CHƯƠNG 10
    
    
Trong chương này:
XXI.- Sử Liệu Như Thế Nào Mới Khả Tín?
      XXII.- Về Luận Điệu: Không Cần Phải Phát Động Chiến       Tranh -  Pháp Cũng Phải Trao Trả Độc Lập Cho Việt Nam 
     
    
 XXI.-Sử Liệu Như Thế Nào Mới Khả Tín?
    Trong lá thư đề ngày 2 tháng 9 năm 2000, độc giả Trần Hoài Thư viết cho người viết:
    “Xin giáo sư soạn một quyển sách, list ra họ tên tác giả, tên 
tác phẩm, tác giả gốc đạo gì, tháng năm tác phẩm ra đời, khuynh hướng 
chính trị tôn giáo v.v.. từ trước đến nay, để lớp trẻ sau này biết chọn 
sách mà đọc khỏi bị lạc dẫn. Thiết nghĩ chỉ có giáo sư mới đủ uy tín làm
 việc này! Vì gần một thế kỷ nay, tất cả các sách giáo khoa và lịch sử 
hầu hết đều do bọn Thiên Chúa hoặc tay sai biên soạn, nên phần đông đều 
mù tịt. Ví dụ Pétrus Ký, A. De Rhodes, Nguyễn Tường Tộ, Trần Lục, Nguyễn
 Bá Tòng, Ngô Đình Diệm, đều là vĩ nhân yêu nước, nhưng Sự Thật đều là 
Bán Nước….” [i] 
    Hy vọng rằng chương sách này sẽ đáp ứng được phần nào lời yêu cầu
 trên đây của ông Trần Hoài Thư và cũng là lòng mong muốn của tất cả 
những người còn quan tâm đế lịch sử và tương lai của dân tộc Việt Nam 
chúng ta.
    
¨
    Độc kế ngu dân và giáo dục nhồi sọ đã được Giáo Hội La Mã triệt 
để thi hành ở Việt Nam ít nhất là từ năm 1862, cho nên khi đọc một cuốn 
sách có những đề tài liên hệ đến giai đoạn lịch sử Việt Nam trong thời 
cận và hiện đại, chúng ta phải đặt vấn đề về kiến thức lịch sử của tác 
giả:
    
1.- Tác giả có thoát ra khỏi cái di lụy của độc kế ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã trước đây không?
    
2.-  Tác giả có ở vào tình trạng của “những bất khả” và    “dị ứng” như đã nêu lên trong Chương 5 ở trên hay không?
    Hơn nữa, viết một cuốn sách có những đề tài liên hệ đến lịch sử 
Việt Nam trong thời cận và hiện đại, tác giả phải tham khảo thật nhiều 
tài liệu, phải thấu hiểu tình hình quốc tế và chính sách ngọai giao của 
các thế lực ngoại cường đã từng can thiệp trực tiếp vào nội tình Việt 
Nam trong thời kỳ này. Tác giả phải biết rõ, trong các thế lực này, Giáo
 Hội La Mã là một thế lực quan trọng hơn cả. Quan trọng là vì, theo tinh
 thần sắc chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8 tháng 1 năm 1454
 trong thời Giáo Hòang Nicholas V (1447-1455), Giáo Hội La Mã đã có chủ 
trương đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa rồi mới vận động đế quốc Pháp 
liên kết với Giáo xuât quân tấn chiếm nước ta để cùng cướp đoạt tài 
nguyên, cùng nô lệ hóa dân ta và cùng chia nhau lợi nhuận. Quan trọng 
hơn là giữa thập niên 1780, Giáo Hội và nhóm thiểu số tín đô Da-tô người
 Việt của Giáo Hội luôn cấu kết với các thế lực ngoài cường xâm lược để 
chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam. 
    Đây là điểm then chốt để giải thích TẠI SAO khi nhân dân các 
thuộc của đế quốc Anh và của đế quốc Hòa Lan vừa mới nổi lên tranh đấu 
giành độc lập, thì chính quyền Anh và chính quyền Hòa Lan liền trao trả 
quyền độc lập cho các thuộc này và rút quân về nước, trong khi đó thì 
nhân dân các thuốc địa Pháp lại phải tranh đấu bằng bạo lực, phải hy 
sinh hàng triệu người trong một cuộc chiến trường kỳ cà gần mười năm 
trời để đánh cho đoàn quân viễn chinh Liên Minh Pháp - Vatican thảm bại 
tàn tành khiến cho nước Pháp không còn khả năng theo đuổi chiến tranh, 
rồi mới chịu rút quân về nước và công nhận chủ quyền độc lập của các dân
 tộc thuộc địa.
    Muốn biết rõ vấn đề này, thiết cần phải biết:
    A.- lời nhận xét của sử gia Loraine Boettner ghi nhận: 
    Rome in the minority is a lamb (Khi là thiểu số, Giáo Hội La Mã là con cừu).
    Rome as an equal is a fox (khi ngang số, Giáo Hội La Mã La Mã là con cáo).
    Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa số, Giáo Hội La Mã là con cọp.
    B.- Một số những dữ kiện lịch sử Việt Nam dưới đây trong thời cận và hiện đại: 
    Thứ nhất.- Con số tín đồ Da-tô ở Việt Nam vào những thời điểm:
    Năm1800: 320 ngàn và 119 linh-mục. 
    Giữa thập niên 1850 là từ 500 đến 600 ngàn.
    Giữa thập niên 1850, 
    Năm 1945 là 1 triệu 700 ngàn người[ii]. 
    Tất cả những người này đều đã được nhồi sọ thành những hạng người "tuyệt
 đối tin tưởng vào Tòa Thánh Vatican và triệt để tuân hành lệnh truyền 
của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã". Ngòai ra, Giáo Hội còn có hàng ngàn linh mục và giám mục với tinh thần "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" nắm giữ những vai trò trưởng lưới gián điệp và chỉ huy các đạo quân nội trùng thập tự chống lại tổ quốc Việt Nam.
    Thứ hai.- Giáo Hội luôn luôn tìm cách can thiệp trực tiếp 
vào nội tình của bất cứ quốc gia nạn nhân nào bị Giáo Hội chiếu cố, đặc 
biệt là vào khi quốc gia nạn nhân này có biến động. Việt Nam đã từng là 
quốc gia nạn nhân trong chính sách này của Giáo Hội từ thập niên 1780 
cho đến ngày nay.
    
1.-  Sách sử còn ghi rõ, vào giữa thập niên 
1780, Giáo Hội La Mã cấu kết với Pháp qua sự trung gian của Gíám mục 
Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) để can thiệp vào Việt Nam. Qua ông 
Giám-mục này, Giáo Hội và nước Pháp sản xuất ra Thỏa Hiệp Versailles 
1787. Đây là một thỏa hiệp hết sức quái đản vì nó là kết quả của bàn tay
 đạo diễn của Giáo Hội La Mã qua nhân vật Giám-mục Bá Đa Lộc vừa là đại 
diện cho Vatican, vừa là đại diện cho Việt Nam, vừa nhân danh là người 
Pháp thuyết phục chính quyền Pháp liên kết với Vatican để sản xuất ra 
hiệp ước này. Dù rằng, thỏa hiệp này không được thi hành [vì chính quyền
 đạo phiệt Da-tô của Vua Louis XVI (1754-1793) tay sai của Vatican bị 
Cách Mạng Pháp 1789 lật đổ], nhưng cũng từ đó, Giáo Hội La Mã đã dùng nó
 làm cái cớ và cái đà để liên tục tích cực can thiệp trực tiếp vào nội 
tình Việt Nam một cách vô cùng thô bạo và hết sức trắng trợn.
    
2.-  Giáo Hội La Mã đã bỏ tiền ra tài trợ và 
giao trách   nhiệm cho Giám-muc Pigneau de Béhaine vận động quyên tiền 
trong cộng động Da-tô   ở các nước Âu Châu để thuê mướn lính đạo từ Âu 
Châu, mua sắm vũ khí và chiến   tầu đem sang Việt Nam viện trợ cho 
Nguyễn Ánh. Mục đích của việc làm gian ác   này là để có thể dễ dàng xâm
 nhập vào thượng tầng bộ máy cai trị của   triều đình nhà Nguyễn. 
    
3.-  Vào những năm đầu của thế kỷ 19, dù rằng 
đã nhờ vào viện trợ của Giáo Hội đặt dưới quyển chỉ huy của Gíam-mục 
Pigneau de Béhaine, Nguyễn Ánh mới đánh bại được nhà Tây Sơn, nhưng khi 
đã thành công và lên ngôi vua rồi, ông lại ngoảnh mặt đi, và tìm đủ mọi 
cách đề phòng, không để cho bọn giáo sĩ đàn em của Pigneau de Béhaine 
(lúc đó đã qua đời) có cơ hội xâm nhập vào bộ máy cai trị của nhà 
Nguyễn. Kể từ đó, Giáo Hội lại tích cực vận động Pháp và Tây Ban Nha 
xuất quân tấn chiếm Việt Nam rồi thống trị dân ta cho đến tháng 3 năm 
1945 thì bị quân Nhật lật đổ. 
    
4.-  Giáo Hội La Mã thi hành những sách lược 
“Cáo đội lốt hùm” và “theo voi ăn bã mía”: Từ năm 1940, thấy rằng Phe 
Trục Đức-Ý-Nhật thắng thế, tại Âu Châu, Giáo Hội dồn hết nỗ lực 
vào việc vận động Phát Xít Ý và Đức Quốc Xã ủng hộ và viện trợ cho phe 
Phát-xit Da-tô của Francisco Franco (1892-1975) trong cuộc chiến lật đổ 
chính quyền Cộng Hòa Tây Ban Nha để thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô tại
 quốc gia này. Đồng thời, Tòa Thánh Vatican lại cấu kết với Đức Quốc Xã 
và Phát Xít Ý để đưa tên Da-tô Ante Pavelich lên cầm quyền ở Croatia, 
rồi thiết lập chế độ đạo phiệt Da tô ở quốc gia này nhằm thi hành chính 
sách Ki-tô hóa bằng bạo lực. Chỉ trong vòng 4 năm (1941-1945), chế độ 
đạo phiệt Da-tô này đã tàn sát tới hơn 700 ngàn dân thuộc Do Thái Giáo, 
Chính Thống Giáo và Hồi Giáo trong một quốc gia chỉ vỏn vẹn độ ba (3) 
triệu dân. 
    
     
      |  Giáo Hoàng Pius XII
 (2 March 1876 - 9 October 1958)
 |  Hồng Y Spellman
 | 
      | Giáo Hoàng Pius XII cùng với  Hồng Y Spellman 
thuyết phục Mỹ  dùng bom nguyên  tử để giải vây cho quân Pháp ở Điện 
Biên Phủ, và vận động đưa  Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền | 
    Tại Á Châu, cũng vào thời điểm này, thấy rằng Nhật đang 
làm bá chủ Á Châu, một mặt, Giáo Hội cho tên Da-tô Ngô Đình Huân (con 
trai Ngô Đình Khôi, cháu nội Ngô Đình Khả) luồn lọt vào làm do thám cho 
Nhật, được Nhật tin dùng, cho nắm giữ chức bí thư cho Đại Sứ Nhật 
Yokohama. Mặt khác, Giáo Hội cho hâm nóng con bài Da-tô Cường Để ở Nhật 
bằng cách ra lệnh cho tên Da-tô Ngô Đình Diệm tích cực họat động cho con
 bài Cường Để với hy vọng nếu Nhật hất cảng Pháp, Nhật sẽ dùng Cường Để 
thay thế Bảo Đại và dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, rồi Giáo Hội sẽ 
dựa vào Nhật để thi hành sách lược “Cáo đội lốt hùm” giống như Giáo Hội 
đã làm với Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý ở Tây Ban Nha và ở Croatia. 
    
5.-  Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đông Minh 
Anh - Mỹ - Pháp - Nga -Trung Hoa, Quốc Quân Trung Hoa đuợc giao cho 
trách nhiệm giải giới và hồi hương quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. 
Mãi tới đầu tháng 9/1945, Tướng Lư Hán mới đưa quân vào Việt Nam qua ngả
 Vân Nam – Lào Cai, và Tướng Tiêu Văn mới dẫn quân vào Việt Nam qua ngả 
Quảng Tây đi đường Lạng Sơn, tổng cộng tất cả vào khoảng 200 ngàn người.
 Cả hai đạo quân này thật sự là những quân ăn cướp và hà hiếp dân ta mà 
người Việt Nam lúc bấy giờ gọi là "quân Tầu Ô" và sử gia Bernard B. Fall
 ví như "đàn châu chấu" (like a swarm of locusts) bay vào tàn hại Việt 
Nam. Trên đường từ Lào Cai và từ Lạng Sơn về tới Hà Nội, các vị lãnh đạo
 và đảng viên Quốc Dân Đảng Việt Nam (Việt Quốc) của ông Vũ Hồng Khanh, 
Nguyễn Tường Tam và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) của ông
 Nguyễn Hải Thần cùng đi theo đoàn quân Tâu Ô này để đánh cướp chính 
quyền đã nằm trong tay của Mặt Trận Việt Minh từ ngày 15/8/1945 (hay sau
 đó một vài ngày). Do việc dựa vào thế lực của hai đạo quân Tầu Ô trên 
đây để củng cố quyền lực, cho nên uy tín của hai đảng Việt Quốc và Việt 
Cách cũng chìm nổi với đoàn quân Tầu Ô này. Vì thế mà dân chúng ở những 
vùng có quân Tàu chiếm đóng đều kinh sợ và xa lánh cả hai chính đảng này
 giống như kinh sợ quần Tầu (Quốc Quân Trung Hoa) vậy. 
    Quân Anh được trao cho nhiệm vụ giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 
16 trở vào Nam. Trong thực tế quân Anh che chở cho quân Pháp đổ bộ vào 
Sàigòn. 
    Đồng thời, cũng vào thời điểm này, Tòa Thánh Vatican đã toa rập 
với chính quyền Charles de Gaulle của nước Pháp trong việc đưa cựu 
linh-mục Thierry d’ Argenlieu lên nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào 
ngày 17/8/1945. Nhiệm vụ của vị linh mục này là đem quân tái chiếm Đông 
Dương và thi hành độc kế chia để trị, bằng cách xé nước Việt Nam ra làm 
nhiều mảnh nhỏ theo lằn ranh biên giới địa lý, sắc tộc và tôn giáo, rồi 
dùng người Việt đánh người Việt và dùng nhóm thiểu số tín đồ Da-tô cai 
trị đại khối nhân dân thuộc các tôn giáo khác. Quan trọng hơn nữa, việc 
Tòa Thánh Vatican cấu kết với Pháp trong việc bổ nhậm cựu Linh-mục 
Thierry d’ Argenlieu nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào thời điểm này
 là có dã tâm thâm độc xúi giục và khích lệ gần hai triệu tín đồ Da-tô 
người Việt nổi lên tiếp tay đoàn quân viễn chinh Liên Minh Pháp – 
Vatican chống lại chính quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt 
Trận Việt Minh. Đây là sự thật lịch sử. Sự thật lịch sử này đều được 
sách sử ghi lại rõ ràng, và ngay cả các sử gia Da-tô cũng công nhận như 
vậy. Bằng chứng là sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận 
trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
    “Đờ Gôn (De Gaulle) gặp đô đốc Thierry d’ Argenlieu, một tu sĩ
 Dòng Camêlô, làm cho Cao Ủy Đông Dương, nghĩa là làm Toàn Quyền. Có lẽ 
ông hy vọng rằng vị linh mục này sẽ thành công trong việc quy tụ dân 
công giáo lại đi theo ủng hộ mình, như hồi chinh phục lần đầu, cách đó 
một thế kỷ.”[iii] 
    Vấn đề này sẽ được trình bày đày đủ ở trong Mục XV, Phần V trong bộ sách Lịch sử và Hồ Sô Tội Ác của Giáo Hội La Mã.
    
6.-  Sau khi bị thảm bại tại Điện Biên Phủ vào
 đầu tháng 5 năm 1954, tại Hội Nghị Genève, Pháp nghiêm chỉnh thương 
thuyết với chính quyền Kháng Chiến Việt Nam, bằng lòng rút quân về nước 
và công nhận quyền độc lập của Việt Nam. Liên Minh Pháp – Vatican chính 
thức tan rã và Pháp thực sự đã bỏ cuộc tái chiếm Việt Nam. Pháp bỏ cuộc,
 nhưng Vatican vẫn còn cố đấm ăn xôi, lì lợm bám chặt vào Việt Nam như 
loài đỉa đói. Vì có tham vọng còn muốn bám chặt lấy Việt Nam, Vatican 
quay ra vận động chính quyền Hoa Kỳ liên kết với Vatican đưa ông Da-tô 
Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Việt Nam. Để đạt được mục đích này, Giáo 
Hội huy động tất cả các tín đồ Da-tô có thế lực người Hoa Kỳ, tín đồ 
Da-tô người Pháp ở Pháp và cả tín đồ Da-tô người Việt là bà Nam Phương 
Hoàng Hậu để làm áp lực với chính quyền Pháp và ông Bảo Đại đưa ông 
Da-tô Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền.
    
7.-  Duy trì và củng cố quyền lực ở miền Nam 
Việt Nam: Sau khi đã đưa ông Da-tô Ngô Đình Diệm lên cầm quyền ở Việt 
Nam, Giáo Hội cấu kết với Hoa Kỳ để duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong 
tình trạng chia đôi bằng cách vi phạm Hiệp Ước Genève 1954, không cho tổ
 chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước như Thoả Hiệp Genève đã dự 
trù vào tháng 7 năm 1956. 
    Đây là thời kỳ Giáo Hội La Mã dựa vào cái dù của siêu cường Hoa 
Kỳ để củng cố và duy trì quyền lực ở miền Nam và ra lệnh cho chính quyền
 Ngô Đình Diệm chính thức làm lễ dâng nước Việt Nam cho Tòa Thánh 
Vatican[iv],
 và tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng tất cả phương 
tiện của chính quyền. Hậu quả là trên 300 ngàn người dân ở các tỉnh 
thuộc Liên Khu V bị tàn sát trong những chiến dịch “mở mang nước Chúa” được ngụy tạo là “những chiến dịch Chống Cộng”.
 Chiến dịch này được chính quyền hợp thức hóa bằng Sắc Luật 47 ban hành 
vào ngày 21/8/1956 và Luật 10/59 được ban hành vào ngày 6 tháng 5 năm 
1959. Theo luật này, 3 tòa án đặc biệt được thiết lập để làm công cụ cho
 những chiến dịch "mở mang nước Chúa" nằm trong kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực để “chỉ trong vòng mười năm thôi là cả miền Nam sẽ theo Công Giáo Hết”[v]
    Lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại rõ ràng là như vậy. Cho
     nên bất cứ tác phẩm lịch sử nào có liên hệ đến Việt Nam trong thời kỳ này
 mà (1) không nói đến Giáo Hội La Mã (một thế lực đã liên tục can thiệp 
vào Việt Nam lâu dài nhất, thô bạo nhất và trắng trợn nhất, (2) không 
nói đến đạo quân thập tự nằm vùng nội phản, và (3) không nêu đích danh 
những tên Việt gian Da-tô làm tay sai cho Giáo Hội La Mã và làm tay sai 
cho các đế quốc trên đây, thì đó chỉ là một cuốn ngụy sử do bọn văn nô 
Da-tô biên soạn ra để xuyên tạc lịch sử và che giấu những rặng núi tội 
ác của Giáo Hội La Mã đã chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong 
suốt chiều dài lịch sử từ thập niên 1780 cho đến ngày nay hay ít ra là 
cho đến ngày 30/4/1975.
    Những tác giả cố tình tránh né hay mù quáng không nhìn thấy những
 sự kiện rõ ràng như đã trình bày trên đây, tất nhiên là không thể nào 
tin cậy được. Những người không nhìn thấy những sự kiện lịch sử trên đây
 mà vẫn ti toe viết sử thì chỉ là thứ “ếch ngồi đáy giếng” làm chuyện “múa rìu qua mắt thợ” và "ăn ốc nói mò". Đây là loại người, nếu không phải là văn nô Da-tô, thì cũng là:
    
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,  
     Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.  
    
(Hồ Xuân Hương)
    
    
    Gần đây chúng tôi được nghe thiên hạ phóng ra một luận điệu mới:  "Không
    cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả 4 hay 5 triệu sinh 
linh, thì    rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trả lại    chủ quyền độc
 lập cho dân ta như người Anh đã trả lại chủ quyền độc lập cho    Ấn Độ 
vào ngày 15/8/1947, như người Hòa Lan đã phải chính thức công nhận nền  
  độc lập của Nam Dương vào ngày 2/11/1949 và triệt thoái toàn bộ quân 
đội về    nước vào ngày 27/12 năm đó."
    Nói như thế mà cũng nói cho được, thì chúng tôi không hiểu ai là những
     người    "nghe lọt tai." Trừ phi không biết, hoặc thuộc loại
     phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có
     một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân
     tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu  ươn
     hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh thân thế của hàng triệu
     anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân    kháng chiến
     của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ
     năm 1858 cho đến năm 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh
     hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến  1954-1975
     để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho
     đất nước cũng    là vô ích hay sao!
    Đưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa
 sĩ đã    ngã xuống cho tổ quốc Việt Nam được trường tồn. Người viết cực
 lực phản đối    luận điệu này. 
    Ngườiviết  tin rằng, những người đưa ra luận điệu này nếu 
không    phải là người của Vatican thì cũng là những người đồng lõa với 
bọn vong bản    thường lớn tiếng bảo nhau rằng "Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa".   Ngườiviết    cũng tin rằng những người nghe theo luận điệu
 này không phải là người học    sử, không thấu hiểu lịch sử thế giới, 
không thấu hiểu lịch sử Giáo Hội La    Mã, và cũng không biết gì về chủ 
nghĩa bá quyền của Giáo Hội La Mã. Chủ nghĩa    bá quyền này đã được 
công bố rõ ràng trong Sắc Chỉ Romanus Pontifex, ban hành    vào ngày 
8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas (1447-1455)].
    Vì không có kiến thức về    lịch sử thế giới và cũng không có 
kiến thức về lịch sử Việt Nam trong thời    cận và hiện đại,  những 
người này không thể nào biết được:
    -  TẠI SAO    khi nhân dân các thuộc địa của đế quốc Anh và đế 
quốc Hòa Lan vừa mới    nổi lên tranh đấu đòi độc lập có mấy năm ngắn 
ngủi, thì hai đế quốc này đã    phải trao trả độc lập cho họ. Và 
    -  TẠI SAO dận tộc Việt Nam đã phải vùng lên tranh đấu trường kỳ 
   với cả hàng trăm cuộc nổi dậy, phải chiến đấu trong những hoàn cảnh 
cực kỳ    gian khổ và vô cùng đẫm máu, tốn phí cả gần    chục triệu sinh
 linh mới đánh đuổi được giặc Pháp và giành lại được chủ quyền    độc 
lập cho dân tộc, và mới đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam để đem lại
    thống nhất cho tổ quốc. Nhưng giặc Vatican vẫn còn lì lợm bám chặt lấy Việt    Nam như loài đỉa đói.
    Cho dù hkông biết những sự kiện trên, không ai lại dễ dàng chấp 
nhận lập    luận cho rằng không cần phải phát động chiến tranh thì rồi 
đến lúc nào đó,    Pháp cũng phải trả lại    chủ quyền độc lập cho Việt 
Nam. Dã tâm của họ là phủ nhận những    công nghiệp lịch sử  to lớn và 
sáng chói của Mặt Trận Việt Minh dưới quyền    lãnh đạo của cụ Hồ Chí 
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam, những người    đã giành lại chủ quyền 
độc lập cho dân tộc, đem lại thống nhất cho đất nước    và vinh quang 
cho tổ quốc Việt Nam ta. Nếu chịu khó suy nghĩ, ta sẽ    biết thế lực 
nào đã đưa ra lập luận quái đản này, và mớm cho bọn người “thà    mất nước, chứ không thà mất Chúa” để phát tán, rêu rao. 
    Để phản bác luận cứ, xin quý vị cùng chúng tôi
     ôn lại một giai đoạn lịch sử ở Âu Châu nói về các Phong Trào Tin
     Lành chống Vatican
     và phong trào các đế quốc Âu Châu đem quân đi đánh chiếm đất đai
     ngoài Âu Châu làm thuộc địa. 
    Từ thế kỷ 16, tại Âu Châu, có hai sự kiện quan trọng: 
    
 ☞ Thứ nhất, từ cuối thập niên 1510, Phong Trào Đòi Cải     Cách Tôn Giáo
 bắt đầu bùng lên thành phong trào vũ trang chống lại quyền     lực của 
Tòa Thánh Vatican. Quan trọng nhất là Phong Trào Tinh Lành     do 
Linh-mục Martin Luther (1483-1546) ở Đức khởi xướng và khởi đầu vào năm 
    1517. Giậu đổ bìm leo. Phong trào này nổi lên như một vết dầu loang 
và dẫn     đến việc chính quyền Anh của Anh Hoàng Henry VIII (1491-1547)
 cũng vùng lên     chống lại Tòa Thánh Vatican, rồi chính thức ly khai 
khỏi Giáo Hội La Mã,     thành lập Anh Giáo, tịch thu toàn bộ tài sản 
của Giáo Hội tại Anh Quốc. Rồi     sau đó, vào năm 1691, Quốc Hội Anh 
lại ban hành  Đạo Luật Ổn Định vào     năm 1691, cấm, không cho người Anh là tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã     lên cầm quyền. (The     Act of Settlement of 1691). Đạo luật này quy định rằng không
     có một tín đồ Ki-tô La Mãnào có thể trở thành nhà lãnh đạo nước 
Anh.     Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người con và cháu của
 vua James     Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua. Nguyên văn: “A third     measure, the Act of Settlement of 1691,
 provided that no Roman Catholic     could be ruler of England, 
automatically excluding the descendants of James     II by his second 
wife.”Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living     World History (Glenview, Illinois: Scott Foresman Company, 1974), p.     398. 
    Sau khi nước Anh nổi lên chống Vatican và thành lập Anh Giáo 
không được bao lâu, tại lục địa Âu Châu lại có một Phong Trào Tin Lành 
khác nổi lên chống Vatican. Phong trào Tin Lành này do nhà thần học John
 Calvin (1509-1564) khởi lập và khởi đầu ở Thụy Sĩ, rồi lan tràn ra 
nhiều nước khác ở Trung Âu, Bắc Âu và Tây Âu. 
    
    
    
     
      |  Linh-mục Martin Luther (1483-1546)
 |  nhà thần học
 John Calvin (1509-1564)
 | 
    Cả ba phong trào chống Vatican này (Anh Giáo, Tin Lành Luther và 
Tin Lành   Calvin) càng ngày càng phát triển: Anh giáo bao trùm toàn thể
 Anh Quốc. Tin Lành Luther và Tin Lành Calvin được nhân dân các quốc gia
 Trung Âu, Bắc Âu và Tây Âu nồng nhiệt tiếp đón. Không biết sự nồng 
nhiệt tiếp đón đạo Tin Lành của nhân dân tại các quốc gia này là vì họ 
nhận thấy thuyết lý Tin Lành có lý hơn thuyết lý Ki-tô La Mã hay là vì 
lòng căm phẫn, thù ghét và quá ghê tởm những thủ đoạn bịp bợm và chính 
sách tàn ngược của Vatican, giống như một người vợ bị anh chồng ác độc 
đối xử quá ư tàn ngược cho nên mới phải cuốn gói ra đi với hy vọng sống 
với bất kỳ người đàn ông tồi tệ nào khác cũng vẫn còn hơn sống với thằng
 chồng khốn nạn đó. Cũng vì thế, kể từ đó, chiến tranh tôn giáo giữa 
những người cùng thờ ông Jesus là phe Ki-tô La Mã và các phe Tin Lành 
trở nên vô cũng tàn khốc và hết sức dã man. Trong Chương 7 ở trên, chúng
 tôi đã trích dẫn một vài bản văn sử nói về những hành động tàn ngược và
 dã man của phe Ki-tô La Mã đối với những người Tin Lành ở Pháp và ở Ái 
Nhĩ Lan. Riêng ở Ái Nhĩ Lan, cho đến ngày nay (2008), sự thù hận và 
chiến tranh vẫn còn âm ỉ giữa người Tin Lành và người Ki-tô La Mã không 
  bằng hình này thì cũng bằng hình thức khác. 
    Cho đến cuối thế kỷ 18, đại đa số nhân dân các quốc gia Trung Âu,
 Bắc Âu, Tây Âu theo đạo Tin Lành. Tại các quốc gia này, những người 
theo đạo Ki-tô La Mã trở thành thiểu số, ngoại trừ hai nước Pháp và Ba 
Lan. Tuy nhiên, dù là đa số người dân hai quốc gia này vẫn còn theo đạo 
Ki-tô La Mã, nhưng đa số những tín hữu Ki-tô La Mã ở hai quốc gia này 
cũng đã bắt đầu chán ghét và ghê tởm Tòa Thánh Vatican. Nhờ vậy mà Cách 
Mạng Pháp 1789 mới thành công dễ dàng như chúng ta đã thấy. Ki-tô La Mã 
chỉ còn chiếm đa số tại ba nước ở Nam Âu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý
 Đại Lợi mà thôi. Tuy nhiên, có rất nhiều tín đồ Ki-tô La Mã ở ba quốc 
gia này cũng có khuynh hướng theo Cách Mạng chống lại Vatican một cách 
quyết liệt. Cũng nhờ vậy mà cuộc Cách Mạng Y 1870 mới dễ dàng thành 
công. Sẽ được trình bày đầy đủ trong Mục XXVI, Phần VII trong bộ sách 
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. 
    
 ☞  Thứ hai,    cũng bắt đầu từ đầu thế kỷ 16, có 
phong trào các cường quốc Âu Châu đem quân    đi đánh chiếm đất đai ở 
ngoài lục địa Âu Châu 
    - để làm thuộc địa, hoặc là 
    - để di dân như Bắc Mỹ, Úc Châu và Nam Phi,    hoặc là 
    - để khai thác tài nguyên và   làm thị trường tiêu thụ hàng hóa kỹ nghệ như Đông Dương, Indonesia, Ấn Độ,   Miến Diện, v.v... 
    Về phương diện tôn giáo, cả hai loại thuộc địa trên đây   đều thuộc về   các đế quốc mà (1) các nhà lãnh đạo chính quyền     là tín đồ Tin Lành (Hòa Lan và Anh), và (2) các nhà lãnh   đạo chính quyền là tín đồ Ca-tô cấu kết chặt chẽ với Vatican (Tây Ban   Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Bỉ.) 
    I.- Loại thuộc địa của các đế quốc theo đạo Tin Lành.- 
Trong công cuộc đem quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài lục địa Âu Châu 
làm thuộc địa, chính quyền đế quốc Tin Lành có những đặc tính:
    
1.-  Hoàn toàn hành động riêng rẽ,
    
2.-  Không liên kết với Giáo Hội La Mã.
    
3.-  Không có vấn đề tín đồ Tin Lành bản địa 
được tổ chức thành những đạo quân thứ 5 nổi lên tiếp ứng cho đoàn quân 
viễn chính từ chính quốc tiến đến tấn công.
    
4.-  Không có vai trò của Giáo Hội La Mã trong bộ máy quản trị nhân dân trong các thuộc địa.
    
5.-  Không có nhóm thiểu số tín đồ Tín Lành bản địa được:
    
a.- Coi là thành phần nòng cốt để bảo vệ chế độ thuộc địa, 
    
b.-      Sử dụng để đánh phá và tiêu diệt các phong 
trào khởi nghĩa của nhân dân      bản địa vùng lên giành lại chủ quyền 
độc lập cho dân tộc. 
    Vì những đặc tính  trên đây, cho nên khi nhân dân thuộc địa nổi 
lên tranh    đấu đòi lại quyền độc lập, nếu chính quyền tại chính quốc 
thấy rằng không    thể tiếp tục làm chủ nhân ông tại các thuộc địa được 
nữa, liền quyết    định trao trả chủ quyền độc lập cho họ. Tất nhiên là 
không có Giáo Hội Tin    Lành nào níu kéo đòi đem quân đến đàn áp các 
phong trào kháng chiến của nhân    dân bản địa, và cũng không có vấn đề 
nhóm tín đồ Tin Lành bản địa tìm cách    năn nỉ, lạy lục để níu kéo 
chính quốc đem quân tái chiếm hay vận động chính    quyền đế quốc khác 
đem quân đến giúp đỡ đưa họ lên cầm quyền để họ tiếp tục    bán nước và 
"mở mang nước Chúa".
    Đây là các thuộc địa của Đế Quốc Anh và Đế Quốc Hòa Lan ở các lục
 địa Phi Châu, Mỹ Châu, Đại Dương Châu và Á Châu, trong đó có Ấn Độ, 
Miến Điện, Tích Lan, Mã Lai, Indonesia.
    II.- Loại thuộc địa đế quốc Ki-tô La Mã.- Trong công cuộc 
đem quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài lục địa Âu Châu làm thuộc địa, 
chính quyền đế quốc theo đạo Ki-tô La Mã có những đặc tính:
    
1.-  Dùng các tài liệu tình báo do Vatican và tín đồ Da-tô bản địa cung cấp.
    
2.-  Cấu kết với Tòa Thánh Vatican thành một liên minh    xâm lược.
    
3.-  Dùng các giáo sĩ truyền giáo người Âu đã 
từng hoạt động tại địa phương làm thành phần trung gian để sử dụng giới 
tu sĩ và nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa trong các chiến dịch quân sự
 tấn chiếm, bình định và thiết lập bộ máy đàn áp nhân dân.
    
4.-  Nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa được 
đoàn ngũ hóa, được tổ chức thành những đạo quân thứ 5 và lực lượng xung 
kích năm hờ chờ sẵn khi đoàn quân viễn chinh liên minh với Vatican tiến 
vào thì nổi lên tiếp ứng.
    
5.-  Vatican đã chuẩn bị đầy đủ nhân sự gồm 
những tín đồ Da-tô bản địa thuộc loại "thà mất nước, chứ không thà mất 
Chúa" làm những việc đưa đường, dẫn lối, chỉ điểm, thông ngôn, tra tấn 
tù nhân, lao công, thư ký và gia nhập các đạo quân đánh thuê làm các 
công việc canh giữ, tiếp tế, khuân vác, v.v... 
    
6.-  Nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa trở 
thành thành phần xã hội được chính quyền bảo hộ tin tưởng nhất, được 
biệt đãi và biến thành lực lượng nòng cốt để bảo vệ chế độ.
    Vì cả 6 đặc tính trên đây, cho nên khi nhân dân thuộc địa nổi lên
 tranh đấu đòi lại quyền độc lập, thì chính Vatican và nhóm tín đồ Da-tô
 bản địa trở thành thế lực cương quyết sử dung bạo lực để bảo vệ chế độ 
và thẳng tay đàn áp các phong trào nổi dậy của nhân dân bằng bất cứ giá 
nào dù là dã man đế mức nào đi nữa họ cũng làm. Những hành động tàn 
ngược và dã man của tín đồ Da-tô trong vụ tàn sát gần 20 ngàn người Tin 
Lành Pháp ở St. Bartholomew trong ngày 22/8/1572, vụ tàn sát người Tin 
Lành Ái Nhĩ Lan vào năm 1641, vụ tàn sát hơn 700 ngàn ngườii Do Thái 
Giáo, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo ở Croatia trong những năm 1941-1945, 
và vụ tàn sát gần 800 ngàn người Tutsis trong năm 1994 là bằng chứng rõ 
rệt nhất cho lời khẳng định này. Xin xem lại Chương 7.
    Bất kỳ thuộc địa nào nằm dưới ách thống trị của bất kỳ đế quốc
 xâm lược      nào có cấu kiết hay liên minh với Vatican đều bị Vatican 
bám chặt như loài      đỉa đói.
    

     Anh em nhà Ngô Đình trong 
     chế độ gia đình trị và tôn giáo trị  
    Chỉ khi nào chính quyền bản địa hoàn toàn lọt vào tay Vatican    
qua một chính quyền đạo phiệt Da-tô mà hậu trường sân khấu chính trị là 
   hội đồng giám mục địa phương (một nhóm cán bộ tay sai đắc lực của 
Vatican    tại địa phương điều khiển) thì khi đó, Vatican không    
những không níu kéo hay van nài chính quyền đế quốc đã từng liên minh 
với    Vatican trong    việc tấn chiếm và thống trị quốc gia thuộc địa 
đó, mà còn xúi giục bọn tín    đồ cầm quyền tìm cách tống xuất đế quốc 
này ra khỏi lãnh thổ hay đòi hỏi    đế quốc này phải trao trả độc lập 
cho chính quyền bản địa tay sai    của Vatican. 
    Tất cả các thuộc địa của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ thuộc loại thuộc địa này.
     Cũng vì thế mà hầu hết những người cầm quyền ở Châu Mỹ La-tinh, ở Phi 
Luật Tân, ở các cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha, của Bỉ, của Pháp tại Phi 
Châu đều trở thành những tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân 
loại có tên trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & 
Dictators (London: Arcturus, 2004) của sử gia Nigel Cawthorne, và cũng 
vì thế mà trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại 
được nêu lên trong cuốn sách sử này, có tới hơn 50% là các bạo chúa 
Ki-tô La Mã, trong đó hầu    hết là những bạo chúa Ki-tô La Mã ở trong 
các cựu thuộc địa của các đế quốc    thực dân xâm lược Âu Châu có cấu 
kết với Vatican như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,    Pháp và Bỉ.
    Việt Nam là thuộc địa của Liên Minh Pháp - Vatican và tất 
nhiên là ở vào trường hợp bị Vatican bám chặt như loài đỉa đói, không 
chịu nhả ra. 
    Vì thế mà nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong những cuộc 
chiến vô cùng gian khổ, cực kỳ khó khăn và kéo dài cả một thế kỷ từ 1858
 cho đến ngày 30/4/1975 mới có thể tống cổ được thằng giặc Vatican ra 
khỏi đất nước. Nếu không chiến đấu như vậy, thì Việt Nam đã trở thành 
một quốc gia giống như Phi Luật Tân hay các quốc gia Châu Mỹ La-tinh, và
 trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators trên
 đây của sử gia Nigel Cawthorne không phải chỉ có tên thằng phản thần 
tam đại Việt gia Da-tô Ngô Đình Diệm là người Việt Nam ở trong đó, mà   
 còn có thêm một vài tên bạo chúa Da-tô người Việt Nam khác nữa.
    Hy vọng phần trình bày trên đây là những lời phản bác rõ ràng để trả lời những người đưa ra luận điệu cho rằng "không
 cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả 4 hay 5 triệu sinh linh, 
thì rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trao trả lại chủ quyền độc lập 
cho dân ta như người Anh đã trả lại chủ quyền độc lập cho Ấn Độ..."
 Cũng vì thế mà hầu hết những người cầm quyền ở Châu Mỹ La-tinh, ở Phi 
Luật Tân, ở các cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha, của Bỉ, của Pháp tại Phi 
Châu đều trở thành những tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân 
loại có tên trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & 
Dictators (London: Arcturus, 2004) của sử gia Nigel Cawthorne, và cũng 
vì thế mà trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại 
được nêu lên trong cuốn sách sử này, có tới hơn 50% là các bạo chúa 
Ki-tô La Mã, trong đó hầu    hết là những bạo chúa Ki-tô La Mã ở trong 
các cựu thuộc địa của các đế quốc    thực dân xâm lược Âu Châu có cấu 
kết với Vatican như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,    Pháp và Bỉ.
    Việt Nam là thuộc địa của Liên Minh Pháp - Vatican và tất 
nhiên là ở vào trường hợp bị Vatican bám chặt như loài đỉa đói, không 
chịu nhả ra. 
    Vì thế mà nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong những cuộc 
chiến vô cùng gian khổ, cực kỳ khó khăn và kéo dài cả một thế kỷ từ 1858
 cho đến ngày 30/4/1975 mới có thể tống cổ được thằng giặc Vatican ra 
khỏi đất nước. Nếu không chiến đấu như vậy, thì Việt Nam đã trở thành 
một quốc gia giống như Phi Luật Tân hay các quốc gia Châu Mỹ La-tinh, và
 trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators trên
 đây của sử gia Nigel Cawthorne không phải chỉ có tên thằng phản thần 
tam đại Việt gia Da-tô Ngô Đình Diệm là người Việt Nam ở trong đó, mà   
 còn có thêm một vài tên bạo chúa Da-tô người Việt Nam khác nữa.
    Hy vọng phần trình bày trên đây là những lời phản bác rõ ràng để trả lời những người đưa ra luận điệu cho rằng "không
 cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả 4 hay 5 triệu sinh linh, 
thì rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trao trả lại chủ quyền độc lập 
cho dân ta như người Anh đã trả lại chủ quyền độc lập cho Ấn Độ..."
    
Chú thích Chương 10
[i]  Bản chụp của lá thư này đã được đưa lên sachhiem,net thừ tháng 7/2007.. 
[ii] Trần Tam Tỉnh, Sđ d., các tr.. 32, 52 và 212.
[iii] Trần Tam Tình, Sđd., tr. 61. 
[iv] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr.126-127.
[v] Hoàng Trọng Miên, Sđd., tr. 428.
 Posted in:  Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
 Posted in:  Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
 
0 nhận xét:
Đăng nhận xét