Nhưng né tránh, câu chuyện sẽ còn âm ỷ khôn nguôi, dù thế giới đã sang thế kỷ 21. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, nên bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai. Đó là một trong những chìa khóa cho phát triển đất nước.
Dư chấn thời thơ ấu kéo dài 60 năm chưa dứt
Nếu nói rằng tôi nhớ cuộc đấu tố địa chủ làng khi 3-4 tuổi có lẽ bạn đọc không tin, nhưng tôi từng tham dự và nhớ thật. Chẳng hiểu vì lý do gì mà mẹ tôi cho mấy chị em đi xem đấu địa chủ trên bãi đất rộng toàn cỏ gà, hồi đó là bãi tha ma, trước đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành ở xã Trường Yên (Hoa Lư, Ninh Bình).
Người xem đông nghịt, tôi nhớ cảnh người “địa chủ cường hào gian ác” bị trói chặt hai tay ra phía sau (giật cánh khuỷu?), quỳ dưới một ô đất 1mx1m đào sâu khoảng vài gang tay. Các bà đứng trên và chỉ tay vào mặt “Mày nhá, ngày xưa mày bóc lột tao, mày cướp đất nhà tao, mày hiếp tao…”. Người quì dưới cúi gằm mặt xuống đất. Cứ thế lần lượt hàng chục người lên xỉa xói.
Nội ngoại nhà tôi đều suýt làm…địa chủ. Ông ngoại từng đi lính đánh thuê cho Pháp, sang tận châu Phi mấy năm. Tiếc là ông đã mất, nếu không, tôi có một nguồn tư liệu quí về một thời toàn cầu hóa của nông dân Ninh Bình. Ông có hai vợ, nhà trên, nhà dưới, nhưng không hiểu sao tránh được địa chủ.
Ông nội từng làm Chánh tổng xã Trường Yên những cuối năm 1930, cũng thuộc hàng giầu có vì ông biết làm ăn, chỉ cho con cái đường đi nước bước. Cha tôi và mấy chú bác đi bộ sang Lào buôn bán từ tuổi thanh niên. Ông có hàng chục ngôi nhà ngói, nhưng Pháp càn đầu những năm 1940 và đốt hết. Vật dụng duy nhất còn lại là cái tràng kỷ bằng gỗ lim không cháy nổi. Hiện người con của bác họ vẫn dùng.
Có lẽ vì thế mà sau cách mạng, với mái nhà ngói bốn gian, và như một sự kỳ diệu, ông bà tôi chỉ bị tố là thành phần trung nông, vì ruộng vườn, nhà cửa chưa đủ ngưỡng địa chủ.
Hình như trước đó ông nội cho bớt nhà cửa cho người khác nên tránh được cuộc cải cách, hoặc do làng tôi làm không dứt điểm “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Tôi nhớ cái nhà sau chính là của ông bà tôi, nhưng người khác đã ở. Sau này lớn lên, tôi cũng không hỏi nữa, vì mỗi lần nhắc đến nhà cửa ruộng vườn, ông nội hay nổi đóa.
Lần đó đi xem đấu địa chủ về, mẹ tôi lại cho các con về thăm ông. Hình như ông tôi gọi mẹ tôi vào trong nhà, vụt cho mấy cái batoong đau lắm. Mẹ tôi giận ông nội mấy năm trời, mãi mới thôi. Có lẽ ông căm thù chuyện đấu tố vì ông bà suýt dính, và không muốn con trẻ dính vào giết chóc, hoặc muốn tuổi thơ được sống trong yên lành. Thời đó ông nội có chữ nhất nhì trong Tổng Trường Yên.
Lũ trẻ thuộc lòng và bắt chước đấu địa chủ vào giờ ra chơi ở trường, khi đi chăn trâu, hoặc ở sân làng. Làm súng trường bằng tầu chuối và bắn bằng mồm “bằng bằng”, bắt “tên địa chủ” là một cậu đồng niên nằm vật ra, nhắm mắt lại, rồi khiêng đi chôn. Dù chưa bao giờ thấy bắn địa chủ như thế nào, chôn người chết ra sao, nhưng ký ức tuổi thơ “đấu cường hào” không bao giờ quên, dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua.
Viết mấy dòng để nói rằng, những gia đình có người thân bị quì dưới đất, bị trói, bị xỉ nhục, bị vu oan và giết oan, họ đã sống như thế nào mới qua những ngày đen tối.
Những thế hệ tài năng bị ruồng bỏ
Người tố giác, người thi hành án tử “kẻ thù của giai cấp” hầu hết đã về với ông bà tổ tiên. Nhưng hệ lụy để lại về lý lịch cho con cháu vô cùng khủng khiếp, đã làm hại nhiều tài năng và tinh hoa của đất nước.
Địa chủ ở làng quê là ai? Có phải tất cả đều độc ác hay không? Có người độc ác, có kẻ giết người, nhưng không phải tất cả. Cùng mảnh ruộng, người biết làm ăn, tính toán thì có của ăn của để. Nhưng người không biết phải chịu đói khát, đành đi làm thuê. Nhưng sau cách mạng, người giỏi hơn thành địa chủ, người kém hơn lên làm chủ, và kết quả thế nào, chẳng cần bàn cãi.
Giầu nghèo trong xã hội nào chả có, sự bất bình đẳng về thu nhập là câu chuyện của ngàn đời và sẽ còn mãi. Người tài năng, có hiểu biết sẽ giầu có hơn người ít kiến thức. Ở nông thôn, “địa chủ” đôi khi là tinh hoa của nền nông nghiệp. Tàn sát lớp người này đã thui chột nền nông nghiệp.
Nếu cha mẹ, ông bà đã chịu tội dù có oan uổng thì ra một nhẽ. Nhưng kiểu quản lý nửa cách mạng, nửa phong kiến “tru di tam tộc”, con cháu của lớp người bị cho là có tội không thể ngóc đầu lên được.
Hè vừa rồi tôi gặp vài người thuộc dòng họ nhà sách Mai Lĩnh nổi tiếng ở Hải Phòng đến DC chơi. Nói chuyện với khách mới biết nhà sách này từng rất giầu có và nổi tiếng vùng Bắc Bộ. Mai Lĩnh là tên ghép của làng Xuân Mai và núi Lĩnh ở Phúc Yên, thuộc dòng họ Đỗ Phúc Lương.
Cụ Đỗ Văn Phong sinh bẩy người con trai, sáu người làm kinh doanh khắp Nam Bắc thời đó. Người con thứ tư là ông Đỗ Như Phượng ở lại quê trông nom gia đình và có một người con là Đỗ Như Lân. Vì ở quê gọi tên cha mẹ theo con trai trưởng và ông Phong là thứ 4 nên gọi là ông Tư Lân.
Là một người hiền từ, biết làm ăn, được dân làng quí mến. Những năm 1939-1945, làng quê nghèo khổ chưa từng có, thấy ông làm ăn phát đạt vì biết qui hoạch ruộng vườn, cả làng nhờ ông Tư giúp đỡ, có người xin làm con nuôi ông cho khỏi bị chết đói, hoặc giúp cho công ăn việc làm.
Nạn đói 1945, chính ông Tư là người mở kho thóc nhà mình để phát chẩn cho dân nghèo, dùng tiền mua thuốc cứu giúp người bệnh. Trang trại Mai Lĩnh từng là cơ sở giúp cho cách mạng như ép dầu, cất tinh dầu giun, mua rượu cồn, vận chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Quân Pháp từng đốt phá tan hoang cơ nhà Mai Lĩnh.
Nhưng cuộc bể dâu Cải cách ruộng đất đã đẩy ông Lân xuống bùn đen. Từ một người lương thiện, hết lòng vì dân làng, đóng góp cho cách mạng, nhưng sau một đêm ông Tư Lân biến thành kẻ thù giai cấp vì đã quá giầu. Có lẽ làng Phúc Yên ngày ấy vẫn còn nhớ hình ảnh những nhân chứng mà ông Tư từng cưu mang đã buộc tội chính ông. Bị tịch thu toàn bộ gia sản, ông bị 15 năm tù đầy. Vợ con bị đẩy ra rìa làng.
Ông đã bị hành hạ về thể xác và tinh thần, cuối cùng đã chết trong tù năm 1955. Nhà sách Mai Lĩnh từ gia đình nổi tiếng ở Phúc Yên cuối cùng cũng bị xóa sổ sau cách mạng.
Con cháu phiêu bạt khắp nơi. Chị Lương (chị tên là Hiền Lương vì ông bố có thói quen đặt tên các con theo địa danh các tỉnh) ở Hải Phòng cưới anh Tâm cũng con nhà tư sản. Họ học rất giỏi nhưng cuối cùng không được vào đại học chỉ vì lý lịch, cho dù đã sửa sai, nhưng tiếng xấu để lại không ai gột rửa. Nhân chuyện vượt biên những năm 1980 ở miền Bắc, anh chị rủ nhau đi tìm bến bờ khác.
Hiện họ sống ở Canada. Hôm gặp ở Washington DC, anh Tâm chị Lương nhắc mãi Blog Hiệu Minh. Người chị gái của chị Lương cũng vừa tới thăm DC với con gái hiện đang ở bên Anh. Vướng chuyện lý lịch, họ phải bươn chải suốt cuộc đời, bây giờ mới tạm ổn.
Mấy lời cuối
Viết những chuyện như trên có lẽ phải cần hàng ngàn cuốn sách. Cuộc chiến thời Pháp, Nhật, Mỹ và sau này với Trung Quốc đã khiến máu chảy thành sông ở mảnh đất nhỏ bé này. Nhưng máu do chính người Việt tạo ra cũng không ít.
Thời thực dân, luật pháp nằm trong tay kẻ mạnh, sưu cao thuế nặng ở quê, tội ác để lại không nhỏ. Vì thế khi cách mạng nổ ra, hàng chục triệu người đi theo với niềm tin “Công bằng, bác ái, và dân chủ, người cày có ruộng”, khỏi phải bàn cãi về vai trò của ĐCS. Tuy nhiên những gì họ xử lý sau chiến thắng lẫy lừng mới là điều cần bàn.
Sau 1954 là thế, nhưng sau 1975, Cải tạo công thương nghiệp cũng xóa đi một thế hệ tinh hoa biết làm ăn, và hệ lụy rất lớn về lý lịch để lại cho con cháu. Hàng triệu người bỏ tổ quốc ra đi. Nhiều người thành đạt nơi xứ người nhưng không thể đóng góp cho quê hương vì nhiều lẽ mà trong đó dư chấn của Cải cách ruộng đất mà họ cho là một trong những điều mất mát lớn.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội vừa khai trương hôm 8/9 triển lãm “Cải cách ruộng đất 1946-1957″ với mục đích “giúp công chúng tiếp cận với những tài liệu, hiện vật gốc và có cách nhìn thực tiễn, khoa học, khách quan về cuộc vận động cách mạng ruộng đất trong tiến trình lịch sử dân tộc”. Rất có thể triển lãm còn sơ sài, nhưng dầu sao, xã hội đã cởi mở và được quyền nói về những chuyện trong quá khứ.
Những bài học cải cách ruộng đất áp dụng một cách mù quáng từ Trung Quốc và Liên Xô bị trả giá bằng xương máu dân tộc này. Phải chấm dứt sự phụ thuộc vào ngoại bang kể cả ý thức hệ. Sự dốt nát không thể kéo qua hai thế kỷ.
Triển lãm cũng là sự mở đầu cho sự kết thúc một trang sử bi tráng, đầy máu và nước mắt. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, cần bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai.
Đã đến lúc đất nước phải thay đổi, lãnh đạo phải thay đổi và mỗi chúng ta phải thay đổi. Sự mù quáng về ý thức hệ sẽ đưa đến một cuộc cải cách khác, máu đổ và thiệt hại mang tầm quốc gia, đau đớn kéo dài hàng thế kỷ, mà một cậu bé 3-4 tuổi ở Trường Yên nhớ hằn sâu trong trí óc tuổi thơ dù đã sau 60 năm.
Hiệu Minh. 9-9-2014.
Trích từ Wiki
- Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình cảnh oan sai trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội:” Qua cuộc Cải cách ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. […] Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được
- Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn nhận: Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét