|
Trừ những nước công nghiệp đông dân như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp hay
Đức, không có nước nào có thể nội địa hóa tất cả các thành phần của một
chiếc xe hơi.Ảnh: Quốc Hùng |
(TBKTSG) - Nhiều người tưởng rằng ngành công nghiệp xe hơi phải là
thiết kế, sản xuất và kinh doanh xe hơi với tối đa nguyên liệu và thành
phần được sản xuất trong nước.
Định nghĩa này chưa đủ rõ vì tùy ở định vị kinh doanh (marketing
positioning) của công ty: xe vận tải, xe khách chuyên chở công cộng hay
xe du lịch cá nhân. Nếu là xe vận tải thì có trọng tải bao nhiêu tấn,
chở loại hàng gì? Nếu là xe khách hay xe du lịch thì bao nhiêu chỗ ngồi,
bao nhiêu mã lực, vận tốc tối đa là bao nhiêu, sang trọng hạng nào?
Nhưng đó cũng chỉ là định nghĩa một thương phẩm (end product), nghĩa là một chiếc xe hơi khách hàng mua về để dùng ngay.
Trả lời một trong số những câu hỏi đó đã là định vị kinh doanh một mẫu
xe. Từ đó mới dẫn tới quyết định đầu tư cả trăm triệu đô la Mỹ để thiết
kế, xây dựng dây chuyền sản xuất và mạng phân phối cho mẫu xe và đặt ra
vấn đề điểm tới hạn (critical threshold) của khoản vốn đầu tư nghĩa là
lượng xe tối thiểu phải bán để có lãi.
Nếu sản xuất để bán dưới điểm tới hạn thì lãi vận hành sẽ không thể trang trải được tất cả các chi phí cố định và sẽ lỗ.
Theo kinh nghiệm quốc tế thì điểm tới hạn của một mẫu xe là hơn 100.000
chiếc mỗi năm, tương đương với tổng số thị trường tất cả các loại và
mẫu xe hiện nay của cả nước ta.
Dù trong tương lai gần thị trường có tăng lên gấp hai gấp ba đi chăng
nữa thì thị trường mỗi mẫu xe cũng sẽ dưới xa điểm tới hạn. Vượt điểm
tới hạn cũng chưa chắc là sẽ làm ăn có lãi một cách vĩnh cửu.
Nếu chúng ta đọc báo cáo kinh doanh thường niên của các hãng xe từ một
chục năm gần đây thì sẽ thấy ít hãng có lãi nhờ sản xuất để bán xe
nguyên chiếc dưới nhãn hiệu của mình. Mà nếu có lãi thì tỷ số lãi trên
doanh số hay trên vốn sở hữu cũng nhỏ, không đáng kể.
Hãng General Motors, lớn nhất nhì thế giới, cân bằng thu chi nhờ lãi
tiền cho khách hàng vay để họ có thể mua xe của hãng. Từ ba thập niên
nay, họ lỗ nặng ở hoạt động thuần túy sản xuất xe hơi. Thực tế là hãng
này đã trở thành một công ty tín dụng. Như mọi công ty tín dụng, khi
khủng hoảng kinh tế bùng nổ năm 2008 thì hãng này gặp nguy cơ phá sản.
Nhà nước Hoa Kỳ và Nhà nước Canada đã phải quốc hữu hóa, xóa bỏ nợ và
lập lại một công ty khác với kết cấu tài chính chuẩn hơn, rồi tư hữu hóa
và đưa trở lại lên sàn niêm yết.
Dưới áp lực của thị trường, các tập đoàn xe hơi chọn những nơi nào có
thể gia công mỗi thành phần của một xe hơi với giá thành rẻ nhất. Sau đó
các tập đoàn này gom tất cả các thành phần đến một nhà máy lắp ráp đặt ở
trọng tâm thị trường tiêu thụ xe của mình. Trừ những nước công nghiệp
đông dân như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp hay Đức, không có nước nào có thể
nội địa hóa tất cả các thành phần của một chiếc xe hơi. Khả năng đó cũng
đang giảm dần với xu hướng “fabless” của các tập đoàn công nghiệp siêu
quốc gia.
Tôi không biết dịch từ fabless sang tiếng Việt ra sao. Một công ty
fabless là một công ty chỉ thiết kế, lắp ráp và kinh doanh thương phẩm
dưới nhãn hiệu của mình chứ các khâu sản xuất thành phần thì họ gia công
cho các công ty phụ trợ. Có hãng trao luôn khâu lắp ráp cho các công ty
phụ trợ. Do đó mà có nhiều nước như Thái Lan, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ...
tự mãn với một thương hiệu xe quốc gia nhưng thực ra là họ lắp ráp một
mẫu xe do một tập đoàn siêu quốc gia thiết kế cho họ dựa trên một mẫu
mang nhãn hiệu của tập đoàn này.
Ngành xe hơi thuộc vào loại ngành công nghiệp công nghiệp
hóa và chúng ta phải có chân trong ngành đó. Nhưng không có nghĩa là
chúng ta sẽ một mình tham gia vào tất cả các khâu của quy trình sản xuất
và phân phối tất cả các loại xe. |
Nguyên do cũng vẫn là điểm tới hạn của ngành xe hơi rất lớn. Thiết kế
một mẫu xe, thiết kế một dây chuyền sản xuất, lập một mạng phân phối và
bảo trì xe tốn kém về vốn và cần đến nhiều nhân lực chuyên môn. Các tập
đoàn xe quốc tế phải trao tối đa các khâu sản xuất và phân phối cho các
công ty khác gia công.
Nghề thiết kế, khai triển kỹ thuật và sản xuất một chủng loại thành
phần cũng có điểm tới hạn cao. Sản xuất một loại thành phần riêng cho
một tập đoàn xe hơi có khi không đủ để đạt điểm tới hạn. Ít khi nào một
công ty phụ trợ làm ăn với một tập đoàn xe hơi duy nhất. Để vượt điểm
tới hạn, có khi họ cung cấp cùng một mẫu thành phần cho nhiều hãng xe
khác nhau. Có khi họ cùng nhau thành lập chung một công ty chuyên về một
thành phần hay một loại thành phần xe hơi.
Nhiều người tưởng rằng xe của hãng A tốt hơn hay kém hơn xe của hãng B.
Nhưng thực ra thì cả hai xe đều giống nhau vì có cùng một khung, cùng
một động cơ, cùng một bộ số... do cùng một công ty phụ trợ cung cấp.
Có khi những thành phần đó phát nguồn từ cùng một dây chuyền sản xuất
của cùng một nhà máy. Có khi hai xe cùng loại nhưng do hai hãng xe khác
nhau bày bán, chỉ khác ở vẻ bề ngoài và trang trí bên trong.
Ngành xe hơi thuộc vào loại ngành công nghiệp công nghiệp hóa và chúng
ta phải có chân trong ngành đó. Nhưng không có nghĩa là chúng ta sẽ một
mình tham gia vào tất cả các khâu của quy trình sản xuất và phân phối
tất cả các loại xe.
Trong ngành may mặc, chúng ta có nhà thiết kế thời trang tài ba, có khả
năng kỹ thuật để sản xuất toàn bộ các mẫu quần áo mang nhãn hiệu của
mình và có triển vọng nội địa hóa tới gần 100%. Trong ngành xe hơi, cách
đây một nửa thế kỷ, có vài hãng lớn có thể nội địa hóa như thế. Bây
giờ, dù lớn mạnh đến đâu chăng nữa họ cũng không thể tiếp tục làm như
vậy nữa. Nước Algeria đã thất bại khi khai triển một ngành xe hơi quốc
gia trong thập niên 1960.
Để đặt chân vào ngành xe hơi, chúng ta nên làm như các cường quốc công
nghiệp khác, kể cả Hàn Quốc, nước cuối cùng đã tự xây dựng những tập
đoàn xe hơi siêu quốc gia (Trung Quốc là một ngoại lệ): gia công phụ trợ
cho các hãng xe siêu quốc gia.
(*) Kỹ sư tư vấn, Pháp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét