Nguyễn Trí Cảm
Hiện tượng Thiên
Chúa giáo và Tin lành tăng cường các hoạt động truyền giáo và cải
đạo tín đồ của các tôn giáo khác một cách cuồng động trên khắp thế
giới, đặc biệt là ở những quốc gia chậm phát triển, dân trí thấp, đưa đến một câu hỏi là: Thiên chúa giáo và Tin lành có còn
thuần túy chỉ là tôn giáo nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, hay đã
biến thể để trở thành một công cụ chính trị và kinh tài của các tập
đoàn tài phiệt và giáo phiệt dấu mặt?
Tổng Giám mục Nam Phi
Desmond Tutu từng nói:
“Khi họ đến chúng tôi có đất, họ có cuốn thánh kinh; khi chúng tôi mở
mắt ra, họ có đất còn chúng tôi có cuốn thánh kinh”. Dù kiên
cường cho rằng ông ta phát biểu với ngụ ý chỉ trích các thế lực thực dân
bóc lột, nhưng rõ ràng, nếu không có cuốn “thánh kinh” làm u muội đầu óc
người dân bản địa, thì không có chuyện “mất đất” một cách dễ dàng như
vậy, hoặc bằng cách chiêu dụ một số dân bản địa để cải đạo, làm tay sai,
tiếp tay mở đường cho ngoại bang xâm lược chính đất nước mình mà vẫn
mang ảo tưởng là thực thi công lý và hòa bình, vinh danh Thiên Chúa như
trong thời kỳ thực dân Pháp thôn tính Việt Nam qua câu phát biểu của
Giám mục Puginier: “Không có sự hỗ trợ của giáo dân Việt Nam, quân
Pháp như con cua bị bẻ gẫy hết càng, không có cách gì để có thể xâm
chiếm nổi Việt Nam”.
Ưu thế của nền
khoa học kỹ thuật tiến tiến.
Các nước phát triển
phương Tây thường là các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Từ nền tảng này, họ tạo được một nền kinh tế phát triển và quân sự mạnh,
tác động đến toàn cầu để bảo vệ lợi ích của quốc gia hoặc liên kết thành
từng khối có cùng lợi ích. Phần còn lại của thế giới là các quốc gia
nghèo, kém phát triển, khoa học, công nghệ lạc hậu nên phải chọn giãi
pháp “đi tắt đón đầu”, mua lại các máy móc, thiết bị phần nhiều là đã
qua sử dụng không còn đáp ứng được tiêu chí bảo vệ môi trường của họ để
sản xuất, và thường trở thành thị trường tiêu thụ hoặc làm đại công
trường gia công hoặc là nguồn cung cấp nguyên vật liệu thô cho các nước
giàu. Chỉ một vài quốc gia khá hơn là do biết tận dụng ưu thế về tài
nguyên thiên nhiên, làm du lịch, dịch vụ hay lợi dụng địa chính trị để
nhận viện trợ hay ưu đãi kinh tế, nhưng cũng khó có thể mạnh về quân sự
dù có tiềm lực tài chính, vì dù có tiền của bao nhiêu cũng không thể mua
được kỹ thuật, công nghệ “know-how” hay các loại trang thiết bị hay vũ
khí hiện đại bậc nhất của các nước mạnh vì đây là các “con át chủ bài”
để răn đe hay thiết lập một trật tự thế giới do họ áp đặt.
Sự phát triển khoa
học, công nghệ của các nước có cái nôi là Thiên chúa giáo phương Tây xem
ra tỷ lệ nghịch với sự phát triển của các tôn giáo độc thần, cụ thể hơn
là tôn giáo thờ Chúa trời vì những gì được viết ra trong “thánh kinh”,
được cho là những lời mặc khải không thể sai lầm của Chúa, là không còn
phù hợp với trí tuệ nhân loại ngày nay, vì hầu hết những gì liên quan
đến khoa học đều đã được chứng minh là sai từ cơ bản như nguồn gốc vũ
trụ, nguồn gốc loài người, các hiện tượng khoa học v.v..thay cho “quyền
phép vô cùng”. Ngày nay, ở một số quốc gia còn xem thánh kinh là dâm thư
nên cấm phổ biến hay truyền đạo như ở Đài loan và Campuchia, bị tịch thu
ở Trung quốc, và thậm chí chính phủ nước này không cấp hộ chiếu cho các
tu sĩ đi dự hội họp ở Vatican, còn ở Ấn độ thì nhà thờ bị đốt phá, giáo
dân bị giết tại nhiều bang, xem ra chính quyền Việt Nam “tôn trọng”
Vatican đến mức đáng ngạc nhiên như vụ “đòi đất” tòa Khâm sứ và giáo xứ
Thái hà. Cứ xem mấy vị chủ chăn ở Việt nam đi làm “mục vụ” ở nước ngoài
như đi chợ thì rõ, ra ngoài còn vu cáo nhà nước đàn áp giáo dân, chiếm
đất tôn giáo, kêu gọi ngoại bang can thiệp vào nội bộ Việt Nam, rồi lại
thỏa mái trở về bình yên vô sự!
Còn những phạm trù
về đạo đức hay luân lý trong thánh kinh thì còn phải xét lại, vì những
gì tôn giáo độc thần này đã chứng minh qua lịch sử bằng những hành vi
tàn bạo, dã man, tham lam và vô luân của mình như tòa án dị giáo, thánh
chiến, khủng bố, và vừa mới đây các nhà thờ phải bồi thường hơn hai tỷ
dollar cho các nạn nhân bị các linh mục, mục sư xâm hại tình dục. Vào
tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng John Paul II đã thống hối 7 núi tội lỗi mà
Giáo hội Thiên chúa giáo đã gây ra nhân loại. Người viết không trích dẫn
vì đã có quá nhiều thông tin trên các mạng truyền thông. Ngoài ra, đạo
đức, luân lý nói chung cũng chẳng phải là độc quyền của riêng gì đạo
Thiên chúa, nếu có, vì bất kỳ tôn giáo nào cũng xây dựng giáo lý của
mình trên những nền tảng đó, thậm chí Thiên chúa giáo có thể còn phải
“mượn” giáo lý của những tôn giáo ra đời trước mình, ví dụ như Phật
giáo. Phật giáo ra đời trước Thiên chúa giáo đến hơn 550 năm và có số
lượng Kinh, Luật, Luận đến thiên kinh vạn quyển! Tuy vậy, đạo Thiên chúa
nói chung, vẫn như “cỏ dại” chỉ đợi cơn mưa là lại mọc tràn lan khắp
nơi, rồi còn được lập thuyết lại như “thiết kế thông minh” để chứng minh
mọi thứ đều là sự sáng tạo của ..thượng đế, để biện minh, chống chế cho
những gì khoa học chứng minh là sai. Đơn giản chỉ vì không thể viết lại
“Thánh kinh”.
Sử dụng “tự do
tôn giáo” như một công cụ chính trị.
Các nước phương Tây thường chỉ trích các
quốc gia khác mà họ nhắm đến bằng cách sử dụng vấn đề tự do tôn giáo, áp
đặt quan điểm nhân quyền theo kiểu xã hội của họ. Tự do tôn giáo không
thể tách rời khỏi tiền đề của nó là nhân quyền, bởi nếu không có nhân
quyền thì không thể có các loại tự do khác. Họ lợi dụng vấn đề này như
một công cụ để gây áp lực với các nước mà họ muốn xâm nhập thị trường
hoặc gây ảnh hưởng chính trị. Nếu khi họ nhân danh đấu tranh cho nhân
quyền, dân chủ hay tự do tôn giáo thì gần như cộng đồng quốc tế hoặc
đồng tình hoặc không bày tỏ quan điểm chống lại những thứ quyền cơ bản
này của con người, trừ các nước “bị hại”, và người ta thường lý luận
rằng tự do tôn giáo là sự tự do thực hành tín ngưỡng cho tất cả mọi
người, không dành biệt đãi cho bất cứ một tôn giáo nào.
Ví dụ, họ từng lên án Trung Quốc, Miến
Điện và Việt Nam, và cho rằng tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ở đó
tồi tệ mà tôn giáo chính ở các nước này là Phật giáo chứ đâu phải là Tin
lành hay Thiên chúa giáo. Họ lợi dụng vấn đề “tự do tín ngưỡng, nhân
quyền” để ủng hộ các thành phần cơ hội, bất mãn trong nước mà đa phần là
các con chiên, đòi hỏi phải áp dụng khuôn mẫu dân chủ của họ trong một
xã hội có nền dân trí chưa sẵn sàng để đón nhận vả lại, cũng chẳng phải
là khuôn thước cho mọi dân tộc, bất kể sự khác biệt trong văn hóa và các
giá trị truyền thống của các quốc gia đó, dĩ nhiên điều này chỉ là cái
cớ vì họ thừa biết là không thể thực hiện được để gây áp lực.
Lợi dụng các tổ
chức
Tự thân Thiên chúa
giáo tuy không thể phát triển như đã từng làm mưa làm gió trong quá khứ,
đáng lý phải bị đào thải do sự tiến bộ của nhân loại nếu không có những
thế lực đứng đàng sau tài trợ và làm công tác ”tôn giáo vận” hà hơi tiếp
sức nuôi dưỡng. Ngày nay, chiêu thức súng đạn đi cùng giáo sĩ truyền
giáo không còn hợp thời nữa mà được tiến hành bằng những cách thức mới
tinh vi hơn, lợi dụng, làm mất đi tính khách quan của các tổ chức như
theo dõi, giám sát nhân quyền (HRW), Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Thế Giới
(USCIRF), gây sức ép với các nước họ nhắm đến, tạo dư luận và tìm cách
can thiệp vào nội bộ các quốc gia này...Để tăng cường sức ép, ví dụ như
chính phủ Hoa Kỳ, sẵn sàng sử dụng các công cụ “cây roi” như Quy chế
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), Chính sách cấm vận hay đưa vào
danh sách “Các nước cần quan tâm đặc biệt” (CPC) hoặc “củ cà rốt” như
Qui chế tối huệ quốc (MFN), gia nhập WTO, hay lập ra NED để tài trợ cho
nhóm người được phong là các “nhà dân chủ”, hoặc như các nước EU dùng
Chương trình ưu đãi thuế quan phổ quát (GSP) v.v..
Khi việc truyền đạo được nới lỏng thì với
kinh nghiệm tổ chức, tiềm năng tài chính, tính tích cực và chuyên nghiệp
của các nhà truyền giáo thì lần lần họ từng bước cải đạo người dân bản
địa dựa theo điều kiện thực tế. Họ còn có cả cuốn cẩm nang “Các Dân Tộc
trong Thế Giới Phật Giáo” (Peoples of the Buddhist World, Piquant
Editions, Carlisle, 2004) – do Paul Hattaway xuất bản nhằm cải đạo các
Phật tử và Allen Carr, Lanka Web viết bài điểm sách “Kế Hoạch Cho Ngày
Tàn Của Phật Giáo (Planning the Demise of Buddhism), có nghĩa là họ
nghiên cứu rất kỹ về tính cách của người theo đạo Phật, nhất là khai
thác tối đa yếu tố thụ động của các tu sĩ Phật giáo trong công cuộc
hoằng pháp. Sự tận tụy này không hẳn là vì “yêu mến” Chúa mà là vì những
động cơ trục lợi khác.
Muốn biết sức mạnh và hiệu quả của sách
lược này ta có thể nhìn vào Hàn quốc, một thời Phật giáo là quốc giáo,
nay Tin lành gần như thống lĩnh! Hoặc Mông Cổ đang báo động đỏ số lượng
Phật tử đang mất dần do chính sách cải đạo tích cực của các giáo sĩ
Thiên chúa giáo, hay xứ Phật Miến Điện, xem hình ảnh cứu trợ nạn nhân
của trận bão lịch sử Nargis tháng 5 -2008 vừa qua qua truyền hình, gần
như chỉ thấy chiếu toàn cảnh các em nhỏ mặc áo quần theo kiểu đồng tế
nhà thờ, xếp hàng cầm thập ác trên tay để nhận hàng cứu trợ ở các nhà
thờ dựng vội! Việc cải đạo được tiến hành một cách nhẹ nhàng bằng “cứu
trợ”, không như thời kỳ thực dân của những thế kỷ trước khi súng đạn và
cha, chúa cùng đồng hành..
Ngoài những
phương pháp quảng cáo tiếp thị chuyên nghiệp thuần túy khác, các nhà sản
xuất Tây phương có nhiều ưu thế trong lãnh vực sản xuất tiên tiến nên
chi phí sản xuất thấp, chất lượng hàng hóa tốt và rẽ hơn so với sản phẩm
của các nước kém phát triển, nhưng đắt đỏ hơn nhiều lần nếu là loại hàng
hóa mà các nước này không thể tự sản xuất được. Trong khi đó, máy móc
dùng sản xuất trong nước đa phần thường là đồ thải loại của các nước
phát triển, chưa hẳn là rẻ, mà họ xem như một loại rác công nghiệp, và
từ nạn tham nhũng, hám lợi được “lại quả” của các quan chức các nước
nghèo. Tuy nhiên, lợi thế này cũng không hoàn toàn bền vững bởi mỗi quốc
gia đều lập những hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế sự nhập khẩu để bảo hộ
hàng hóa sản xuất trong nước, ví dụ như Mỹ cấm cá basa Việt Nam mang
tên…catfish! cấm nhập tôm Việt Nam vì có chất kháng sinh
fluoroquinolones hay chloramphenicol gì đó, tuy không phải là không có,
nhưng hàm lượng các chất này chưa đến mức gây nguy hiểm cho người tiêu
dùng, chỉ vì họ không thể cạnh tranh được về giá và chất lượng của thủy
hải sản với người dân đồng bằng sông Cửu Long, rồi vấn đề “dân chủ,
nhân quyền và tự do tôn giáo” lại có cơ hội được đề cập đến, cái vòng
luẩn quẩn này sẽ lập lại, các biện pháp gây sức ép được gỡ bỏ nay lại
được kiếm cớ mang ra áp dụng.
Sử dụng “tự do
tôn giáo” như một công cụ kinh doanh.
Vâng phục là một trong những yếu tố cơ
bản làm cho đạo Thiên chúa còn có thể tồn tại, con chiên phải tuyệt đối
vâng lời những điều được dạy bảo, lợi dụng sự vâng phục và đức tin tôn
giáo để gây ảnh hưởng lên một sản phẩm không phải là một điều khó với
các vị chủ chăn. Khi chủ chăn yêu cầu con chiên không được đọc cuốn tiểu
thuyết hay xem phim “Mật mã Da Vincy” thì yêu cầu “tẩy chay” này được
đáp ứng ngay, hay một ví dụ thực tế khác, trong vụ việc “đòi đất” tòa
khâm sứ hay giáo xứ Thái hà ở Việt Nam, các chủ chăn yêu cầu con chiên
không được tiếp xúc hay trả lời người lạ, và chỉ được tiếp nhận thông
tin, tài liệu do nhà thờ cung cấp thì yêu cầu này được tuân theo một
cách nghiêm túc. Nếu giả sử như đại đa số người tiêu dùng trên khắp thế
giới là con chiên ngoan đạo của Vatican hay của Tin Lành mà các ông linh
mục hay mục sư phán rằng “các con không được sử dụng bao OK, vì Chúa đã
phán: “ Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đầy đàn nhiều như sao trên
trời như cát dưới biển (Verse 16)”, bất chấp đại dịch AIDS hay
nạn nhân mãn và nạn đói, thì bảo đảm các nhà sản xuất bao an toàn chắc
chắn phải “sập tiệm”, hay hình dung nếu như Vatican hay các hội thánh
Tin lành tổ chức sản xuất hay kinh doanh một cách công khai hay ngầm
khuyến khích con chiên sử dụng một sản phẩm nào đó thì chắc chắn công ty
sản suất sản phẩm đó sẽ “thắng lớn” vì đối thủ khó có thể cạnh tranh.
Các ông “trùm” sẽ không tiếc tiền, tiếc của để đóng góp cho nhà thờ
những khoản kếch xù để “trả công”!
Nam Hàn là một ví dụ. Tổng thống Lee
Myung-Bak của Hàn Quốc, một tín đồ ngoan đạo, ông ta thực hiện chuyến
công du ra nước ngoài đầu tiên sau khi nhậm chức là đến trại David diện
kiến Tổng thống George W. Bush vào tháng 4 năm 2008 cùng thời điểm Giáo
hoàng Benedicto XVI qua Mỹ, không thấy báo chí đề cập đến sự trùng hợp
có vẻ như ngẫu nhiên này, và sau đó ông Tổng thống Lee dỡ bỏ lệnh nhập
thịt bò Mỹ vào tháng 6-2008, sau năm năm bị vị tổng thống tiền nhiệm cấm
nhập khẩu vì nghi ngại thịt bò điên, đã gây ra các cuộc biểu tình chống
đối rầm rộ khắp Hàn quốc.
Ảnh hưởng của tôn giáo đối với lãnh vực
“lợi nhuận” quan trọng đến nỗi cuộc chiến tranh dành “thị phần tôn giáo”
giữa Tin Lành và Thiên Chúa giáo La Mã ở khắp nơi trên thế giới quyết
liệt đến mức Giáo hoàng John Paul II phải than thở, ví von Tin Lành như
đám chó sói đói mồi “sực” hết con chiên của ông ta! Vì mất “con chiên”
là mất “thị phần..
Trong lịch sử nước nhà, Việt Nam có rất
nhiều kinh nghiệm đối phó vì từng là nạn nhân của các thế lực thực dân,
đế quốc phương Tây nên rất cảnh giác trong các mối quan hệ với các nước
thường sử dụng chiêu bài “tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ” để gây áp
lực. Nhưng nay, châu Á lại là nơi xuất phát việc truyền đạo thông qua
các nước chịu lệ thuộc sâu đậm của người Mỹ trong kinh tế, chính trị và
cả tôn giáo. Điển hình là Hàn Quốc, những hiện tượng phổ biến tại Việt
nam hiện nay trong hầu hết các lãnh vực: thời trang, phim ảnh, lối sống,
thậm chí nhiều fan trẻ khóc lóc vì sung sướng gặp được ca sĩ thần tượng
Bi Rain hoặc sang Hàn lao động hay lấy chồng Hàn (vì trong phim thấy
cuộc sống ở xứ Hàn quá lý tưởng, và còn vì nghèo, ít chữ) và.. theo đạo
Tin Lành như một cái mode. Mấy vị mục sư da vàng xứ “củ sâm” đang thay
dần màu da cho mục sư da trắng.
Như vậy thì đã rõ, tôn giáo của giới tư
bản cầm quyền khác với niềm tin hay sự thờ phụng tôn giáo còn mông muội
của đại đa số quần chúng. Đối với giới tài phiệt thì tôn giáo là một
công cụ chính trị, một phương tiện tạo ra của cải vật chất và quyền lực,
đối với đám chủ chăn thì là sự ngưỡng phục, tung hô của quần chúng tín
đồ, kiểu con chiên tự hạ liệt phẩm cách của mình như: “lạy cha, cho phép
con được lạy cha ạ!” hoặc cho phép con chiên hôn nhẫn, hôn chân, hạnh
phúc như chạm được vào ngưỡng cửa thiên đường (họ tin mấy vị này sẽ lên
“thiên đường” sau khi chết), và các ông trùm chủ chăn chỉ cần trình diễn
một bộ mặt đạo đức trước công chúng nhưng những sinh hoạt đàng sau chiếc
áo dòng thì lại là chuyện khác.
Tôn giáo tương lai.
Chừng nào con người còn bám víu lấy cái
bánh vẽ “thiên đường”, không tự mình thắp đuốc mà đi, thì nhu cầu có một
đấng siêu nhiên cứu độ vẫn tồn tại và tôn giáo độc thần này vẫn còn bị
các nhóm có cùng lợi ích lợi dụng, các ông trùm tài phiệt sẽ phân bổ lợi
nhuận lại cho các tổ chức đội lốt tôn giáo như một cách chia sẻ. Công
khai như “ từ thiện” hoặc “đóng góp”, rồi từ nguồn tài trợ này để lại mở
rộng “nước Chúa”, lợi nhuận thu được từ các nước “nạn nhân” như quả bóng
tuyết lăn xuống chân đồi tuyết, càng lúc càng lớn dần.
Nếu xem Thiên chúa giáo hay Tin lành đơn
thuần như một tôn giáo, ta có thể suy gẫm một đoạn thư của nhà bác học
Albert Einstein gửi triết gia Eric Gutkind vào tháng Giêng năm 1954, một
năm trước khi ông qua đời. Ông viết rằng: “Đối với tôi, từ “Chúa”
không là gì cả ngoài sự diễn đạt, và là sản phẩm của sự yếu đuối của con
người, còn Kinh Thánh thì chỉ là một tập hợp những truyền thuyết đáng
kính nhưng hoang sơ cho nên khá trẻ con”. (1)
Hay nhận xét của ông về tôn giáo: “Phật
Giáo có những đặc trưng của một tôn giáo mang tính toàn cầu trong tương
lai mà mọi người mong đợi. Nó vượt xa hơn giới hạn của việc thờ cúng cá
nhân một vị thần hay thánh, và tránh được chủ nghĩa giáo điều hay thần
học; nó bao hàm cả lãnh vực tự nhiên và siêu nhiên, và nó dựa trên một
cảm nhận về tâm linh xuất phát từ kinh nghiệm tiếp xúc với mọi vật, dù
mang tính tự nhiên hay siêu nhiên, như một tổng thể có ý nghĩa. Nếu có
được một tôn giáo nào có khả năng đáp ứng được những nhu cầu của khoa
học hiện đại, thì đó chính là Phật Giáo.” (2).
Và đúng như nhận định của ông, hình ảnh
của Thiên chúa giáo nói chung, đang dần được dung tục hóa qua học thuật,
báo chí, phim ảnh, tranh biếm họa và các phương tiện truyền thông đại
chúng khác ngay tại các nước phương Tây.
Kết luận
Như vậy, Thiên chúa giáo và Tin lành đang
được nuôi dưỡng, lợi dụng thay vì đã phải bị “đào thải” theo sự tiến bộ
của nhân loại, nay được sử dụng như một công cụ để mở rộng thị trường
cũng như công cụ chính trị, tạo sự bất ổn xã hội của các quốc gia khác
nhằm can thiệp, trục lợi. Ta hãy hình dung việc cầu nguyện đòi đất ở tòa
Khâm xứ và giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội thì rõ, nếu như tỷ lệ phần trăm số
giáo dân tại Việt Nam là 30 hay 40 % như Hàn Quốc thì diễn biến vụ việc
“đòi đất” sẽ ra sao? Chỉ mới trên dưới 6-7% mà đã gây xáo trộn xã hội,
dám miệt thị cả dân tộc như trường hợp của ông TGM Ngô Quang Kiệt, và
cần bao nhiêu phần trăm để chuyển từ chế độ “vô thần phi Ki tô” sang
“hữu thần Ki tô” ?
Dân tộc nào cứ bị ám ảnh bởi sự giàu có
vật chất, sức ép “nhân quyền, tự do tôn giáo”, mơ tưởng mô hình dân chủ
phương Tây, mơ hồ xem Thiên chúa giáo hay Tin Lành đơn thuần chỉ là tôn
giáo, mặc sức cho nó phát triển tự do vì nghĩ rằng ta có khả năng đặt
chúng trong tầm kiểm soát. Nếu xem chúng đơn thuần chỉ là tôn giáo hay
thậm chí ý thức được chúng là công cụ chính trị thì cả hai đều không ích
lợi gì cho dân trí và sự ổn định của đất nước nói riêng, loài người nói
chung, và đến lúc nào đó e rằng mọi người chỉ còn gọi nhau bằng cái tên
như Paul, Giuse, Abraham, Phero hay Maria trước cái tên “cúng cơm” của
mình mà thôi!
SG. 10/2008
Nguyễn Trí Cảm
(1) The letter was written to philosopher
Eric Gutkind in January 1954, a year before Einstein's death. In it,
Einstein said that "the word God is for me nothing more than the
expression and product of human weaknesses, the Bible is a collection of
honorable but still primitive legends which are nevertheless pretty
childish."
(2) Sự
xuất hiện của Phật giáo ở phương Tây nhằm đáp ứng cho những khủng hoảng
môi trường và xã hội - R. Clark - Đại học Stanford, California, Hoa Kỳ
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét