Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015
Phân tích đặc điểm các phát ngôn của giới lãnh đạo
17:30
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tuần
qua, có một câu chuyện liên quan đến Tổng thống Obama và cậu học trò Osman
Yahya 11 tuổi nói lên phong cách lãnh đạo. Số là cậu Osman làm MC điều hành
chương trình đối thoại trên tivi giữa TT Obama và học của một trường trung học ở
bang Maryland bên Mĩ, khi một học sinh hỏi ông Obama có thích đọc sách không,
và ông Obama bắt đầu trả lời rằng ông mê đọc sách, thì cậu MC ngắt ngang rằng
“Tôi nghĩ ông đã trả lời hết câu hỏi đó rồi.” Ông Obama nói nửa đùa nửa thật rằng
“OK, Osman nghĩ rằng tôi nói dài dòng quá”, Osman vừa cười vừa nói “Không,
không”, nhưng Obama nói “thôi, mình tiếp tục”. Các bạn có thể xem video (1) để
thấy:
Câu
chuyện có thể hiểu và nhìn theo nhiều góc cạnh. Nhưng tôi thì thấy cái phong
cách rất tuyệt vời của Obama, vì ông làm cho buổi phỏng vấn rất thân mật, và
quan trọng là ông cũng buồn phiền khi bị một cậu học trò đáng tuổi con mình ngắt
ngang và sửa lưng! Thử tưởng một vị lãnh đạo Việt Nam mà bị một cậu học sinh
nói “Thôi, ông nói dài quá, đủ rồi”! Cậu học trò Việt Nam đó chắc bị nư đòn ?!
Sẵn
dịp bàn về phong cách nói, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài nhận xét và phân
tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo VN. Có khi nào các bạn tự hỏi
tại sao người ta không muốn đọc những bài viết của giới lãnh đạo, và khi họ viết
hay nói ra cái gì thì rất ít người đọc. Người đọc thì chê (ví dụ như bài của vị
nào đó trên Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy lần like). Tôi tự hỏi câu này rất
thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú vị dưới đây, mà tôi nghĩ có thể giải
thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo VN kém hấp dẫn. Đây là bài viết còn ở
bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý mới.
Những
người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì
họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo
chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì
nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn như khi nói về những việc làm liên quan đến
tai nạn máy bay MH17, thủ tướng Úc nói “Mục
tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá cố
và người đang sống.” Đó là một câu có thể trích dẫn.
Nhìn
lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của
chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản
chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc. Họ không nói được
cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các
lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có thể nói rằng thói
quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính khách VN, họ không có khả
năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ
như phát biểu “Đặc biệt là, tình hình Biển
Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước
một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất
nước.” Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là
những mĩ từ, giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng
không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai
chữ “phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không giải
thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai chữ “phức tạp”
mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta không thấy một ý nào cụ
thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện
nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta
thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao
cách mạng Việt Nam.” Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận ngoại
giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính
tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Vì dụ như bài diễn văn nhân dịp kết
thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau hơn
15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận về
văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào văn hóa đem lại
hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… được
phát huy.” Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”, “phát huy”, “hiệu quả
thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là rỗng
tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất
cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh hoạ. Chẳng có một ý tưởng nào để
đáng nhớ.
Một
trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là “đánh giá
cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá
cao bài phát biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ
trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù trong
thế giới xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe
qua “đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý
nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ cực
kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là thiếu thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo quen tính
nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả.
“Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu
chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc
xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát
biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói: “Chúng
tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và
ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội
có thể khẳng định đã đồng tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền
năng nhân dân trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng
của toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu
quyết theo tinh thần đó.” Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu. Lúc
thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn dân, của
Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của nhân dân”. Câu chữ đọc
lên nó cứ như là nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng
có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn
văn của các lãnh đạo chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau. Có những
khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như
câu “Trong niềm tự hào, chúng ta thành
kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại –
vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
…”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu người bình
thường phát biểu như thế thì chắc người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo
mà phát biểu như thế thì chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có
trước đây. Thật ra thì ông cụ đâu được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Một
loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là một “đặc sản” của các
vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều này cũng hiểu được, vì
làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người dân. Nhưng gieo không đúng chỗ
và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh
hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những
việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của
con người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước
ta ngày càng giàu mạnh.” Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước
anh hùng, con người anh hùng, vẻ đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn
còn nghèo và phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con
người vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh
hùng và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn
còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại
xâm.
Thứ năm là … tự khen. Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến tự mình khen
mình là tài giỏi và vĩ đại, và đặc tính này tôi thấy khá thường xuyên. Một ví dụ
tiêu biểu là bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỉ niệm 40 năm ngày
30/4: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới
sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng." Thật ra, đó là tựa đề của
bài viết, mà dài như thế! Nhưng một phần tựa đề này là những khẩu hiệu chúng ta
hay gặp trong suốt mấy thập niên qua. Cứ đề cập đến đảng là phải kèm theo những
tính từ như sáng tạo, lỗi lạc, đứng đắn, quang vinh, vĩ đại, v.v. Tôi không bàn
đến đúng hay sai về nội dung, mà chỉ muốn nói rằng rất hiếm thấy một tổ chức
hay cá nhân nào mà tự khen như thế. Người Việt có câu "Hữu xạ tự nhiên
hương", nếu mình làm điều tốt thì sẽ có người ghi nhận, chứ không cần phải
tự khen như thế. Tự khen 1 lần thì có lẽ cũng không đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết
năm này sang năm khác, và tự khen khắp nơi như dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu
lầm là một bệnh lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó là một thói quen của các vị lãnh
đạo, hay những người viết diễn văn cho các vị ấy.
Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính
hoá. Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ
thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ nói với
đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ không phải nói
với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của họ thường mang tính hành
chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa
thật của nó, như “Trong thời kỳ đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp
tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.” Đối
với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.
Những
bài diễn văn của các chính khác phương Tây thường rất sinh động, thực tế, và có
khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo phương Tây (tiêu biểu là Mĩ) khi họ nói
chuyện dù là trong buổi lễ rất trang trọng, mà họ vẫn làm cho khán giả vừa vỗ
tay vừa cười. Khán giả cảm thấy gần gũi với diễn giả. Ngược lại, những bài diễn
văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức
nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì nghiêm trọng). Vì thế mà khi lãnh đạo VN
nói chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức là chính họ cũng cảm thấy nhàm
chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ tay theo kịch bản hơn là tự
nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ do lãnh đạo VN chưa
quen với văn hoá nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là người quan trọng. Dù gì đi
nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn
ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời
công chúng.
Dĩ
nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh đạo VN, mà thỉnh
thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ vướng phải, người dân
biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng
túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói chung chung. Có người nghĩ nói chung
chung là nói “đa tầng”, nhưng thật ra đó chỉ là cách nguỵ biện thô thiển. VN
nói về hội nhập quốc tế, nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi
nghĩ các lãnh đạo VN sẽ rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh. Hội nhập
cũng cần phải hội nhập về ngôn ngữ và phong cách.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét