từ “thằng hay dối người ta”, cho rằng Đức Khổng là “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ”, rồi dạy dỗ tín đồ gọi các tôn giáo bản địa là “tà giáo”,“tà đạo”, và các dân tộc Đông Phương là “những quân man di”, “những quân mọi rợ”.
Hãy đặt vấn đề ngược lại, nếu những nhà sư bên đạo Phật hay một nhà Nho trong đạo Khổng đến nước Ý, nước Tây Ban Nha, nước Bồ Đào Nha, v.v…, cũng có thái độ và cung cách hành xử xấc xược ngược ngạo như thái độ và cung cách hành xử của thằng cố đạo Alexandre de Rhodes ở Việt Nam và cũng sử dụng những ngôn từ mất dạy như vậy đối với Chúa Giêsu và đạo Ki-tô, thì các tín đồ Da-tô sẽ phản ứng như thế nào?
Thực ra, những hành động ngang ngược của tín đồ Da-tô người Việt ở Việt Nam trong thời 1862-1945, trong thời Kháng Chiến 1954-1954 cũng như ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và ở Bắc Mỹ từ năm 1975 cho đến nay mà chúng tôi đã trình bày ở trên phản ảnh rất trung thực những lời dạy trong kinh thánh của họ. Rõ ràng là cùng một khuôn đúc “made in Vatican” mà ra! Dưới đây là bằng chứng:
A.- Những lời dạy trong Cựu Ước (sách Leviticus):
“Các ngươi không được tạo ra những hình tượng nào để sùng bái cho chính các ngươi; các ngươi cũng không được khắc chạm một hình ảnh nào hay dựng nên một trụ cột thiêng liêng nào để nâng cao cho chính các ngươi; ở trong vùng các ngươi cư ngụ, các ngươi cũng không được dựng nên một hòn đá nào có khắc chạm để cúi đầu nghiêng mình trước nó; vì rằng Ta là Thượng Đế của các ngươi).(26:.1) "You shall not make idols for yourselves; neither a carved image nor sacred pillar shall you rear up for yourselves; nor shall you set up an engraved stone in your land, to bow down to it; for I am the LORD your God".
Nhưng nếu các người không nghe lời Ta, không tuân hành những lời răn dạy này. (26:14). "But if you do not obey Me, and do not observe all these commandements", và nếu các ngươi khinh thường những quy luật của Ta, hay nếu linh hồn của các ngươi khinh ghét những lời phán xét của Ta, cho nên các người không thực thi tất cả những lời răn dạy của Ta, và không tuân hành quy ước của Ta. (26:15)."and if you despise My statutes, or if your soul abhors My judgements, so that you do not perform all My commandements, but break My covenant".
Ta sẽ gây ra những tai họa dưới đây cho các ngươi: Ta sẽ đem lại cho các ngươi những gì khủng khiếp nhất, những bệnh tật tàn phá các ngươi, dịch sốt rét sẽ hủy hoại những tròng mắt của các ngươi và nhiều cảnh đau buồn khác nữa. Những hạt giống mà các người gieo xuống đất sẽ không nẩy mầm được nữa vì rằng kẻ thù của các người sẽ ăn mất đi hết những hạt giống đó. (26:16). "I also will do this to you: I Will even appoint terror over you, wasting disease and fever which shall consume the eyes and cause sorrow of heart. And you shall sow your seed in vain, for your enemies shall eat it".
Ta sẽ nhìn thẳng vào mặt các ngươi, và các ngươi sẽ bị thảm bại trước kẻ thù. Những người nào thù ghét các ngươi sẽ đè đầu cỡi cổ các ngươi, và các ngươi sẽ phải chạy trốn cả những khi không có người nào đuổi bắt các ngươi (26:17). "I will set My face against you, and you shall be defeated by your enemies. Those who hate you shall reign over you, and you shall flee when no one pursue you".
Và sau hết, nếu các ngươi không nghe lời Ta, Ta sẽ trừng phạt các ngươi bẩy lần hơn về tội lỗi của các ngươi.(26:18). "And after all this, if you do not obey Me, then I will punish you seven times more for your sins".
B.- Những lời dạy trong Tân Ước:
"Ai tin ông Jesus là Chúa Con sẽ không bị kết tội (được lên thiên đường); và ai không tin ông ta là Chúa Con, đã bị kết tội, rồi sẽ bị đày đọa vĩnh viễn nơi hỏa ngục." (Whoever believes in him will not be condemned, but whoever does not believe has already been condemned, because he has not believed in the name of the only Son of God).(John 3: 18)
“Đừng tưởng rằng ta xuống đây để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không tới để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì ta tới để làm cho con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn (Matthew 10: 34-36).”
A.- Những suy tư, ngôn ngữ và hành động của giới tu sĩ và tín đồ Da-tô người Việt rất phù hợp với những lời dạy ở trong thánh kinh như đã nói ở trên.
B.- Trong gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội đã:
Ngạc nhiên hơn nữa là tất cả những lần những tín đồ Da-tô "ngoan đạo" người Việt tụ họp với nhau thành những băng đảng để làm những chuyện ngược ngạo phản nhân quyền, phản dân chủ, phản tự do ở Bắc Mỹ từ cuối thập niên 1970 cho đến nay, họ đều lớn tiếng cao rao là “người Việt Quốc Gia”, đều rêu rao là “Chiến đấu cho lý tưởng Quốc Gia” để “giữ vững lăn ranh Quốc Cộng” và “lá cờ vàng ba sọc đỏ.”
Trong cuốn Việt Nam Cộng Hòa Đệ Nhất Toàn Thư 1954-1963, với đề tài “Chuyện Đòi Treo Cờ và Xé Cờ” (Chương 12), người viết đã trình bày khá rõ ràng vấn đề này và dùng cả hai Chương 13 và 14 để giải thích rõ ràng về những nguyên nhân khiến cho tín đồ Da-tô người Việt có những hành động ngược ngạo đối với những người đồng hương thuộc các tôn giáo khác hay bất đồng chính kiến với họ, và trong đó có hàm ý nêu lên vấn đề là:
Tại sao những người tự nhận là “Người Việt quốc gia” với lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho “chính nghĩa quốc gia” lại có thể có những hành động ghê tởm như những trường hợp đã trình bày ở Chương 7 ở trên?
Cho đến nay, người viết vẫn chưa thấy có người nào lên tiếng đáp lại một cách nghiêm chỉnh cho vấn đề (thắc mắc) này, ngoài việc chụp mũ cho chúng tôi là Cộng Sản nằm vùng hay làm tay sai cho Cộng Sản cùng với những ngôn từ vô cùng tục tĩu, hết sức lỗ mãng và cực kỳ mất dạy như thường thấy trong cung cách hành xử của giới tu sĩ và tín đồ Da-tô đối với các thành phần thuộc các tôn giáo khác ở khắp nơi trên thế giới trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày 20/4/325 cho đến ngày nay. Xin xem lại Chương 7 ở trên.
Thì ra:
Vấn đề đặt ra là cái xã hội của nền đạo lý tam giáo cổ truyền với những đức tính cao đẹp như vị tha, hiếu hòa (dĩ hòa vi quý), vì nước (quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách), vì dân (dân chi sở ố, ố chi; dân chi sở hiếu, hiếu chi; sở vị dân chi phụ mẫu, và ý dân là ý trời), vị nhân (tứ hải giai huynh đệ), và vị nghĩa (Duyên duyên kim cải, nghĩa phải nghĩa giao hòa) mà lại có thể nẩy sinh ra những hạng người vong bản phản quốc “thà mất nước, chứ không thà mất chúa” với những ác tính hung dữ, xấc xược, ngược ngạo, bất chấp cả tình người, bất chấp cả pháp luật, và hành động ngu xuẩn như những trường hợp mà chúng tôi đã nêu lên ở trên?
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, sở dĩ có những tình trạng như trên ở Việt Nam là vì từ năm 1533 cho đến ngày 30/4/1975, Giáo Hội La Mã đã thi hành bốn chính sách (cũng có thể gọi là bốn độc kế) tại những nơi mà quyền lực của Giáo Hội vươn tới. Bốn chính sách này đã được nói sơ qua ở Chương 3 ở trên. Xin ghi lại đây một lẫn nữa để giúp cho độc giả dễ dàng theo dõi vấn đề này.
A.- Thí hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ. Chính sách này có chủ đích làm cho tín đồ và người dân dưới quyền không còn khả năng sử dụng lý trí để tìm hiểu sự việc. Tác dụng của chính sách này làm cho các tế bào thần kinh trong trung khu lý trí của đương sự bị thui chột không còn sử dụng được nữa. Kỹ thuật nhồi sọ càng tinh vi và mức độc nhồi sọ càng cao thì đương sự càng không thể sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật và chỉ còn biết nghe và hành động theo lệnh truyền của những người điều khiển. Với kinh nghệm lão luyện đã thi hành chính sách này từ thế kỷ 4, Vatican có khả năng kỹ thuật cực kỳ siêu việt có thể làm cho tín đồ bị điều kiện hóa giống như y như con chó trong phòng thí nghiệm của nhà bác học Pavlov. Ở vào tình trạng này, ta cũng có thể gọi họ là những người máy hay những người có đầu mà không có óc. Triong cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật: Tân Văn, 2003), nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn đã dành ra gần một trang sách (trang 148) để ghi nhận tình trạng này của tín đồ Da-tô người Việt trong Xóm Đạo Tân Ha (gần Tây Ninh) mà chúng tôi đã ghi lại ở Chương 5 ở trên. Một lần nữa, xin ghi lại đây đoạn văn này để quý vị dễ dàng nhìn ra cái kỹ thuật siêu việt của Vatican đã làm cho tín đồ Da-tô người Việt bị điều kiện hóa như sau:
“Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì….” Nguyễn Ngọc Ngạn, Sđ d., tr. 148.
Với tình trạng như trên, tín đồ Da-tô người Việt đã hoàn toàn trở thành cộng cụ cho Vatican sử dụng để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam ta.
B.- Thi hành chính sách chia để trị cùng với độc kế hủy diệt tình yêu tổ quốc trong lòng tín đồ. Hậu quả của chính sách này đã làm cho nạn nhân trở thành những hạng người hết sức thiển cận, vô cùng vị kỷ, hoàn toàn mất gốc, và cực kỳ vô liêm sỉ, vô liêm sỉ đến độ:
C.- Thi hành chính sách Ki-tô hóa nhân dân bằng tất cả phương tiện của chính quyền và bằng tất cả mọi thủ đoạn để cường bách hay dồn nhận dân dưới quyền hay lép vế vào thế kẹt phải theo đạo để tìm đường sống.
D.- Thi hành chính sách tham nhũng bằng tất cả những phương tiện của nhà nước và bằng tất cả mạnh khóe để cướp đoạt tài nguyên quốc gia, độc quyền kiểm soát tất cả mọi phạm vi sinh hoạt trong xã hội, bóc lột nhân dân về cả vật lực (đóng thuế và đóng góp cho nhà thờ bằng rất nhiều hình thức) và nhân lực (lao công phục dịch trong các công trường xây cấy cất các dinh thự của nhà nước, xây cất các nhà thờ, gác chuông, tu viện, chủng viện, v.v… của Giáo Hội). Vấn đề này sẽ được trình bày trong Phần III, Mục X với 6 chương sách.
Tất cả những gì chúng tôi đã nói lướt qua trong bài viết này sẽ được trình bày đầy đủ trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sở Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Bộ sách gồm có 7 phần:
Phần I nói về tổng lược lịch sử Giáo Hội La Mã. Phần này gồm có Mục I và Mục II, có 4 chương.
Phần II nói về những rặng núi tội ác chống nhân loại của Giáo Hội La Mã. Phần này chia làm 4 mục, từ Mục III đến VI, gồm 13 chuơng.
Phần III nói về Vatican theo đuổi chủ nghĩa bá quyền thống trị toàn cầu, rồi vận động Pháp liên kết với Giáo Hội và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cùng thống trị, cùng nô lệ hóa dân ta và cùng chia nhau lợi nhuận. Phần này chia là 4 mục, từ Mục VII đến X, gồm 14 chương.
Phần IV nói về xã hội và chính tình Việt Nam trong những năm 1940-1945. Phần này chia làm 3 mục, từ Mục XI đến XIII, có 14 chương.
Phần V nói về Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo cuộc Kháng Chiến 1945-1954. Phần này chia làm 4 mục, từ mục XIV đến Mục XVII, có 13 chương.
Phần VI nói về miền Nam Việt Nam dưới ách thống trị của Liên minh Mỹ - Vatican. Phần này chia làm 6 muc, từ Mục XVIII đến XXIII, gồm 39 chương.
Phần VII nói về phong trào nhân dân thế giới phản kháng Vatican.
Phần này gồm 3 mục, từ Mục XXIV đến XXVI, gồm 27 chương.
Trong Phần VII, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ những nguyên nhân, diễn tiến và thành quả của các cuộc tranh đấu của các dân tộc nạn nhân của Giáo Hội ở khăp nơi tren cac lục đia Âu Châu, Á Châu và Mỹ Châu để giải thoát khỏi ách thống trị bạo tàn của Vatican. Các dân tộc này hoặc là nằm dưới ách thống trị trực tiếp của Tòa Thánh Vatican như một số tiểu quốc Ý trước khí quốc gia này được thống nhất vào năm 1870, hoặc là dưới ách thống trị của các chế độ bảo hộ của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ liên kết với Vatican tại các thuộc địa ở Phi Châu, Mỹ Châu và Á Châu, hoặc là dưới ách thống trị bạo tàn của các chế độ đạo phiệt Da-tô tại các địa phương với bàn tay phù thủy của các giáo sĩ Da-tô của Giáo Hội ở tại địa phương đó, hoặc là do bọn giáo sĩ truyền đạo xúi giục tín đồ Da-tô bản địa nổi loạn hay bất tuân luật pháp của chính quyền đương thời theo sách lược “quậy cho nước đục để thả câu” của Vatican.
Tổng cộng 7 phần, 26 mục, 125 chương. Số phần và số mục được coi như quyết định rõ ràng. Số chương cỏ thể tăng lên vì có nhiều chương quá dài có thể bị chia ra là hai hay ba chương. .
Hy vọng bộ sách này sẽ giúp cho độc giả sẽ nhìn thấy rõ bộ mặt thật ghê tởm của cái tôn giáo thường rêu là “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” và là “Hiền Thế của Thiên Chúa Làm Người”, và sẽ nhìn thấy rõ cái NGUYÊN NHÂN:
[ii] Alfred W. McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper Colophon, 1973) pp.149-217
[iii] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 129-130.
[v] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr 32.
[vi] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 53
[vii] Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa) 2002) tr. 389
[viii] Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1975 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.
[ix] Arnold Schrier & T. Walter, Living World History (Glenview, Ill.: Scott, Foresman and Company, 1974),p. 398.
[x] Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: Putnam’ s, 1984), p. 170.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét