link: http://hovuvovietnam.com/Ngoi-thien-cung-Tuong-Giap_tc_304_311_923.html
Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2015
PHẬT GIÁO VÀ GIÁO HOÀNG
19:07
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trần Văn Kha
Giáo Hoàng J.P. II có cho phát hành một cuốn
sách mang tên Crossing the Threshold of Hope
(Vượt qua ngưỡng cửa của hy vọng), trong đó có
một chương nói về Phật giáo. Chương này là để
trả lời các câu hỏi của Vittorio Messori, một
nhà văn Ý. Sau đây là những đoạn trích các câu
trả lời do chính Đức Giáo Hoàng viết ra, và đã
được tiến sĩ Joaquin Navarro, trưởng phòng báo
chí của Đức Giáo Hoàng mang đến tận nhà trao cho
Vittorio vào tháng 4/1994. Cũng xin lưu ý là các
câu hỏi này đã được viết ra, đưa trước cho Tòa
Thánh, nhân dịp họp báo kỷ niệm 15 năm giữ chức
vụ Giáo Hoàng dự trù vào tháng 10/1993, nhưng
cuộc họp báo đã bị hủy bỏ.
(Xin trích) :
I. Đức Phật
« Vâng, ông đã đúng và tôi xin cảm ơn ông về câu
hỏi đó. Trong những tôn giáo được kể ra trong
tài liệu Nostra Aetate của Cộng Đồng
Vatican, thì chú ý đặc biệt tới Phật giáo là một
điều cần thiết, vì Phật giáo trên một quan điểm
nào đó, cũng như đạo Kitô, là một tôn giáo giải
thoát. Tuy nhiên, cần nên nói ngay rằng học
thuyết giải thoát của Phật giáo và Kitô Giáo đối
nghịch nhau. »
(Yes, you are right and I am grateful to you for
this question. Among the religions mentioned in
the Council document Nostra Aetate, it is
necessary to pay special attention to
Buddhism, which from a certain point of
view, like Christianity, is a religion of
salvation. Nevertheless, it needs to be said
right away that the doctrines of salvation in
Buddhism and Christianity are opposed.)
II. Giải thoát
“Học thuyết về Giải Thoát
của Phật giáo là điểm chính, hay đúng hơn là
điểm duy nhất của tôn giáo đó. Tuy nhiên, cả
truyền thống Phật giáo lẫn những phương pháp từ
nguồn gốc đó đều là sự giải thoát hoàn toàn
tiêu cực.
Sự Giác Ngộ mà Đức Phật kinh nghiệm được
chỉ là tin tưởng rằng đời là xấu, đời là nguồn
gốc của tội lỗi và khổ đau. Muốn giải thoát khỏi
khổ đau đó, ta phải thoát ra khỏi cuộc đời,
nghĩa là phải cắt đứt những liên hệ trói buộc ta
vào thực tại bên ngoài - những ràng buộc có sẵn
trong con người, trong tâm linh, và trong thân
thể. Càng thoát được ra khỏi những ràng buộc đó,
càng trở nên vô tư với những gì ở cuộc đời, thì
càng thoát khỏi khổ đau, khỏi tội lỗi mà cuộc
đời là nguồn gốc.
Chúng ta có thể tới gần Thượng Đế bằng cách này
không? Điều này không thấy nói gì tới trong sự
Giác Ngộ mà Đức Phật rao giảng. Phật giáo
phần lớn là một hệ thống Vô Thần. Chúng
ta không giải thoát khỏi tội lỗi bằng những điều
Lành tới từ Thượng Đế; Chúng ta tự giải thoát
bằng cách xa lánh cuộc đời, vì cuộc đời là xấu.
Sự xa lánh hoàn toàn không dẫn tới kết hợp với
Thượng Đế, mà là với cái gọi là Niết Bàn,
một trạng thái hoàn toàn vô tư với cuộc đời.
Tự giải thoát có nghĩa là, trên hết, ta phải
giải thoát ta ra khỏi khổ đau bằng cách trở nên
vô tư với cuộc đời, vì nó là nguồn gốc của
khổ đau. Đó là điểm tối hậu của tiến trình
tâm linh.”
(The Buddhist doctrine of salvation
constitutes the central point, or rather the
only point, of this system. Nevertheless, both
the Buddhist tradition and the methods deriving
from it have an almost exclusively negative
soteriology.
The enlightenment experienced by Buddha
comes down to the conviction that the world is
bad, that it is the source of evil and of
suffering for man. To liberate oneself from this
evil, one must free oneself this world,
necessitating a break with the ties that join us
to external reality – ties existing in our human
nature, in our psyche, in our bodies. The more
we are liberated form these ties, the more we
become indifferent to what is in the world, and
the more we are freed from suffering, from the
evil that has its source in the world.
Do we draw near to God in this way? This is not
mentioned in the enlightenment conveyed
by Buddha. Buddhism is in large measure an
atheistic system. We do not free ourselves
from evil through the good which comes from God;
we liberate ourselves only through detachment
from the world, which is bad. The fullness of
such a detachment is not union with God, but
what is called nirvana, a state of
perfect indifference with regard to the world.
To save oneself means, above all, to free
oneself from evil by becoming indifferent to
the world, which is the source of evil. This
is the culmination of the spiritual process.)
III. Tiêu cực
“Sự thần bí Kitô trong mọi thời đại cho đến bây
giờ - kể cả sự thần bí của những nhân vật tài ba
rất hoạt động như Vincent de Paul, John Bosco,
Maximilian Kolbe - đã xây dựng và tiếp tục xây
dựng những yếu tố quan trọng nhất của đạo Ky-tô.
Nó cũng xây dựng Giáo Hội như là một cộng đồng
của đức tin, hy vọng, và bác ái. Nó đã xây dựng
văn minh, đặc biệt là Văn Minh Âu Châu.
Nền văn minh này được đặc biệt đánh dấu bởi việc
tìm hiểu cuộc đời một cách tích cực, và
đã phát triển nhờ có thành quả của khoa học và
kỹ thuật, hai ngành học thuật có gốc rễ ở truyền
thống Triết Học cổ ở Hy lạp và sự Khải Thị của
Do Thái Ky-tô. Sự thật về Thượng Đế Sáng Tạo thế
giới, và Chúa Giêsu Cứu Rỗi, là một năng lực rất
mạnh gây ra thái độ tích cực về sáng tạo và cung
cấp nỗ lực thường xuyên để tìm cách thay đổi và
hoàn thiện thế giới.
Cộng Đồng 2 Vatican đã rõ ràng xác nhận sự thật
này. Truyền bá một thái độ Tiêu Cực về
cuộc đời, vì tin rằng đời là nguồn gốc duy nhất
của sự đau khổ của con người và vì thế con người
phải cắt đứt với cuộc đời, là tiêu cực không
những vì điều này là đơn phương mà cũng vì nó
trái ngược với sự phát triển của con người và xã
hội, mà trách nhiệm này đã được Đấng Sáng Tạo
trao cho con người.”
(Christian mysticism in every age up to our own
– including the mysticism of marvelous men of
action like Vincent de Paul, John Bosco,
Maximilian Kolbe – has built up and continues to
build up Christianity in its most essential
element. It also builds up the Church as a
community of faith, hope, and charity. It build
up civilization, particulary “Western
civilization”, which is marked by a positive
approach to the world, and which developed
thanks to the achievements of science and
technology, two branches of knowledge rooted
both in the ancient Greek philosophical
tradition and in Judeo-Christian Revelation. The
truth about God the Creator of the world and
about Christ the Redeemer is a powerful force
which inspires a positive attitude toward
creation and provides a constant impetus to
strive for its transformation and perfection.
The Second Vatican Council has amply confirmed
this truth. To indulge in a negative attitude
toward the world, in the conviction that it is
only a source of suffering for man and that he
therefore must break away from it, is negative
ont only because it is unilateral but also
because it is fundamentally contrary to the
development of both man himself and the world,
which the Creator has given and entrusted to man
as his task.)
IV. Cảnh giác
“Vì lý do đó, không phải là không thích hợp để
cảnh giác những người Thiên Chúa Giáo đang nhiệt
tình đón nhận một vài quan niệm xuất phát từ
những truyền thống tôn giáo của miền Viễn Đông -
tỉ dụ như sự thực hành những kỹ thuật và phương
pháp tập thiền và tu khổ hạnh.”
(For this reason it is not inappropriate to
caution those Christlans who enthusiastically
welcome certain ideas originating in the
religious traditions of the Far East - for
example, techniques and methods of meditation
and ascetical practice.) “
(Hết trích dẫn nguyên văn các câu trả lời)
* * *
NHẬN ĐỊNH.
I.
ĐỐI NGHỊCH: “Học thuyết giải thoát của Phật giáo
và Kitô Giáo đối nghịch nhau.”
Đối nghịch thứ nhất
Cùng một mục tiêu, nhưng có nhiều đường lối để
thực hiện mục tiêu đó. Và càng có nhiều đường
lối thì càng tốt, vì mỗi một đường lối có thể
hợp với người này, mà không hợp với người khác.
Để nuôi sống thân thể, thì cơm gạo là chính đối
với dân Á Châu, trong đó có Việt Nam. Nhưng
người Âu Châu thì ăn bánh mì. Tôn giáo cũng vậy,
có thứ hợp với Dân Tộc này, nhưng không với Dân
Tộc khác.
a. Đức Phật cho rằng, Đời là khổ, Sinh Lão Bệnh
Tử là khổ. Muốn thoát khổ, phải tu để trở hành
Phật. Đức Phật có nói “Ta là Phật đã thành.
Chúng sinh là Phật sẽ thành”. Nghĩa là ai cũng
có Phật tính cả. Nhưng chỉ vì Tâm động, lại
hướng ra ngoài, nên ta không tìm ra được bản
chất Phật có sẵn trong mỗi người. Đức Phật có
nói:
“Trăng vẫn chiếu sáng trên mặt hồ. Nhưng ta
không nhìn thấy Trăng phản chiếu dưới đáy hồ, vì
mặt hồ dỡn sóng. Khi nào mặt hồ không có sóng,
thì sẽ nhìn thấy Trăng dưới hồ.”
Trăng dưới đáy hồ là bản chất thực của con
người, đó là Tâm Phật. Nhưng chỉ khi nào Tâm
hoàn toàn tĩnh lặng thì mới tìm thấy Tâm Phật.
Nhưng làm thế nào để thấy Tâm không động là vấn
đề sẽ được trình bày ở đoạn chót.
b. Giáo Hoàng thì lại cho rằng phương pháp tu
của Phật giáo không làm cho người tu tới gần
Thượng Đế. Người đặt ra câu hỏi “Chúng ta có thể
tới gần Thượng Đế bằng cách đó chăng?” (Do we
draw near God in this way?). Vậy người theo đạo
Gia-tô tới gần Thượng Đế bằng cách nào? Bằng
cách làm lễ rửa tội, rẫy nước Thánh, khi chết
hay vào lúc sắp chết, và như thế là người chết
sẽ được về nước Chúa. Nhưng người chết có thực
sự được về nước Chúa hay không, chúng tôi chỉ
xin đưa ra những ý kiến của người Âu Châu:
- William L. Shirer tác giả quyển Gandhi, A
Memoir, và The Rise and Fall of the Third
Reich được giải thưởng Pulitzer.
“Tất cả mọi tôn giáo đều có quá nhiều huyền
thoại mà các ông thầy tu và các tín đồ tin tưởng
không suy nghĩ, những huyền thoại này đều đã bị
bóp méo bởi bàn tay con người, mà một số là phù
thủy, và bởi những đền đài hay nhà thờ, nên tôi
không thể tin để đặt đời tôi vào đó. Nhưng tôi
biết ơn Gandhi vì đã mở rộng tâm tôi tới những
cái đẹp, cái khôn ngoan, và đặc biệt là cái chất
thơ và triết lý của kinh sách Ấn Độ và Phật
giáo, và trên một phạm vi ít hơn, tới kinh
Koran, và làm cho tôi hiểu sâu xa hơn đạo
Gia-tô, mà Gandhi đã từng nói với tôi.
“Sau kinh nghiệm đó, tôi không bao giờ còn là
một người Gia-tô thuần thành, tin rằng sự cứu
rỗi chỉ dành cho những người chạy theo đạo này
mà thôi. Nếu có một Thiên Đàng, thì nó phải mở
ra cho người theo Ấn Độ Giáo, Phật giáo, Hồi
Giáo và những người theo đạo khác, những người
này nhiều hơn gấp bội những người theo đạo
Gia-tô. Tôi cũng không còn có thể tin được rằng
Thượng Đế Gia-tô là một, một độc nhất, như tôi
đã được dạy từ lúc nhỏ. Có những Thượng Đế khác
của những tôn giáo khác, cũng chính đáng như
thế.”
(W.L. Shirer, Gandhi, A Memoir, trang 245-46).
Theo Kinh Thánh những người không tin Chúa phải
sa Hỏa Ngục, mà những người này, theo lời của
Wiliam L. Shirer, nhiều hơn gấp bội những người
theo đạo Gia-tô. Như thế là quỷ Satan có nhiều
tín đồ hơn Chúa Giêsu? Giáo điều này làm cho rất
nhiều người thắc mắc.
Sau đây là một số ý kiến của người Mỹ về việc
này, nhân vụ Jeffrey Dahmer bị giết chết ở trong
tù. Dahmer đã giết chết 17 người sau khi hiếp
dâm họ, trong đó có một em bé trai người Lào 14
tuổi. Khi khám nhà, người ta thấy trong tủ lạnh
của anh mấy trái tim, và đùi người, mà anh bảo
cất vào đó để ăn dần.
- “Evil and Forgiveness" (The Register,
Monday, Dec. 5/94)
Bill Cook's letter (“Dahmer rests in heaven”,
Nov.30) informs us that cannibalistic serial
murderer Jeffrey Dahmer is now at peace in
heaven because he accepted Jesus Christ after
having committed about 17 horrible murders.
I'm curious about what Cook thinks about the
fate of Dahmer's victims. According to Cook's
philosophy, if Dahmer's victim happen to be
Jewish or Buddhist or if they had not yet had
time to accept Jesus Christ because of their
murder, does that mean these innocent victims
are off suffering eternal hell while Dahmer is
off in heaven enjoying a state of bliss? (Lee
Dunlap, Costa Mesa).
(Dịch): Tội Ác và Tha Thứ (báo Registrer, thứ
hai ngày 5/12/94)
Thư của Bill Cook ("Dahmer yên nghỉ trên Thiên
Đàng." 30/11) cho chúng ta biết Jeffrey Dahmer,
một kẻ ăn thịt người và giết người hàng loạt,
bây giờ sống bình yên trên Thiên Đàng, vì anh đã
chấp nhận Chúa Giêsu sau khi giết chết 17 người
một cách khủng khiếp.
Tôi tò mò muốn biết Cook nghĩ thế nào về số phận
những nạn nhân của Dahmer. Theo như triết lý của
Cook, nếu những nạn nhân của Dahmer là người Do
Thái hay theo Đạo Phật, hay họ chưa kịp theo
Chúa mà đã bị giết chết, thì phải chăng những
nạn nhân vô tội này sẽ phải sống đời đời trong
Hỏa Ngục, còn Dahmer thì lên Thiên Đàng hoàn
toàn hạnh phúc?
- Genuine repentance
alone "saves", but not after alife long
commitment to evil and bloodshed, ignoreing
countless opportunities along the way to repent.
Deathbed and prison conversions for the likes of
Dahmer are a mockery of the deity, not an
example of God's forgiveness.
The Christian obsession with the afterlife is to
blame for this strange sense of divine mercy for
the most evil among humanity.
(Daniel B. Ardel, Anaheim).
"Thành thực ăn năn không thôi có thể "cứu
rỗi", nhưng không thể được cứu rỗi, nếu suốt cả
đời phạm tội ác, và gây ra đổ máu, anh bỏ qua
không biết bao nhiêu cơ hội để ăn năn. Trở lại
đạo trước khi chết, hay trong lúc ở tù của những
người như Dahmer là một sự phỉ báng Thượng Đế,
không phải là một tỉ dụ về Thượng Đế lòng lành.
Những người Gia-tô bị ám ảnh bởi đời sống sau
khi chết phải chịu những trách nhiệm về quan
niệm một Thượng Đế lòng lành kỳ quặc, tha thứ
cho các tội khủng khiếp nhất trong loài người.
(Ý kiến của Daniel B. Ardel, Anaheim)“
Đối nghịch thứ hai
Phật giáo tin vào Nhân Quả Luân Hồi. Con người
của kiếp này là sự nối tiếp con người của kiếp
trước. Bây giờ sướng hay khổ, là do chính mình
tạo ra bởi những việc làm ở kiếp trước (và chính
trong kiếp này). Như thế có nghĩa là con người
làm chủ hiện tại và tương lai của mình. Không ai
ban cho mình Hạnh Phúc, hay Đau Khổ. Chỉ có mình
mới làm cho mình Sướng hay Khổ mà thôi. Mỗi
người phải chịu trách nhiệm về việc mình làm.
Nếu mình phạm tội ác, thì không cầu xin ai Cứu
Rỗi cho mình được cả. Vì thế người hiểu đạo Phật
là một người Tích Cực quyết định lấy số phận của
mình.
Kinh Thánh của đạo Gia-tô thì cho rằng không có
tiền kiếp, luân hồi, linh hồn không có trước khi
con người ra đời, mà chỉ có cùng một lúc khi con
người sinh ra. Nhưng kể từ đó, và sau khi con
người chết đi, linh hồn sẽ mãi mãi tồn tại hoặc
ở trên nước Chúa nếu khi sống người ấy theo đạo
Chúa, hoặc bị đọa đày đời đời dưới Hỏa Ngục, nếu
khi còn sống không theo đạo Chúa, mà những người
theo đạo Giatô bảo là Lòng Lành Vô Cùng.
Thắc mắc.
Cái gì có khởi đầu bao giờ cũng phải có tận
cùng. Nếu linh hồn có cùng một lúc với con
người, khi con người sinh ra, nghĩa là do thân
xác mà có, thì khoa học dạy chúng ta rằng khi
thân xác không còn, thì linh hồn cũng không còn.
Nếu bảo rằng linh hồn là một thực thể riêng
biệt, không do thân xác sinh ra, nên không chết
cùng với thân xác, thì linh hồn ấy ở đâu mà ra?
Nếu bảo rằng linh hồn do Chúa sinh ra, chứ không
phải thân xác, thì vị trí của cái linh hồn ấy
đối với thân xác là như thế nào? Sự thông minh,
hay ngu dốt, hay tính độc ác, của một người là ở
trong đầu óc, nghĩa là thân xác, hay ở Linh Hồn?
Nếu bảo là ở thân xác, thì tại sao Chúa lại đem
ra một Linh Hồn trong sạch bỏ vào một thân xác
ngu đần, độc ác, rồi lại bắt Linh Hồn phải chịu
trách nhiệm? Nếu bảo là ở Linh Hồn, thì lại càng
vô lý. Tại sao Chúa lại sinh ra linh hồn tội ác?
Chúa có chịu trách nhiệm về Linh Hồn do Chúa
sáng tạo không? Những Linh Hồn do Chúa sinh ra
đều bình đẳng nhau, hay có cái tốt, cái xấu, như
xe hơi Nhật, xe hơi Mỹ? Linh Hồn có tội gì đâu
mà lại sinh ra ở Phi Châu đói khổ, rồi bị người
da trắng cai trị, bóc lột, đem buôn bán làm nô
lệ?
Những linh hồn do Chúa sinh ra, ở đâu trước khi
nhập vào một đứa trẻ sơ sinh? Ở một chỗ nào đó
trên Thiên Đàng có một kho chứa linh hồn. Khi ấy
lớn hay nhỏ, hay cần tới đâu nới rộng tới đó. Ai
trông coi cái kho đó? Một vị Thiên Thần? Vị
Thiên Thần này chắc giống như Nam Tào, Bắc Đẩu
coi về sinh tử trong truyện Tàu, có trách nhiệm
đem linh hồn nhập vào một thai nhi. Cho nhập vào
khi nào? Khi vừa bắt đầu thụ thai, hay khi đứa
trẻ lọt lòng mẹ? Nghĩa là luôn luôn phải rình mò
từng gia đình, để biết gia đình nào sắp có con.
Vị Thiên Thần này không biết có chu toàn được
nhiệm vụ không? Đặt ra giả dụ rằng mỗi ngày có
100.000 đứa trẻ ra đời, thì vị Thiên Thần này
làm sao phân thây ra thành 100.000 Thần để đem
linh hồn đi đầu thai? Nếu như thế, thì chắc chắn
là có những đứa trẻ sinh ra không có linh hồn.
Rồi vì không có linh hồn, nên sinh ra đã chết?
Khi quan sát sự sống, tôi thấy sự sống thật là
màu nhiệm. Cây đào ở nhà chúng tôi bắt đầu từ
một cây rất nhỏ (hay từ một hạt giống) mua về ở
chợ. Một năm sau nó ra hoa, rồi kết trái. Năm
sau nữa, đúng đến mùa xuân nó lại nở hoa, kết
trái. Vị thần nào ở trong cây đào làm cho nó nở
hoa, kết trái, đúng thời kỳ? Có ai đâu? Thượng
Đế tạo ra cây đào, cũng như vũ trụ, với những
luật lệ, rồi cây đào, hay vũ trụ, cứ theo những
luật đã có sẵn đó mà biến chuyển, không nhầm
lẫn. Chứ không phải cứ mỗi sự việc xảy ra, cứ
mỗi người chửa đẻ, lại phải có sự can thiệp của
Thượng Đế. Để làm chừng ấy công việc, quý vị thử
nghĩ xem, Thượng Đế làm sao có mặt ở khắp nơi?
II. VỀ PHẬT GIÁO
Giáo Hoàng:
“Sự giác ngộ mà Đức Phật kinh nghiệm được chỉ là
tin tưởng rằng đời là xấu, đời là nguồn gốc của
tội lỗi và khổ đau. Muốn giải thoát khỏi khổ đau
đó, ta phải thoát ra khỏi cuộc đời”.
Đức Phật
có nói: “Trải qua bao nhiêu kiếp sống đau
thương, nước mắt của chúng sinh hợp lại còn
nhiều hơn bốn đại dương”.
Đúng hay sai? Người Việt Nam chúng ta đã đổ
không biết bao nhiêu nước mắt vì chiến tranh? Và
Giáo Hoàng có lúc nào thấy đau khổ không? Năm
1981 Giáo Hoàng bị mưu sát, bị bắn bằng súng
phải đi nằm nhà thương, Người có đau không? Rồi
trong năm 1994, Người bị té gãy xương cũng đi
nằm nhà thương, Người có đau không? Tại sao
người ta phải chế ra một chiếc xe riêng cho
Người, gọi là Popemobile mà ở chỗ Người ngồi có
kính dày bao quanh, súng bắn không thủng? Xe này
để ở Tòa Thánh Vatican, mỗi khi người đi đâu thì
cho lên máy bay chở đi theo. Rất tốn kém. Tìm
cách bảo vệ cho người, điều này chứng tỏ một
cách rõ ràng rằng Người không được Ơn Trên phù
hộ. Bởi vì nếu Ơn Trên quyền năng vô biên mà phù
hộ ai, thì không ai có thể làm gì được người đó.
GH
J.P. II và Hồng y Ratzinger
Sau đây là một câu chuyện về Tổ Huệ Năng trong
Kinh Pháp Bảo Đàn:
“Nhờ có phép lạ đọc tư tưởng, Tổ đã biết được âm
mưu hại mình. Tổ chuẩn bị chờ đợi kẻ giết người
và đặt mười đồng tiền bên cạnh ghế ngồi. Tchang
đến vào một buổi chiều, vào phòng Tổ và chuẩn bị
thi hành tội ác. Tổ, vươn cổ lên, sẵn sàng để
nhận nhát dao định mệnh. Tchang chém ba lần vào
cổ nhưng - thật lạ lùng - không gây ra một chút
thương tích nào. Tổ nói với Tchang như sau:
“Gươm chính không dùng vào việc tà, gươm tà
không dùng vào việc chính. Tôi chỉ nợ tiền anh,
không nợ anh sự sống”. Sự bất ngờ của Tchang
mạnh đến nỗi anh ngất đi, và chỉ tỉnh lại sau
một hồi lâu."
Nếu chống đối mà bảo rằng, đó chỉ là huyền thoại
không chứng minh được. Như thế thì những phép lạ
của Chúa Giêsu có là huyền thoại, và có chứng
minh được không?
Đấy là chuyện ngày xưa, bây giờ xin kể chuyện
ngày nay.
Paris Match :
Et que pensez-vous de tous les autres phénomènes
paranormaux dont on parle tant?
(Paris Match, số 2152, ra ngày 23/8/1990).
Thế Cha (linh mục Jean Vernette người Pháp) nghĩ
như thế nào về những hiện tượng siêu thường khác
mà người ta nói đến rất nhiều?"
Jean Vernette.
Mais il existe sans aucun doute, dans tous ces
domaines, des phénomènes authentiques qu'un
esprit honnête doit savoir accepter. J'ai pour
ma part, été le témoin, lors d'un voyage en
Inde, d'un phénomène de lévitation où tout
truquage était rigoureusement impossible.
"Trong tất cả những lãnh vực đó, thì đã có,
không thể nghi ngờ, những hiện tượng đáng tin
cậy, mà một người lương thiện phải biết chấp
nhận. Về phần tôi, trong dịp đi thăm Ấn Độ, tôi
đã chứng kiến một hiện tượng, người lơ lửng
trong không khí, mà tất cả mọi giả mạo đều chắc
chắn không thể nào có." (Xin đọc thêm chi tiết
trong sách Thời Đại Mới của tác giả).
Triết học Phật giáo về sự khổ gọi là Tứ Diệu
Đế, hay là Bốn Sự Thật Cao Quý, và gồm có:
Khổ Đế,
thực trạng đau khổ.
Tập Đế,
nguyên nhân của đau khổ.
Diệt Đế,
chấm dứt đau khổ.
Đạo Đế,
phương pháp diệt khổ.
Phương pháp diệt khổ gồm 8 bước: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đi
vào chi tiết từng thứ thì quá dài. Riêng Chánh
Định sẽ được trình bày thêm ở đoạn chót, khi bàn
về Thiền, vì Định là Thiền Định.
Giáo Hoàng:
"Muốn giải thoát khỏi khổ đau, ta phải thoát ra
khỏi cuộc đời..."
Đức Phật
không bảo rằng từ bỏ cuộc đời là hết khổ, nhưng
mà là tìm ra nguyên nhân gây đau khổ, rồi diệt
trừ đi.
Sau đây là nhận định của Tổ Huệ Năng về vấn đề
này:
"Trong mọi lúc, mọi nơi, nếu chúng ta cương
quyết giữ cho tinh thần không bị ràng buộc bởi
những ham muốn vô lý, và hành động khôn ngoan
trong mọi trường hợp, là ta thực hành sự khôn
ngoan...
Chúng ta phải sử dụng sự thông thái cao siêu đó
để phá tan những ham mê và ảo tưởng. Tiếp tục sự
thực hành đó chắc chắn thực hiện được Phật tính.
Ba thứ thuốc độc (hay ba nguyên nhân gây ra đau
khổ) Tham, Sân, Si, sẽ biến đổi thành hạnh kiểm
tốt, kỷ luật luân lý."
Tham có phải là nguồn gốc gây ra đau khổ không?
Saddam Hussein tổng thống nước Iraq đem quân xâm
lược Kuwait, chỉ vì tham lam muốn chiếm đoạt
nguồn dầu hỏa lớn lao của nước này để làm cho
nước mình giàu mạnh. Nhưng rồi quân của Iraq bị
quân đồng minh do Mỹ cầm đầu đã đánh đuổi ra
khỏi Kuwait, gây thiệt hại lớn lao cho Iraq về
kinh tế, và quân sự. Trong đời sống xã hội, chỉ
vì tham lam mà người ta lường gạt nhau...
Giáo Hoàng:
"Chúng ta tự giải thoát chỉ bằng tách ra khỏi
cuộc đời vốn xấu xa."
(We liberate ourselves only through detachment
from the world, which is bad).
Sau đây là nhận định của Tổ Huệ Năng về vấn đề
Không Lưu Luyến (non-attachement) mà Giáo Hoàng
gọi là "Tách Rời" (detachment).
"Hiểu biết tư tưởng mình chính là sự giải thoát,
là đạt tới sự Thiền Định tối cao, là đạt tới sự
không luyến tiếc.
Không luyến tiếc là gì? Là nhìn và biết rằng tất
cả mọi hiện tượng là "Ý Nghĩ" không bị ràng buộc
vào bất cứ gì, và chính sự không lưu luyến được
biểu lộ trong mọi lãnh vực, nhưng lại tách rời
ra khỏi mọi lãnh vực?"
Khi nói về Niết Bàn, Giáo Hoàng đã đưa ra một
định nghĩa mới, không phải của Phật giáo.
Người viết:
What is called Nirvana, a state of perfect
indifference with regard to the world.
"Cái gọi là Niết Bàn là một thái độ hoàn toàn
dửng dưng với cuộc đời."
Niết Bàn là gì, thực ra không thể dùng ngôn từ
của thế gian để mô tả. Chỉ khi nào lên Niết Bàn
thì mới hiểu được Niết Bàn là gì. Tỉ dụ như đối
với người dân miền Thượng ở Việt Nam, thì không
có cách nào tả cho họ hiểu thế nào là biển.
Nhưng khi dẫn họ ra biển để họ lội xuống biển,
thị họ hiểu ngay thế nào là biển. Sau đây là
định nghĩa Nirvana của Shri Aurobindo trong
Lettres sur le Yoga, trang 74:
"Niết Bàn của Phật giáo giống như một trạng thái
mà ở trong đó con người không còn cảm thấy mình
như là một cá nhân mang một tên nào đó và một
thân thể nào đó, mà là cái Tôi vô cùng, bất
diệt, không không gian (dù ở trong không gian),
không thời gian (dù ở trong thời gian). Xin lưu
ý rằng người ấy vẫn có thể hoàn toàn sinh hoạt
trong trạng thái đó và ta chỉ có thể tới đó được
bằng Huệ mà thôi."
"Phật giáo phần lớn là một hệ thống Vô Thần."
(Buddhism is in large measure an atheist
system).
Giáo Hoàng bảo Phật giáo "Vô Thần".
Đúng hay sai? Sau khi đạt được Giác Ngộ, Đức
Phật nhớ lại tất cả tiền thân của Người. Như thế
là có Thần chứ. Nhưng Đức Phật không xưng mình
là Thần Thánh để tín đồ đến lễ lạy, cầu phước
cầu an, như là để hối lộ Phật. Phật chỉ cho
chúng ta con đường để sống với nhau trong Thương
Yêu. Làm điều lành, tránh điều dữ. Phật có nói:
"Ở trên trời, dưới đáy biển, trong hang núi,
không một nơi nào con người có thể tìm được nơi
trú ẩn, để thoát khỏi hậu quả những việc làm xấu
của mình."
Phật không có một nước để mở mang như nước Chúa.
Cho nên không có chuyện mở mang nước Phật, như
bên Thiên Chúa Giáo. Những người theo đạo Phật
khi truyền bá đạo Phật không phải vì Phật mà là
vì chúng sinh, để xây dựng một xã hội Tình
Thương. Người theo đạo Phật tôn trọng luật Nhân
Quả, biết rằng họ phải chịu trách nhiệm về công
việc họ làm. Nếu họ gây ra tội ác, Phật không
cứu được, nên không dám giết người. Nếu bảo thế
là Tiêu Cực thì quả thật người Phật tử Tiêu Cực.
Những người theo đạo Gia-tô như thực tế và lịch
sử đã chứng minh tin tưởng rằng giết người để mở
mang nước Chúa, được Chúa che chở cho lên Thiên
Đàng, nên họ yên tâm khi giết người. Truyền đạo
bằng máu và lửa như thế, thì quả thực những
người theo đạo Gia-tô đã rất Tích Cực (!). Hãy
đọc lại những chuyện sau đây:
Chuyện thứ nhất
In 1209 an army of some thirty thousand knights
and foot soldiers from northern Europe
descendeed like a whirlwind on the Languedoc,
the mountainous northeastern foothills of the
Pyrenees in what is now southern France ... This
extermination occured on so vast, ao terrible
scale that in may well constitue the first case
of ”genocide” in modern Europe history. In the
town of Beziers alone, for example, at least
fifteen thousand men, women, and children were
slaughtered wholesale, many of them in the
sanctuary of the church itself. When an officer
inquired the Pope’s representative how he might
distinguish heretics from true believers, the
reply was, ”Kill them all. God will recognize
His own.” (Trần Chung Ngọc, Giao Điểm số 18,
ngày 15/01/1995)
Năm 1209, một đoàn quân khoảng 30 ngàn người,
gồm kỵ binh và bộ binh từ phía bắc Âu Châu, như
một cơn gió lốc tràn xuống Languedoc, vùng chân
núi phía đông bắc Pyrénées, mà bây giờ là phía
Nam nước Pháp...
Cuộc tiêu diệt này xảy ra với một mức độ rộng
lớn và khủng khiếp đến nỗi ta có thể coi là
trường hợp đầu tiên của chính sách "diệt chủng"
trong lịch sử Âu Châu hiện đại. Tỉ dụ như chỉ
trong thành phố Béziers không thôi, ít nhất đã
có 15.000 đàn ông, đàn bà và trẻ con bị giết
sạch, nhiều người ở ngay bên trong Thánh Đường.
Khi một sĩ quan hỏi đại diện Giáo Hoàng, làm thế
nào để ông ta phân biệt được người theo tà giáo
và người thực tin Chúa, câu trả lời là, "cứ giết
hết đi, Chúa sẽ biết ai là người của Chúa".
Chuyện thứ hai
Pardon requested:
Five hundred years after taking part in the
bloody Spanish conquest of Central American,
Guatemala’s Roman Catholic Church has asked the
pardon of the country’s indigenous people. There
have been ”errors and contradiction in the
action of members of the church that have fallen
unjustly on the indigenous people,” Guatemala’s
bishops said in a pastoral letter released
Thursday in Guatemala city. ”We, the current
pastors of the church, ask for forgivenness, ”
they said. (The Register, Saturday, August
29/1992).
Xin được tha thứ:
"500 năm sau khi tham gia cùng với quân Tây Ban
Nha vào việc chinh phục đẫm máu ở Trung Mỹ, Giáo
Hội Giatô La Mã Guatelama đã xin dân ở đó tha
thứ. Đã có những nhầm lẫn và mâu thuẫn trong
hành động của nhân viên Giáo Hội, những hành
động bất công với dân bản xứ, các Giám Mục ở
Guatelama đã nói như thế trong một thư của Giáo
Hội được phổ biến hôm thứ Năm ở Guatelama.
"Chúng tôi, hàng Giáo Phẩm hiện đại, xin được
tha thứ", các Giám Mục đã nói như vậy".
Chuyện thứ ba
"Đối với Tin Lành, thì đã có chiến tranh thực sự
giữa hai phe. Chiến tranh tôn giáo bùng nổ ở
Pháp vào năm 1562 và kéo dài đến năm 1594.
Nguyên đêm thánh Lễ Bartholomew, vào tháng 8,
năm 1572, có cả vạn người Tin Lành bị Công Giáo
phục kích giết chết." (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ,
"Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", Trang
13).
Chuyện Thứ Tư, Ở Nước Việt Nam Mình.
(Trích ra từ ”Vietnam, why did we go,” By Avro
Manhattan).
Chủ thuyết ưa thích của Diệm là chủ thuyết của
các Giáo Hoàng Leo XIII, Pius XI và Pius XII,
tất cả các vị này đều tuyên bố, một quốc gia
Gia-tô kiểu mẫu phải tiêu diệt tất cả những cái
gì không phải Gia-tô.
(Diem’s favorite tenets were those of Pope Leo
XIII, Pope Pius XI and Pope Pius XII, who had
all declared how the model Catholic state must
eliminate all that was not Catholic. Page 84).
"Bất cứ cái gì và bất cứ ai không phù hợp hay
không thần phục đạo Gia-tô đều bị triệt hạ hết
sức dã man, bằng bắt bớ, hãm hại, trại tập trung
và tử hình".
(Anything and anyone not conforming or
submitting to Catholicism was to be ruthlessly
detroyed via arrest, perseecution, concentration
camps and executions. Page 126).
" Trong thời kỳ khủng bố ấy - từ năm 1955 đến
1960 - ít nhất có 24.000 người bị đánh đập có
thương tích, 80.000 người bị xử tử, hay bị giết
chết, 275.000 người bị bắt giữ, điều tra, bị tra
tấn hoặc không và khoảng 500.000 bị đưa vào trại
tập trung hay trại giam.”
(During this period of terror- that is from 1955
to 1960 – at least 24,000 were wounded, 80,000
people were executed or otherwise murdered,
275,000 had been detained, interrogated with or
without physical torture, and about 500,000 were
sent to concentration or detention camps. Page
89).
Khi giết người để mở mang nước Chúa thì họ Tích
Cực. Nhưng khi nhận mình là "Kẻ Có Tội" và cầu
nguyện "Chúa Ở Cùng Con" thì họ đã Tiêu Cực.
Trái lại về phương diện này thì người Phật tử
lại Tích Cực. Họ không trông mong được Phật phù
hộ, che chở, họ cam đảm "Tự mình đốt đuốc lên
mà đi".
Khi nói Phật giáo "Vô Thần", Giáo Hoàng muốn ám
chỉ rằng "Có Thần" tốt hơn là "Không Thần". Suy
luận thêm ta có thể nghĩ rằng, càng "Có Nhiều
Thần" thì càng tốt. Với trên 5 tỉ người trên thế
giới, một Thần làm sao coi sóc được. Vì thế nên
cần phải có nhiều Thần. Việt Nam có Thần Hà Bá
coi về Sông Nước, Thần Thổ Địa coi về Đất Đai,
Nhà cửa, Thần Thành Hoàng coi sóc Dân Làng, Thần
Táo Công coi về Bếp Núc... Dân mình đã chứng tỏ
văn minh hơn những dân tộc chỉ thờ có một Thần.
Nếu bảo nhiều Thần là mê tín dị đoan. Thì một
Thần tại sao là không mê tín?
Có ai biết Thượng Đế ra làm sao đâu. Bây giờ
người Mỹ bảo Thượng Đế không Đực cũng không Cái,
vì vậy không được sùng She (đàn bà) hay He (đàn
ông) để viết về Thượng Đế, mà chỉ được dùng chữ
"God" không thôi. Thượng Đế vượt ra ngoài sự
hiểu biết của con người, nên con người bèn chế
tạo ra một Thượng Đế có hình như người, với
những tính tình như người. Người dốt thì tạo ra
một Thượng Đế dốt. Người thích báo thù, thì tạo
ra một Thượng Đế báo thù. Cái câu "Thượng Đế tạo
ra con người theo hình ảnh của Thượng Đế" phải
đem đảo ngược lại mới đúng: "Con người tạo ra
Thượng Đế theo hình ảnh của chính họ".
Chính vì thế mà Swami Vivekananda đã có nói:"Nếu
loài bò có tư tưởng, thì Thượng Đế của loài bò
là một Con Bò To".
Dĩ nhiên là như thế rồi, không thể nào khác
được. Vì vậy Thượng Đế do người Âu Châu sáng chế
ra, chỉ có thể là người da trắng, chứ không thể
là người da đen, hay da vàng. Một Thượng Đế với
hình người, và tính tình như người, khó mà có
thể tồn tại với thời gian, vì không hợp với Lý
Trí. Nhiều người đã lên tiếng bác bỏ, họ bảo
"Thượng Đế Đã Chết".
The idea that God is an oversized white male
with a flowing beard who sits in the sky and
tallies the fall of every sparrow is ludicrous.
But if by ”God” one means the set of physical
laws that govern the universe, then clearly
there is such a God. This God is emotionally
unsatisfying ... It does not make much sense to
pray to the law of gravity. (Carl Sagan. U.S.
News & World Report, số ra ngày 23/12/1991,
trang 61. Sagan là một nhà thiên văn và là Giám
đốc viện Cornell nghiên cứu về Hành Tinh).
"Quan niệm rằng Thượng Đế là một người đàn ông
da trắng, to quá khổ, râu dài, ngồi ở trên trời,
và đếm xác từng con chim sẻ là chuyện khôi hài.
Nhưng nếu bảo rằng Thượng Đế là những Luật về
Vật Lý điều hành vũ trụ, thì rõ ràng có một
Thượng Đế như thế. Thượng Đế này lại không thỏa
mãn tình tự con người... Vì không có lý do gì để
cầu nguyện luật hấp dẫn".
Đức Giáo Hoàng bảo "Phật giáo Vô Thần", nhưng
người Âu Châu lại xác nhận chính đạo Ky-tô mới
là Vô Thần:
Wherever we read the obscene stories, the
voluptuous debaucheries, the cruel and torturous
executions, the unrelenting vindictiveness, with
which more than haft the Bible is filled, it
would be more consistent that we called it the
work of God. It is a history of wickedness, that
has served to corrupt and brutalize mankind;
and, for my own part, I sincerely detest it, as
I detest every thing that is cruel. (Page 294).
As to the Christian system of faith, it appears
to me as a species of atheism – a sort of
religious denial of God. It professes to believe
in a man rather than in God. (Selected Work of
Tom Paine, The Age of Reason, Page 306).
"Cứ mỗi khi chúng ta đọc những chuyện khiêu dâm
tục tĩu, những chuyện dâm đãng, những chuyện xử
tử bằng tra tấn dã man, những chuyện trả thù
liên miên, chứa đầy trong quá nửa quyển Kinh
Thánh, thì muốn nói cho đúng, ta nên gọi đó là
việc làm của ma quỷ, chứ không phải của Thượng
Đế. Đó là những chuyện độc ác dùng để hủ hóa và
ngu đần con người, và về phần tôi, tôi thành
thực ghét bỏ, cũng như tôi ghét bỏ tất cả những
cái gì độc ác".
"Đối với hệ thống đức tin của đạo Ky-tô, tôi
thấy đó là một trong những hệ thống vô thần -
một thứ tôn giáo phủ nhận Thượng Đế. Họ chủ
trương tin vào người chứ không tin Thượng Đế".
Ở phần trên chúng tôi cũng đã đưa ra một nhận
định gần giống như thế: "Con người tạo ra Thượng
Đế theo hình ảnh của chính họ".
Như thế để xét đoán xem, "Không Thần", "Một
Thần", và "Nhiều Thần", thứ nào tốt, thì nên
nghiên cứu xem, thứ nào đem lại lợi ích cho con
người. "Không Thần" lẽ dĩ nhiên là không tốt
rồi, vì con người ngoài nhu cầu vật chất còn có
nhu cầu tâm linh.
Dân Âu Châu đều thờ Chúa Giê-su làm Thượng Đế.
Nhưng Thượng Đế của dân Âu Châu đem lại lợi ích
gì cho thế gian? Chúa dạy: "Thương yêu người như
chính mình"; "Cầu nguyện cho người nguyền rủa
mình".
Người ta bảo Chúa giáng sinh để Cứu Thế. Chúa đã
Cứu Thế bằng cách chỉ dẫn cho con người cách ăn
ở với nhau để con người sống trong Thương Yêu.
Nhưng những ông Thầy Phù Thủy không dạy người
theo đạo đức thực hành lời Chúa dạy, mà lại biến
Chúa thành một vị thần linh mà ta phải lễ lạy để
được ban Ơn Phước, để được về nước Chúa, sau khi
chết.
Những người theo đạo Gia-tô ở nước ta cũng không
hiểu nghĩa Cứu Thế của Chúa Giê-su, vẫn tưởng
rằng cứ hết lòng cầu Chúa, phục vụ Giáo Hội, dù
có phải giết người, là được Chúa ban cho nhiều
Ơn Phước, nên họ cũng rất sắt máu. Họ hăm dọa
hay bôi bẩn những người chưa phải là chống đạo
Gia-tô, mà chỉ trình bày sự lợi dụng Thiên Chúa
cho những lợi ích rõ rệt trong Kinh Thánh do con
người mạo nhận Chúa viết vào. Chính vì thế mà có
báo đã xuyên tạc tin tức, phỉnh gạt những
người Việt theo đạo Gia-tô, để cho họ sướng. Họ
thích nghe những tin tức có lợi cho họ dù sai
với Sự Thật.
Tờ Người Việt số ra ngày Thứ Bảy 14/1/95,
loan tin trên trang nhất: Phái Đoàn Công Giáo
Trung Quốc đến Manila triều kiến Giáo Hoàng.
Khi nói Triều Kiến là nói đến sự thần phục.
Nhưng thực ra thì "Phái Đoàn Công Giáo Trung
Quốc" chính là "Công Giáo Quốc Doanh", gồm 5 vị
linh mục của cái gọi là "Hiệp Hội Yêu Nước"
(Patriotic Association). Đúng là mập mờ đánh lận
con đen. Nếu tin này loan báo không bằng Tiếng
Việt mà bằng tiếng Trung Hoa, chắc là sẽ phải
đính chính. Những linh mục này không công nhận
Tòa Thánh Vatican, vì vậy bảo họ đến Triều Kiến
Giáo Hoàng là không đúng. Họ đã đòi làm lễ chung
với Giáo Hoàng. Nguyên văn tiếng Anh như sau:
Five priests from the Patriotic Association have
asked to join the pope at the altar to
co-celebrate the mass with him a move that would
imply Vatican recognition of the official
Chineses church. (The Register, Sunday, Jan.
15/1995).
"Năm linh mục thuộc Hiệp Hội Yêu Nước đã yêu cầu
được cùng với Giáo Hoàng lên lễ đài làm lễ chung
với Ngài - hành động này ngầm đưa Tòa Thánh
Vatican vào cái thế công nhận Giáo Hội Quốc
Doanh Trung Hoa".
Cũng trong số này The Register loan báo: POPE
OFFERS CHINA MUTUAL RECOGNITION “ Giáo Hoàng đề
nghị với Trung Cộng hai bên công nhận lẫn nhau”
RELIGION:
The Vatican asks Beijing to recog nize papal
authority over catholics in return for
acknowledgement of China’s official church.
TÔN GIÁO: Tòa Thánh yêu cầu Bắc Kinh công
nhận quyền của Giáo Hoàng đối với những người
theo đạo Gia-tô để đánh đổi lấy việc Giáo Hoàng
công nhận Giáo Hội Quốc Doanh Trung Cộng.
Để làm cho vấn đề sáng tỏ hơn, chúng tôi xin
trích dẫn thêm một chút chi tiết về sự bang giao
giữa Tòa Thánh Vatican và Trung Cộng:
China’s officially run Patriotic Association
does not permit Catholics to recogniz the
spiritual supremcy of the pope and rejects the
Vatican’s right, exercused in most other
countries, to appoint bishops. For several
years, the Vatican does not acknowledge the
Patriotic Association, which it calls
schismatic, and supports clandestine worshipers
among China’s often-persecuted catholics who
recognize papal authority.…The Vatican’s aim is
to open the way for a new relationship with
Beijing. For several years, the Vatican has been
training what it calls a tash force of more than
40 missionary priests to evangelize in China if
they are allowed to do so. The pope is to visit
them Monday at the San Carlos Seminary in
Manila.
Giáo Hội Quốc Doanh do Trung Cộng điều hành
không cho phép những người theo đạo Gia-tô công
nhận quyền Tâm linh tối cao của Giáo Hoàng, và
bác bỏ quyền bổ nhiệm các Giám Mục của Tòa
Thánh, như Tòa Thánh vẫn làm ở đa số các nước
khác. “Về phần Tòa Thánh, thì Tòa Thánh
không công nhận Giáo Hội Quốc Doanh mà Tòa thánh
bảo là phân ly, và ủng hộ những giáo dân thầm
lặng, những người này thường hay bị hành hạ vì
công nhận quyền của Giáo Hoàng”. “Mục đích của
Tòa Thánh là mở đường cho một sự bang giao mới
với Bắc Kinh” “Trong nhiều năm, Tòa Thánh đã
huấn luyện một lực lượng được gọi là đặc nhiệm
gồm trên 40 linh mục để truyền đạo ở Trung Cộng
nếu họ được phép làm. Giáo Hoàng sẽ đến thăm họ
ở Chủng Viện San Carlos ở Manila.”
Xuyên tạc tin tức
chỉ có thể lừa gạt được người nghe, trong một
thời gian mà thôi, vì chẳng sớm thì muộn, ai
cũng có thể biết đâu là giả, đâu là thật. Và khi
là Giả Mạo được phanh phui thì rất có hại, vì kể
từ đó dù có nói thật cũng không ai tin. Ông
Phạm Văn Phổ có bài đăng trên tờ Người Việt
số ra ngày thứ năm, 2 tháng Ba 1995, trang
A6, cũng lại “Xuyên tạc tin tức” y như tờ
Người Việt: Ông viết:
“Những lời tuyên bố của Ngài liên quan tới việc
thừa nhận Giáo Hoàng Công Giáo “Quốc Doanh” (Chứ
không phải chế độ Trung Cộng như một số dư luận
đưa ra”, theo đó Ngài cho biết sẽ công nhận Giáo
Hội này (Công Giáo Quốc Doanh) nếu họ chịu tuân
phục Giáo Hoàng”.
Trước hết, ông bảo, “Những lời tuyên bố của
Ngài liên quan tới việc thừa nhận Giáo Hội Công
Giáo “Quốc Doanh”, chứ không phải chế độ Trung
Cộng như một dư luận đưa ra”. Nếu đọc kỹ lại
tin tức của tờ The Register ở đoạn trên, thì câu
viết của ông Phạm Văn Phổ phải đem đảo ngược lại
mới đúng. Bản in của The Register:
“Giáo Hoàng đề nghị với Trung Cộng hai bên công
nhận lẫn nhau”. Không những thế, để “Mở đường
cho một sự bàn giao mới với Bắc Kinh”, thì Giáo
Hoàng phải “thừa nhận” chế độ Trung Cộng, chứ
không thể nào lại đi thừa nhận Giáo Hoàng Quốc
Doanh? Giáo Hoàng Quốc Doanh do Trung Cộng chế
tạo và điều khiển làm sao có được cái quyền chấp
thuận cho Tòa Thánh đem các linh mục đang nằm
chờ sẵn ở Phi Luật Tân, vào nước Tàu truyền đạo?
Đúng là chuyện tiếu lâm.
Để bênh vực Giáo Hoàng, mà viết lách như thế thì
lại là làm hại Giáo Hoàng, coi như người không
biết gì về tình hình chính trị bên Trung Cộng,
nên Ngài mới đi điều đình với Giáo Hội tay sai,
không có quyền hạn gì cả. Giáo Hoàng chắc chắn
không cần một người bênh vực Ngài như ông Phạm
Văn Phổ.
Thứ hai,… “Ngài cho biết sẽ công nhận Giáo Hội
này (Công Giáo Quốc Doanh) nếu họ chịu tuân phục
Giáo Hoàng”. Chỉ cần suy nghĩ một
chút, ta sẽ thấy ông Phạm Văn Phổ có dụng ý
“Xuyên tạc Tin Tức” để lừa gạt độc giả, nếu ông
Phạm Văn Phổ tin như điều ông viết, thì quả
thật ông không hiểu biết chút nào về bản chất
của Giáo Hội Quốc Doanh. Như danh từ Quốc Doanh
đã mô tả rất rỏ bản chất của nó, đó là Giáo Hội
Nhà Nước. Vì thế, nếu Giáo Hoàng muốn Giáo Hội
Nhà Nước tuân phục Ngài, thì Ngài phải điều đình
với Nhà Nước Trung Cộng, chứ không phải tuyên bố
hứa suông, “sẽ công nhận Công Giáo Quốc Doanh,
nếu họ chịu tuân phục Giáo Hoàng”. Giáo Hoàng
không lẽ lại không biết một sự thật sơ đẳng như
thế? Cho nên Ngài đã điều đình với Nhà Nước
Trung cộng, như tin của The Register mà chúng
tôi đã nêu trên, chứ không phải với Giáo Hội Nhà
Nước:
“Tòa Thánh yêu cầu Bắc Kinh công nhận quyền của
Giáo Hoàng đối với những người theo đạo Gia-tô
để đánh đổi lấy việc Giáo Hoàng công nhận Giáo
Hội Quốc Doanh của Trung Cộng”.
Một khi Giáo Hội Quốc Doanh tuân phục Ngài, thì
họ không còn là một Quốc Doanh, và họ không còn
“không cho phép những người theo đạo Giatô công
nhận quyền tâm linh tối cao của Giáo Hoàng, và…”
như thế thì như lẽ đương nhiên Ngài mừng quá, và
Ngài phải dang hai tay ra mà chào đón họ. Chứ
việc gì lại còn phải phải xác nhận, “Tuân phục
Ngài thì Ngài công nhận”. Chắc chắn là Đức Giáo
Hoàng không bao giờ tuyên bố một điều xa vời
thực tế đến như thế, mà chỉ có thể là do sự bịa
đặt của ông Phạm Văn Phổ.
Giáo Hội Quốc Doanh Trung Cộng có thật ngu mới
không biết Đức Giáo Hoàng muốn họ tuân phục
Ngài, không tuân phục Nhà Nước Trung Cộng. Và
nếu họ tuân phục Ngài, và đó là điều mà Ngài
mong bằng chết, thì không ai có thể đặt nghi vấn
là Ngài lại có thể không công nhận họ. Đặt vấn
đề như vậy, thì quả thật là ngườii viết tỏ ra
thiếu tự trọng, coi thường độc giả.
Sự thật đã rỏ ràng là Đức Giáo Hoàng muốn “thừa
nhận chế độ Trung Cộng” với những bằng chứng
hiển nhiên, thế mà ông Phạm Văn Phổ còn cố ý
ngụy biên, xuyên tạc tin tức để lừa gạt
chúng ta thì thật đáng sợ. Những người cuồng tín
như thế có thể phạm bất cứ tội ác nào để bênh
vực hay làm lợi cho Giáo Hội, rồi chối tội. Ước
mong rằng những người Việt Nam theo đạo Gia-tô
không phải là những Phạm Văn Phổ. Ông Phạm Văn
Phổ bắt đầu bài viết bằng “xuyên tạc”,
thì làm sao người đọc có thể tin được, phần còn
lại lại không phải là Tin Tức đã bị Xuyên Tạc.
Bài viết của ông lấy nhan đề “Có Sự Ngộ Nhận...”
Có ai Ngộ Nhận đâu, mà Ngộ Nhận lại chính là ông
Phạm Văn Phổ. NGƯỜI VIỆT số ra ngày Thứ Sáu
25/3/1994 cũng loan tin:
“Đoàn đại diện Vatican đã đồng ý với đoàn đại
diện Việt Nam, tất cả mọi vấn đề liên quan đến
Giáo Hội Công giáo Việt Nam, Tòa Thánh sẽ thông
báo cho Chính phủ Việt Nam và có sự thỏa thuận
của Chính phủ Việt Nam thì Tòa Thánh mới ra
quyết định.”
Những tin tức nêu trên rõ ràng cho chúng ta
thấy, Tòa Thánh đã tìm cách hay đã Thỏa Hiệp
với Cộng Sản và Thân Cộng Sản. Nếu cần chứng
minh thêm, tôi còn nhiều tài liệu khác nữa.
Những người Việt Nam theo đạo Gia-tô cũng thừa
biết vì quyền lợi của Giáo Hội Công Giáo, Tòa
Thánh phải thân Cộng, nhưng họ cứ to mồm chụp mũ
Phật giáo thân Cộng để che giấu âm mưu thân Cộng
của họ. Họ muốn độc quyền thân Cộng.
Phật giáo và những người bị chụp mũ Phật giáo
thân Cộng, để che giấu âm mưu, bèn hăng say
chống Cộng để chứng minh là không thân Cộng.
Chống càng hăng, thì đàn áp càng mạnh. Dư đảng
Cần Lao Công Giáo đứng ở ngoài vỗ tay vào. Họ
mượn tay Việt Cộng trả thù hộ cho ông Diệm.
Như thế thì có phải chúng ta không nên chống
Cộng? Chống chứ, nhưng không theo đường lối sách
động của Cần Lao Công Giáo, và chống để xây dựng
chứ không phải chống để phá hủy. Cần Lao to mồm
vỗ ngực ta đây chống Cộng. Nhưng kết quả đường
lối Chống Cộng Cò Mồi của họ ra sao sau 20 năm?
Hai mươi năm chủ trương “Lật Đổ” không kết quả.
Bây giờ thời thế mới, chiến lược chiến thuật
cũng phải đổi mới, họ đòi “Giải thể”. Tại sao
không tiếp tục đòi “Lật Đổ”? Tại cái Hiệp Định
Thư đùng lăn, phải gió, khi không lại cấm “Lật
Đổ”. Có người không biết là tính cộng, trừ, bèn
bảo, “Lùi hai bước, Tiến một bước”. Như thế là
Tiến hay Lùi?
Tòa Thánh Vatican vì quyền lợi riêng đã thân
Cộng rồi, mà dư đảng Cần Lao thì luôn luôn tuân
theo đường lối chỉ thị của Vatican, nên họ chỉ
có thể chống Cò Mồi thôi. Họ xúi giục người khác
chống để họ thủ lợi.
Tòa Thánh La Mã bề ngoài thân Cộng, nhưng vẫn
ngấm ngầm chỉ thị cho Cần Lao âm mưu gây loạn
bằng chống bãi bỏ Phong Tỏa Kinh Tế mà họ gọi là
Cấm Vận, và chống Mỹ bang giao. Nếu dân nổi
loạn, bạo quyền đàn áp đổ máu, người nọ đâm chém
người kia để trả thù, thì Cần Lao - mà lực lượng
còn nguyên vẹn, vì không tham gia nổi loạn - với
sự hỗ trợ của Tòa Thánh, mới có cơ hội chiếm
được chính quyền. Vì vậy bất cứ ai chủ trương
làm cho Việt Cộng thay đổi từ từ bằng “Diễn Tiến
Hòa Bình”, hay “Bất Bạo Động”, đều bị Cần Lao
chụp cho cái mũ thân Cộng, hay Cộng Sản.
Cần Lao chống Cộng rất hăng. Khi cao hứng họ còn
tuyên bố “Đạo Công Giáo Chống Cộng”. Đạo Công
Giáo mà chống Cộng, thì theo lẽ đương nhiên,
Thiên Chúa cũng chống Cộng. Hồi còn ở Việt Nam,
mỗi lần trước khi đi hành quân tướng Huỳnh Văn
Cao đều cầu xin Đức Mẹ phù hộ, nên ra quân trận
nào thắng trận đó. Chỉ thua có một lần ở trận Ấp
Bắc. Lần ấy thua, chắc là tại tướng Cao quên
không cầu nguyện? Trước kia người ta đã đưa Đức
Mẹ đi đánh giặc, bây giờ Cần Lao chế tạo ra
Thiên Chúa chống Cộng. Nếu Thiên Chúa mà
chống Cộng thì khi Đức Giáo Hoàng thỏa hiệp với
Cộng Sản, là Người chống lại “Thiên Chúa”.
Cần Lao xưa nay vẫn vỗ ngực tuyên bố chống Cộng,
và chủ trương “Đạo Công Giáo Chống Cộng”, và nếu
họ thực tình chống Cộng, chứ không phải Cò Mồi,
thì bây giờ là lúc họ nên lên tiếng chống lại sự
thỏa hiệp với Cộng Sản của Đức Giáo Hoàng.
Tại sao tôi biết rõ âm mưu của Tòa Thánh? Có gì
khó hiểu đâu. Nghĩ như thế nào thì làm y như
thế. Như vậy cứ coi hành động, thì biết được âm
mưu. (Xin coi thêm chi tiết ở đoạn dưới về thành
tích của Giáo Hoàng John Paul II ở Đông Âu, nhận
xét của Đức Hồng Y Poupard).
Nhưng quyền lợi của Mỹ đôi lúc lại khác với
quyền lợi của Tòa Thánh, Mỹ đã bãi bỏ Phong tỏa
Kinh tế. Hai bên đã thiết lập Văn Phòng Liên
Lạc. Mỹ không muốn Việt Nam loạn. Đô Đốc Richard
C. Macke, tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương, đã tuyên
bố trong cuộc viếng thăm Việt Nam, hồi tháng
11/94, là sau khi hai bên thiết lập bang giao,
Washington có thể hợp tác quân sự với Hà nội.
Tại sao? Để làm gì? Mỹ cần có Việt Nam để ngăn
chặn sự bành trướng của bá quyền Trung Cộng?
Khi chủ trương gây loạn, để thừa nước đục thả
câu, là Tòa Thánh đã hoàn toàn mâu thuẫn với lời
dạy “Các con sẽ không được giết” của Chúa. Nếu
Chúa là Đấng sinh ra muôn loài, muôn vật, thì
tất cả đều là con cái của Chúa rồi, và theo lẽ
đương nhiên không khi nào Chúa lại muốn con cái
của Chúa cầm súng, cầm dao, giết nhau như thú
vật? Lời dạy của Chúa đã hoàn toàn bị hiểu sai
lạc đi.
Ở bên Mỹ ta thấy những người chống phá thai bằng
biểu tình và bắn giết những Bác Sỹ phá thai. Bảo
vệ sự sống bằng giết người là mâu thuẫn. Không
khác gì để lấp một lỗ, ta đào đất ở chỗ này làm
thành một cái lỗ ở đó, để lấy đất đem lấp ở chỗ
kia. Chống phá thai, thì bảo vệ được bao nhiêu
đứa trẻ, mà người mẹ không muốn nuôi?
Sao không chống chiến tranh? Thế Chiến II làm
cho khoảng 40 triệu người Âu Châu chết tan thây,
nhiều nhà thờ bị bom phá hủy. Tại sao không đòi
giải giới, giải tán quân đội?
Nhưng thật là lạ lùng và mâu thuẫn, vì chính đạo
Gia-tô đã gây ra những cuộc gọi là Thánh
Chiến giết người khủng khiếp nhất trong lịch
sử, như đã trình bày ở đoạn trên. Mà đấy chỉ là
một phần rất nhỏ của những tàn sát đẫm máu để mở
mang nước Chúa. “Có Thần” nhưng nếu là “Thần
Chiến Tranh” gieo tang tóc cho loài người
thì chẳng thà “Vô Thần”. Chúa dạy “Các
con sẽ không được giết” đã bị các ông thầy “Phù
Thủy” xuyên tạc cho những lợi ích ích kỷ của họ,
mà họ tuyên bố là Thánh Thiện”.
Sau đây là nhận định của André Chouraqui (Paris
Match số 2171,3 Janvier 1991):
“Chiến tranh còn quyết liệt hơn nữa giữa những
người con của Abraham, và những người đa thần,
những người này đã hoàn toàn bị loại ra khỏi
những quốc gia Gia-tô, Hồi giáo - bằng sắt máu
và lửa. Kinh thánh dạy rằng Elohim (Thượng Đế)
là Một. Những nhà thần học (mà Bác sỹ Nguyễn Văn
Thọ gọi là Bồi Bút) đã biến đổi giáo điều “Một”
thiêng liêng, thành nhiệm vụ tiêu diệt tất cả
những dân không thờ Thượng Đế chân thật. Từ sự
sai lầm ấy mà nảy sinh ra những tàn sát vĩ đại
những dân thờ Thần, từ đỉnh núi Andes (Tây Nam
Mỹ Châu) tới tận cùng Châu Phi và Châu Á.
“Không phải tôn giáo đã sai lầm, mà là con
người, họ đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho
những lợi ích ích kỷ của họ mà họ tuyên bố là
thánh thiện.
Thảm thương thay! Thượng Đế đã bị Động Viên phục
vụ dưới lá cờ của những quốc gia hay tôn giáo
thù nghịch nhau: Các ông thầy tu của họ làm phép
lành cho những kẻ phạm tội sát nhân, và những
người lính chiến, họ giải cho họ những tội vô
cùng độc ác, không thể nào tha thứ được.” (Xin
coi nguyên văn tiếng Pháp, trong Thời Đại Mới
của tác giả, trang 213 và kế tiếp).
III. VỀ ĐẠO GIA-TÔ
1- Vấn đề Thần Bí.
Đức Giáo Hoàng có nói về những nhà Thần Bí Thiên
Chúa Giáo, chúng tôi không dám có ý kiến, mà chỉ
xin ghi lại nhận định của tác giả Tom Paine về
vấn đề này, và về nguồn gốc của Kinh Thánh :
“When the church Mythologists established their
system, they collected all the writings they
could find, and managed them as they pleased. It
is a matter altogether of uncertainty to us
whether such of the writings as now appear under
the name of Old and New Testament, are in the
same state in which those collectors say they
found them, or whether they added, altered,
abridges, or dressed them up.
Be this as it may, they decided by vote which of
the books out of the collection they had made,
should be the Word of God, and which should not.
They rejected several; they voted others to be
doubtful, such as the books called the
Apocrypha; and those books which had a majority
of votes, were voted to be the Word of God. Had
they voted ortherwise, all the people, since
calling themselves Christians, had belived
ortherwise for the belief of the one comes from
the vote of the orther. Who the people were that
did all this, we know nothing of, they called
themselves by the general name of the Church;
and this is all we know of the matter”.
(Selected work of Tom Paine, The Age of Reason,
page 293).
“Khi những nhà Thần Học của Giáo Hội thiết lập
hệ thống của họ, thì họ tập trung tất cả những
Kinh Sách mà họ tìm thấy và tùy nghi sắp xếp.
Chúng ta hoàn toàn không biết chắc rằng những
Kinh Sách đó mà ngày nay gọi là Cựu và Tân Ước
có còn giữ được y nguyên như khi những người đi
thâu thập nói là họ tìm ra, hay là họ đã thêm
vào, sửa chữa, cắt bớt, hay tô điểm thêm”.
“Cứ cho là như thế đi, họ bỏ thăm để quyết định
xem sách nào là Lời Chúa, và sách nào không,
trong số những sách mà họ làm ra với những tài
liệu thâu thập được. Họ đã bác bỏ rất nhiều; họ
bỏ phiếu loại những sách cho là nghi ngờ, tỉ dụ
như những sách gọi là Apocrypha; và những sách
nào được đa số phiếu, được bầu làm Lời của Chúa.
Nếu họ bầu khác, thì tất cả những người, kể từ
khi nhận mình là người Kitô, đã tin khác đi - vì
đức tin của người này là do phiếu bầu của người
khác. Ai là những người làm ra tất cả những cái
đó, chúng ta không biết một tí gì, họ gọi họ
bằng cái tên chung Giáo Hội; và đó là tất cả
những điều mà chúng ta biết về vấn đề đó.”
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ cũng có một nhận định
tương tự như thế về Kinh Thánh:
“Tôi mới đầu không hiểu tại sao Giáo Hội cấm
không cho giáo dân có Kinh Thánh hay đọc Kinh
Thánh, nhất là bằng quốc ngữ. Dần dà tôi mới
thấy sự cấm đoán đó hết sức là hữu lý, vì nếu cứ
để cho giáo dân đọc Kinh Thánh, dần dà họ sẽ bới
ra được những cái dở của Kinh Thánh, những chỗ
dịch sai, dịch bậy của Kinh Thánh, những chỗ
thêm, bớt vào Kinh Thánh.” (Nguyễn Văn Thọ,
trang 12).
Tới đây, bất cứ ai cũng có thể nhận ra rằng
trong Kinh Thánh có những điều hoàn toàn phản
bội Lý Trí, nên Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ đã phải
kêu lên: “Chúng ta chỉ có thể mù hay điếc,
mới không nhìn thấy, nghe thấy”. Tòa Thánh
sợ rằng giáo dân không mù, không điếc, nên đã
cẩn thận đề phòng:
“Kinh Thánh là Lời Chúa, là Chân Lý. “Giáo Hội
có độc quyền giải thích Kinh Thánh. “Giáo Hội
dạy làm sao, con chiên phải vâng phục như vậy,
không được cãi. Đức Tin vượt lên trên Lý Trí con
người.” (Nguyễn Văn Thọ, trang 15).
Trong khi đó thì Đức Phật hoàn toàn chỉ
dạy trái ngược lại:
“Đừng tin vào Kinh Sách cổ viết tay, đừng tin
vào một điều mà Dân Tộc mình tin hay làm cho
mình tin từ lúc nhỏ. Đối với tất cả mọi điều,
đều phải áp dụng Lý Trí. Sau khi phân tách, nếu
thấy những điều ấy tốt cho mọi người và cho mỗi
người, thì hãy tin nó, sống cho nó, và giúp cho
người khác cùng sống như vậy”.
Hai tôn giáo, hai quan niệm khác nhau về kinh
sách. Về điểm này, khi bảo rằng Phật giáo và
Thiên Chúa Giáo “đối nghịch” nhau, thì Đức Giáo
Hoàng đã hoàn toàn đúng.
2- Chống Khoa Học
“Infidelity does not consis in believing, or in
disbelieving; it consist in professing to
believe…When a man has so far corrupted the
chastity of his mind, as to subscribe his
professional belief to thing he does not
believe, he has perpared himself for the
commission of every other”. (Tom Paine, The Age
og Reason, Page 286).
“Bất lương không có nghĩa là tin hay không tin;
mà là xác nhận rằng mình tin vào một điều mà
mình không tin. Khi một người đã đi đến cái độ
hủ hóa và đánh đi sự trong trắng của tâm hồn, để
công nhận, vì lý do nghề nghiệp, rằng mình tin
vào điều mà mình không tin, thì người ấy đã tự ý
sửa soạn để phạm bất cứ tội ác nào”.
Kinh Thánh không những đã phản bội Lý Trí, mà
còn chống lại Khoa Học. Đức Giáo Hoàng bảo:
“Giáo Hội đã xây dựng, đặc biệt là Văn Minh
Âu Châu, nền văn minh này được đánh dấu bởi
việc tìm hiểu cuộc đời một cách tích cực, và đã
phát triển nhờ có thành quả của khoa học, kỹ
thuật”. Không biết Đức Giáo Hoàng căn cứ vào đâu
mà nói thế, vì thực tế rõ ràng đã chứng minh
trái ngược lại. Kinh Thánh có nhiều đoạn chống
lại Khoa Học:
Thứ Nhất.
Kinh Thánh bảo, “Trái Đất là Trung Tâm Vũ
Trụ, và Mặt Trời xoay quanh Trái Đất”. Trái
Đất không là Trung Tâm Vũ Trụ, mà chỉ là một hạt
bụi trong Vũ Trụ. Mặt Trời cũng không xoay quanh
Trái Đất, mà ngược lại. Tòa Hình Án của Tòa
Thánh đã thiêu sống Giordano Bruno, và giam lỏng
Galileo Galilei chỉ vì các nhà khoa học này
chứng minh là Trái Đất xoay quanh Mặt Trời chứ
không phải trái ngược lại, như đã ghi trong Kinh
Thánh.
Thứ Hai.
“Chúa tạo dựng ra con người cách đây khoảng từ
6.000 đến 10.000 năm”.
Nhưng Khoa Học cho biết con người xuất hiện trên
Trái Đất cách đây nhiều triệu năm. Nếu theo
thuyết của Darwin, con người từ loài vật tiến
hóa lên mà thành, thì không có chuyện Sáng Tạo,
không có tội Tổ tông. Kinh Thánh như vậy hoàn
toàn bị phủ nhận, nên Giáo Hội Giatô La Mã bắt
buộc phải chống lại Khoa Học.
Thứ Ba:
Sau đây là nhận định của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ,
trích ra từ “Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa
Giáo” (Trg.4):
“Adam Eva không phải là thủy tổ loài người, vì
con người đại khái đã xuất hiện cách đây tối đa
khoảng nhiều triệu năm”. “Nếu Adam Eva không
phải là thủy tổ loài người, thì làm gì có tội Tổ
Tông? Nếu không có tội Tổ Tông, thì làm gì có
chuyện Chúa giáng trần Cứu Chuộc?”. “Nếu vậy,
đạo Thiên Chúa Giáo hoàn toàn đã được xây dựng
trên những ảo tưởng”.
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ cũng còn viết
(trg.3):
“Sánh các đoạn Thánh Kinh với nhau, với các khám
phá khoa học ta thấy: Hai Chương 1 và 2 Sáng Thế
Ký hoàn toàn mâu thuẫn nhau. “Cái vòm trời, cái
“Trời” - bằng đồng thau - mà Chúa đã vất vả dùng
cả ngày thứ 2 xây dựng nên với những cửa có thể
mở đóng tùy nghi, đã được chứng minh là hoàn
toàn không có. Đó chỉ là một ảo giác của chúng
ta mà thôi!”
Chỉ vì Đạo Giatô La Mã đã cấm giảng dạy Khoa Học
trong các trường của Giáo Hội, và xử tội thiêu
sống một số nhà khoa học, như Giordano Bruno,
nên Tom Pain trong The Age of Reason
(Trg.313) cho rằng: “Thời đại của ngu si bắt
đầu với đạo Ky-tô.” (The age of ignorance
commenced with the Christian system).
Giáo Hội Giatô La Mã, như trên chứng minh, đã
làm cản trở sự tiến bộ của Văn Minh Âu Châu, chứ
không “Xây Dựng Văn Minh Âu Châu” như Giáo Hoàng
nói. Không lẽ Giáo Hoàng lại không biết đâu là
Sự Thật, nhưng Người vẫn cứ nói sai với Sự Thật,
có lẽ để làm cho dân Á Châu không thuộc lịch sử
Âu Châu tin rằng đạo Giatô La Mã là một đạo tiến
bộ.
3- Phật giáo Tiêu Cực.
Với Luật Nhân Quả mà Khoa Học không thể bác bỏ,
Phật giáo đã tích cực góp phần vào việc lành
mạnh hóa xã hội. Nhân và Quả theo nhau như Hình
với Bóng. Gieo Nhân nào thì gặt hái Quả đó. Gieo
Nhân Ác thì gặp Quả Ác. Trong sách Buddhism
and Present Life, trang 56 có đoạn viết như
sau:
We are the results of what we were and we will
be the results of what we are. Actions condition
our happiness or unhappiness and finally secure
our salvation.
“Chúng ta là kết quả của chúng ta hôm nay và
chúng ta sẽ là kết quả của chúng ta hôm nay.
Hành động là nguyên nhân Hạnh Phúc hay Đau Khổ
và cuối cùng là đảm bảo sự Giải thoát cho chúng
ta”.
Một khi con người phải chịu kết quả về việc mình
làm, không ai Cứu Rỗi được, thì đương nhiên phải
làm điều Thiện.
Rõ ràng là Tích Cực. Nhưng khi tin rằng, làm
điều xấu, nhưng nếu trở về với Chúa được Chúa
Cứu Rỗi, thì con người dễ sa ngã, dễ phạm tội
ác, thì có phải là Tiêu Cực không?
Quan niệm sai lầm về Cứu Rỗi là nguyên nhân gây
ra những tội ác khủng khiếp.
“Linh Mục Công giáo Edward A. Synan, tác giả
quyển “The Popes and the Jews in the Middle
Ages” cũng đã phải thành khẩn công nhận rằng:
Khi Âu Châu được đặt dưới quyền thống trị của
các Giáo Hoàng thời Trung Cổ đã không biết
chuyện bình đẳng và công bằng; luật pháp thì dã
man từ ý hướng đến hình phạt, và đã chĩa mũi vào
dân chúng Do Thái tội nghiệp”. (Nguyễn Văn Thọ,
trg .12).
Như vậy, nếu bảo đạo Giatô Tích Cực, thì có lẽ
là Tích Cực tàn sát người ngoại đạo. Sau đây là
một thành tích Tích Cực nữa của đạo Giatô La Mã:
“Tòa Hình án có quyền hết sức rộng rãi, tha hồ
tra tấn những kẻ tình nghi để bắt buộc họ phải
cung khai những tội họ đã bị tố cáo hoặc vu cáo.
Hình phạt tối hậu có thể là thiêu sống…Nguyên
thời Thomas de Torquemada là Chánh án trong vòng
mấy chục năm trường, có khoảng 20.000 người đã
bị ông cho lên giàn hỏa, hoặc bị tra tấn, tù
đày, vong gia bại sản”. (Nguyễn Văn Thọ, trg
13).
Tôi không nghĩ rằng có một tôn giáo nào Tích Cực
hơn thế. Và ở Việt Nam những người Việt Nam theo
đạo Gia-tô cũng rất Tích Cực!
IV. THIỀN ĐỊNH
Đức Giáo Hoàng: “Cảnh giác những người Thiên
Chúa Giáo đang nhiệt tình tập Thiền”. Thiền là
gì? Thiền nói một cách tóm gọn là một phương
pháp tập để làm cho Tâm bớt động, rồi không
động. Đức Phật có nói: “Tâm Bình Thế Giới Bình”
. Hành động bao giờ cũng là kết quả của Ý Nghĩ.
Nghĩ trước hành động sau. Nghĩ như thế nào thì
làm y như thế ấy. Cho nên hành động luôn luôn
phản ảnh rất trung thực những điều ta nghĩ.
Khi viết ra những điều bẩn để vu cáo bôi bẩn ai,
thì Tâm của người viết cũng bẩn y như thế.
Đọc văn, thì biết ngay người.
Tâm bẩn thì xã hội bẩn, Tâm loạn thì xã hội
loạn.
Tâm là gốc, tất cả đều từ Tâm mà ra. Trong gia
đình, một cái Tâm ích kỷ sẽ đưa đến ngoại tình,
gia đình đổ vỡ. Ngoài xã hội, một cái Tâm bất
chính sẽ đưa đến trộm cướp, hiếp dâm. Người có
quyền mà loạn Tâm, thì thế nào cũng xảy ra chiến
tranh, hay đâm chém nhau.
Tại sao lại có Thánh Chiến ? Tại vì những
người có khả năng gây chiến cũng nghĩ sai lầm
rằng Thượng Đế của họ mới là chính, tất cả những
dân không thờ Thượng Đế như họ đều là tà ma
ngoại đạo cần phải diệt trừ, gọi là để làm sáng
danh Chúa. Họ cũng tin rằng giết người để làm
sáng danh Chúa không những không có tội, mà còn
có công với Chúa, được Chúa ban cho nhiều Ơn
Phước, nên họ giết một cách tự nhiên vui vẻ.
Ở Việt Nam, dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm,
khi có thể giết người mà không bị xét xử, Cần
Lao Công Giáo đã giết được 300.000 người mà họ
vẫn thản nhiên như không.
Tâm là nguồn gốc của mọi hành động. Đây là một
sự thật hiển nhiên, không một lập luận, hay một
môn khoa học nào có thể bác bỏ, nhưng Giáo Hoàng
thì lại cho rằng chỉ cần Chúa thương là đủ.
Người nói: “Kết hợp với Thượng Đế không phải chỉ
bằng sự trong sạch mà thôi, mà là do Tình
Thương”.
Nhờ được Chúa Thương, nên Jeffrey Dahmer, một kẻ
giết người hàng loạt sau khi hiếp dâm họ, cũng
được lên Thiên Đàng. Nếu trên cái Thiên Đàng đó
có Jeffrey Dahmer, chắc chắn không bao giờ có
tôi.
Khi tin rằng theo đạo Chúa, thì Chúa cho lên
Thiên Đàng, dù phạm đủ thứ tội ác, thì tại sao
lại không phạm tội ác, ăn chơi cho sướng? Rồi
đằng nào thì cũng được lên Thiên Đàng. Sao lại
có một thứ tôn giáo chiều chuộng con người đến
như thế? Giáo điều này không ngăn ngừa tội ác,
biến cái xã hội mà chúng ta đang sống thành địa
ngục trần gian.
Người theo đạo Phật quan niệm hoàn toàn khác.
Người Phật tử chân chính lo tu Tâm, giữ gìn cho
Tâm trong sạch, không dám phạm tội ác, vì biết
rằng, nếu phạm tội ác, thì phải nhận hậu quả,
Phật không cứu được.
Tướng Giáp ngồi thiền,
link: http://hovuvovietnam.com/Ngoi-thien-cung-Tuong-Giap_tc_304_311_923.html
link: http://hovuvovietnam.com/Ngoi-thien-cung-Tuong-Giap_tc_304_311_923.html
Tầm quan trọng của Tâm cũng có thể chứng minh
được, một cách rất cụ thể:
a- Lấy hai ly nước phù sa. Một ly để yên. Còn ly
kia, ta lấy chiếc đũa khuấy lên hoài. Ly nước để
yên sẽ lóng cặn, và nước dần dần trở nên trong.
Còn ly nước động thì vẫn đục. Tập Thiền là để
làm cho Tâm yên tĩnh lắng trong. Khi tâm yên
tĩnh lắng trong, ta sẽ nhìn sự vật một cách rõ
ràng hơn. Vì vậy tập Thiền có thể làm cho con
người trở nên thông minh hơn, vì Tâm trong hơn.
Có những tên người mà ta quên mất, nhưng nếu
ngồi yên suy nghĩ lại, tự nhiên nhớ ra.
b- Ce sont les idées qui mènent le monde :
“Chính các ý nghĩ đã dẫn dắt thế giới”.
Tầm quan trọng của Ý Nghĩ đã được chứng minh
trong tuyên truyền, quảng cáo, và truyền đạo :
Tuyên truyền.
Là nói về chính trị. Khi còn chiến tranh lạnh,
Mỹ và Nga đều tìm cách ảnh hưởng tới sự suy nghĩ
của dân chúng đối phương. Hai bên đều muốn chinh
phục đầu óc của dân chúng đối phương. Tầm quan
trọng của thông tin, tuyên truyền, đã được hai
nước Mỹ - Nga chứng nhận, và được tờ U.S. News &
World Report số ra ngày 5/3/84, gọi là “Chiến
tranh luồng sóng”. Mỗi năm chi phí về thông tin
tuyên truyền của hai nước được ghi nhận là Mỹ
153,5 triệu, và Nga 700 triệu. Riêng để phá rối
hai đài phát thanh Radio Free Europe, và Radio
Liberty, Nga đã thiết lập 2.500 máy phá rối
luồng sóng điện, với chi phí 300 triệu cho mỗi
năm.
Quảng cáo.
Là làm cho người nghe tin, rồi mua hàng của
mình. Mỗi năm các nhà sản xuất hàng hóa, như xe
hơi…, đã chi phí hàng tỉ đôla cho quảng cáo. Các
đài truyền hình đều sống nhờ quảng cáo. Tùy theo
chương trình, mỗi một phút quảng cáo trị giá từ
100.000 đôla cho đến cả triệu. Năm 1986, nhân lễ
kỷ niệm 100 năm Tượng Thần Tự Do, mỗi phút quảng
cáo là 165.000 đôla. Năm 1995, mỗi phút quảng
cáo cho trận banh bầu dục Mỹ (football) là
1.000.000 đôla.
Truyền đạo.
Là làm cho người ta nghe, rồi tin theo đạo của
mình. Khi người ta đã nghe và theo mình, thì
tiếp tục nói nữa để người nghe tin theo mình
nhiều hơn. Cứ nói mãi, ngày này sang ngày khác,
thì người nghe sẽ triệt để tin theo mình, cho
đến một ngày, người nghe có thể chết cho đạo của
mình, dù đạo ấy có thể chỉ mê tín dị đoan.
Kinh thánh tiên đoán ngày tận thế. Những nhà
Thần học Nam Hàn theo đạo Giatô La Mã quyết định
rằng ngày tận thế sẽ tới vào nửa đêm 28/10/92.
Con chiên nghe theo Cha, bán nhà bán cửa, xin
nghỉ việc kéo đến nhà thờ chờ chết, để cùng nhau
lên Thiên Đàng. Nhưng sáng hôm sau, không thấy
gì cả, một con Chiên tức giận la lối: “Thượng Đế
lường gạt chúng ta” (God lied to us). Sau đây là
một chút tin tức:
“Các tín đồ kéo đến chật ních trong số hơn 150
nhà thờ trên toàn quốc, tin tưởng rằng họ sắp
sửa cùng nhau chia sẽ cái hạnh phúc được lên
Thiên Đàng trước khi trận chiến giữa quỷ Satăng
và Thiên Chúa xảy ra”.
(Devotees had crammed into more than 150
churches nationwide, convinced that they were
about to share the “rapture” of ascending to
heaven before Armageddon struck). (The Register,
Thursday, October 29,1992)
Cái ngày Tận Thế Trong Kinh Thánh có phải là
chuyện hoang đường, hoàn toàn mê tín dị đoan
không? Dân Á Châu thì còn tin, chứ dân Âu Châu
thì hết tin rồi.
Chết cho một ý nghĩ?
Sau đây là nhận định của tờ U.S. News & World
Report, số ra ngày 18/6/1990:
Vậy thì khi hỏi, ”cái gì làm cho biên giới các
Quốc Gia tồn tại” là thực sự hỏi, “cái gì làm
nên một Quốc Gia”. Câu trả lời gồm ba phần: sự
ngẫu nhiên của Lịch sử, sức mạnh của ý nghĩ, và
quyết tâm của dân chúng dám chết cho hai điều
trên”.
(So asking “What makes boundaties last?” is
really asking “What makes a nation?” The answer
is three things: Accidents of history, the
strength of ideas and the willingness of people
to die for the first two.)
“Rốt cuộc lại thì “Ý Nghĩ” đã làm cho các Quốc
Gia kết hợp lại với nhau, hay tan rã ra”. “Văn
hóa Pháp, Vương miện Anh và Ý nghĩ của các nhà
Lập quốc Mỹ, tất cả đều là một thứ keo rất mạnh
để kết hợp. Ngược lại sự vỡ nợ tinh thần của chủ
nghĩa Mác - Lê đã đưa Xô-viết Liên Bang ngày nay
đến bên bờ vực thẳm. Chế độ toàn trị, như hậu
quả đã cho thấy, là nó không thể buộc giữ mãi
mãi những giống dân không ưa nhau vào với nhau”.
(Ultimately, however, nations are held together
– or pulled apart – by ideas. French culture,
the British Crown and the ideas of America’s
Founding fathers all have provided strong glue.
Conversely, the intellectual bankcruptcy of
Marxism-Lenism has led to a run on the bank in
today’s Soviet Union. Totalitarianism, is
turning out, cannot hold unwilling peoples
together forever).
Người Phật tử lo tu Tâm, để trước hết góp phần
vào việc xây dựng một xã hội lành mạnh, người nọ
thương yêu người kia, vì tất cả đều ở cùng một
gốc mà ra.
“Một là Tất Cả. Tất Cả là Một”. Còn Niết Bàn chỉ
là phụ thuộc thôi, vì đó là hậu quả dĩ nhiên
phải đến khi người tu đã có một cái Tâm hoàn
toàn tĩnh lặng.
Về khoa học kỹ thuật, con người đã đỗ bộ được
lên mặt trăng. Nhưng con người không hiểu con
người. Ý Nghĩ ảnh hưởng tới hành động ra sao,
hình thành như thế nào, thì khoa học không thể
biết được. Nhà bác học có thể mổ con người ra để
nghiên cứu, tim, gan, phèo, phổi, nhưng không
thể mổ được tư tưởng. Phương pháp tập Thiền
hướng sự chú tâm vào tìm hiểu con người bên
trong có thể khám phá ra bản chất thực của con
người. Nhưng chỉ khi nào tâm tư thực lắng trong
thì mới tìm thấy được.
“Viết về một điều mà mình không biết, càng làm
cho người đọc thấy rõ là mình không biết”.
V. VẤN ĐỀ GIẢI GIA-TÔ
Sang Thiên niên kỷ thứ ba, nhiều nhà nghiên cứu
Âu Châu tiên đoán Giáo hội La Mã sẽ sụp đổ. Sau
đây là những nhận định của:
a. Henri Guillemin,
một nhà văn Pháp:
“Giáo hội này bây giờ đang sụp đổ được cai quản
bởi Giáo Hoàng kiểu Trung cổ, thì theo ý tôi, dù
có thay đổi kỹ thuật, Người cũng không thể làm
gì hơn được, để ngăn chặn cho nó không biến mất,
trên thực tế, và rất mau vào thiên niên kỷ thứ
ba, ít ra là dưới hình thức La Mã của nó. Một
lời tiên tri bi thảm. Một cuộc chẩn bệnh đau
đớn”.
(Cette Église qui, aujourd’hui, s’effondre est
régie par un pontife de type médiéval qui, même
s’il amendait sa technique, ne peut plus rien, à
mon sens, pour l’empêcher de disparaitre,
pratiquement et assez vite au cours du IIIème
millénaire, du moins sous sa forme romaine.
Tragique prophétie. Sinistre diagnostic!) (Paris
Match)
b. Jean Vernette,
Linh mục người Pháp :
“Từ khi Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta sống
trong thời đại của Cá, thời đại của văn minh
Gia-tô. Nhưng mà chúng ta đang đi không ngừng
nghỉ tới thời đại Bảo Bình, với sự tiêu tan của
đạo Gia-tô và sự khai sinh một nền văn minh hòa
hợp, hòa bình, và thống nhất toàn thể: một thời
vàng son đích thực”.
(Depuis la naissance de Jésus, nous vivions dans
l’ère des Poissons, qui a été celle de la
civilisation chrétiennne. Mais voici que nous
allons entrer incessamment dans l’ère du
Verseau, qui verra l’extinction du christianisme
et l’avènement d’une civilisation d’harmonie, de
paix et d’unité universelles: un véritable âge
d’or).
c. Guy Bechtel
(Nhà sử học). Khi báo Paris Match hỏi, “Theo ý
ông, thì sự xưng tội có còn tương lại không?”,
Guy Bechtel đã trả lời:
“Không. Không còn đủ linh mục để nghe người xưng
tội, như ngày trước. Thực ra thì tất cả tùy
thuộc vào quyết định của Giáo hội, vì Giáo hội
ngay lúc này đang bị rúng động bởi những tranh
cãi sôi nổi trong nội bộ. Có những người muốn
hiện đại hóa… Họ muốn từ bỏ quan niệm một Thượng
đế thích báo thù, tìm lại một Jésus hòa bình và
tha thứ, thỏa hiệp với khoa học”.
(Non. Il n’y aurait plus assez de prêtres pour
entendre les confessés, comme autrefois. En
fait, tout va dépendre de ce que l’Église
décidera de faire, car elle est actuellement
agitée en son sein par de graves débats. Il y a
ceux qui plaident pour le modernisme… Ils
voudraient renoncer à l’idée du Dieu vengeur,
retrouver un Jésus de paix et de pardon, se
réconcilier avec la science.
Paris Match No 2335, 24/2/1994).
d. Robert Serrou
(Paris Match)
« Récemment, dans un entretien au “Figaro”, le
cardinal Poupard, qui est. en quelque sorte, au
propre et au figuré, le Jack Lang de Jean-Paul
II, a mis les points sur les i: “Des pans de
motre mémoire religievse se sort effondrés”,
a-t-iI déclare,ù précisant que si les jeunes
Églises croissent avec une grande vitesse, comme
en Afrique ou en Asie, si le Marxisme-Léninisme
s’est effondré en Europe de l’Est – et Jean-Paul
II y a sa part, ô combien considérable, en
revanche l’Amérique Latine est confrontée à des
défis gigantesques, notamment à la formidable
offensive des sectes, et l’Europe occidentale et
l’Amérique du Nord sont bouleversées par une
crise culturelle d’une ampleur sans précédente.
En clair, cela signifie qu’en France, notamment,
la culture catholique religieuse d’un peuple qui
s’affirme catholique à 80% est au-dessous de la
barre des 10%-2% en certaines régions, qu’en
Ile-de-France moins de 50% des enfants sont
catéchisés, il y a de quoi s’inquiéter, car
jamais la situation n’a été aussi
catastrophique. »
« Mới đây, trong một cuộc nói chuyện ở tòa báo
“Figaro”, Đức Hồng Y Poupard, một người, theo
nghĩa đen và nghĩa bóng, giống như là Jack Lang
(Bộ Trưởng Giáo dục Pháp) của Jean-Paul II, đã
đặt dấu chấm lên những chữ i (để giải thích):
ông tuyên bố “từng mảng tường của Giáo hội chúng
ta sụp đổ”, và đã nói rằng nếu những Giáo hội
trẻ phát triển với một tốc độ rất mau, như ở
Châu Phi hay Châu Á, nếu chủ nghĩa Mác-Lê sụp đổ
ở Đông Âu - và Jean-Paul II đã góp công, thật
là lớn lao, thì trái lại Châu Mỹ La Tinh
phải đương đầu với những thử thách lớn lao, đặc
biệt là cuộc tấn công khủng khiếp của các giáo
phái, và Âu Châu và Bắc Mỹ bị đảo lộn bởi một
cuộc khủng hoảng văn hóa trên một mức độ lớn lao
chưa từng thấy. Nói một cách rõ hơn, điều này có
nghĩa là ở Pháp, văn hóa Gia-tô đang trên đà
biến mất. Nếu người ta biết rằng sự thực hành
tôn giáo của một dân tộc mà 80% theo đạo Giatô
bây giờ ở dưới mức 10% - 2% tại một vài vùng, và
ở Đảo Pháp Quốc (Paris và vùng phụ cận) dưới 50%
con nít học sách bổn, thì là một điều đáng lo
lắng, vì chưa bao giờ tình thế lại bi đát như
thế » .
Người ta thắc mắc hỏi, khi không tại sao Đức
Giáo Hoàng lại chỉ trích Phật giáo, mà Người
không hiểu rõ, gây ra phản ứng bất lợi. Mục đích
của Đức Giáo Hoàng không phải là chỉ trích Phật
giáo, mà là để cho người Âu Châu hiểu rằng Phật
giáo sai đấy, đừng có chạy theo, đừng có tập
Thiền.
Kể ra thì Người cũng có cái lý của Người. Chính
Người cũng đã xác nhận:
“The Dalai Lama, spiritual leader of the
Tibetans, is a well known figure in the West. I
have met him a few times. He brings Buddhism to
people of the Christian West, stirring up
interest both in Buddhist spirituality and in
its methods of praying. I also had the chance to
meet the Buddhist “patriarch” in Bangkok,
Thailand, and among the monks that surrounded
him there were several, for example, who came
from the United States. Today we are seeing a
certain diffusion of Buddhism in the West”.
“Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của
Tây Tạng, là một khuôn mặt rất quen thuộc ở Âu
Châu. Tôi có gặp Người một vài lần. Người mang
Phật giáo tới dân theo đạo Kitô ở Châu Âu, làm
gia tăng sự chú tâm tới Phật giáo và những đường
lối cầu nguyện của Phật giáo. Tôi cũng có dịp
gặp vị lãnh đạo Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan,
và trong những nhà sư bao quanh ông có rất nhiều
người, tỉ dụ như, đến từ nước Mỹ. Bây giờ ta
thấy một sự phát triển nào đó của Phật giáo ở Âu
Châu.”
Dalai Lama
thứ 14,
Đạo Giatô đang mất dần ảnh hưởng với dân Âu Châu.
Sau đây chỉ là một trong số rất nhiều tỉ dụ:
Catholics defecting in droves, church leaders
tell Vatican: Hundred of thousands of Roman
Catholics are abandoning their church for sects
or non-catholics churches, with more than 150
people a day making the switch in the United
States alone, cardinals reported Friday.
… Converts from Catholicism to other Christian
faiths have tripled in the Dominican Republic in
the past 30 years, risen by 500 percent in El
Salvador and Costa Rica, and swelled by 600
percent in Guatemala, Cardinal Ernesto Corripio
Ahumada of Mexico reported. (The Register,
Saturday, April 6/1991).
“Tín đồ Gia-tô đào ngũ từng loạt, các nhà lãnh
đạo Giáo hội đã trình lên Tòa thánh Vatican.” :
“Các Hồng Y đã báo cáo hôm Thứ Sáu rằng, hàng
trăm ngàn người theo đạo Gia-tô La Mã đã bỏ nhà
thờ để đi theo những Giáo phái hay những nhà thờ
không phải Gia-tô, và riêng tại Mỹ không thôi,
mỗi ngày có 150 người đổi đạo”.
“Hồng Y Ernesto Corripio Ahumada, Mexico, thì
báo cáo rằng, những người theo đạo Gia-tô đổi
theo những đạo Thiên Chúa khác đã tăng lên gấp
ba lần trong vòng 30 năm nay ở Dominican
Republic, lên 500% ở El Salvador và Costa Rica,
và 600% ở Guatemala.”
Tín đồ bỏ đạo nhiều như thế, không lẽ Người lại
không nhận ra. Người khôn lắm, cách đây vài năm
(năm 1988) Người đã phong cho 117 người, mà
khoảng 100 người là Việt Nam, làm Thánh Tử Đạo.
Người còn coi Việt Nam là Trưởng Nữ của Tòa
thánh ở Á Châu. Thật không còn gì sung sướng và
vinh dự hơn cho những người Việt Nam theo đạo
Gia-tô. Phong thánh là một cách để khuyến khích
người Việt Nam hăng say như đã hăng say hồi tổng
thống Diệm, trong công cuộc mở mang nước Chúa,
mà linh mục Hoàng Quỳnh là một tỉ dụ điển hình
với khẩu hiệu bất hủ: Thà mất nước, không thà
mất Chúa.
Vì thế, nếu những người anh em Giatô ruột thịt
của chúng ta với sự hỗ trợ của Tòa thánh Vatican
mà nắm được chính quyền, thì một màn mở mang
nước Chúa bằng máu và lửa lại có thể tái diễn.
Cứ xem thái độ dung hãn đánh phá Phật giáo của
họ ngay ở bên Mỹ này thì đủ rõ.
“Nhưng mưu sự tại nhân, mà thành sự tại Thiên”
(L’homme propose, Dieu dispose), nên âm mưu sắt
máu của họ không thể nào thành tựu được. Dù cho
họ có giết được vài trăm ngàn người Việt Nam anh
em của họ, để làm vừa lòng Tòa Thánh La Mã, thì
họ cũng không thể nào đảo ngược được phong trào
“Giải Giatô” trên thế giới, và đặc biệt
rất mạnh ở Pháp (La déchristianisation si
frappante en France), như đã được trình bày ở
phần trên.
Đạo Giatô rõ ràng là không còn đất bên Âu Châu
và Mỹ Châu, vì những dân ở đó không còn giữ được
đức tin thời Trung Cổ, nên Giáo Hoàng xoay sang
Á Châu. Trong dịp viếng thăm Phi Luật Tân hồi
trung tuần tháng 1/1995, Người đã tuyên bố:
“Tương lai Giáo hội Thiên Chúa giáo sẽ nằm tại
lục địa Á Châu”. (Việt Nam Quê Hương, Thứ Năm,
19/1/95).
Tại sao vậy? Tại vì dân Á Châu mình vẫn còn
nhiều… mê tín dị đoan, vẫn còn có thể tin rằng
dù phạm đủ thứ tội ác, nhưng nếu về với Chúa thì
vẫn được Chúa cho lên Thiên Đàng. Tôi không hiểu
sao cái giá phải trả để lên Thiên Đàng lại có
thể rẻ tiền đến thế. Đây là điều mà những người
Âu Châu văn minh, như William L.Shirer không còn
có thể tin được nữa.
Khi nói “Tương lai Giáo hội Thiên Chúa giáo sẽ
nằm tại lục địa Á Châu”, có lẽ Giáo Hoàng John
Paul II đã tiên tri rằng, đạo Gia-tô La Mã sẽ
trở thành mất gốc Ý hay Âu châu? Giáo Hoàng
tương lai sẽ là một người Á Châu, và có thể là
Phi Luật Tân. Dân Việt Nam mình chỉ có 10% theo
đạo Giatô so với 85% của Phi Luật Tân, không có
đủ Hồng Y để bầu ra một Giáo Hoàng người Việt.
Còn ở bên Tàu, theo ước tính của Tòa Thánh La
Mã, tất cả số người theo đạo Giatô, chỉ vào
khoảng từ 3 đến 5 triệu (The Register, ngày Chủ
Nhật, 15/1/95). Thủ Đô của Tòa thánh Vatican có
thể không còn ở La Mã bên nước Ý, mà ở Manila
bên Phi Luật Tân?
Chỉ tiếc rằng lời Tiên tri của Giáo Hoàng chỉ
đúng được có một nửa. Bởi vì một cái cây khi đã
mất gốc, thì ngọn cành cũng chỉ tồn tại thêm
được một thời gian ngắn nữa thôi. Làm gì còn
Tương Lai.
VI. TRÁCH NHIỆM CỦA TÔN GIÁO
Tom Paine cho rằng Tôn Giáo có trách nhiệm đem
lại Hạnh Phúc cho con người.
I believe the equality of man; and I believe
that religious duties consist in doing justice,
loving mercy, and endeavouring to make our
fellow creatures happy. (Tom Paine, Page 285).
“Tôi tin vào sự bình đẳng của con người; và tôi
tin rằng nhiệm vụ của tôn giáo là đem lại công
bằng, bác ái, và cố gắng làm cho đồng bào của
chúng ta hạnh phúc.”
Nguyên tổng thống George Bush cũng quan niệm
rằng phục vụ Dân mới là điều chính. Sau đây là
lời mở đầu bài diễn văn nhậm chức do tổng thống
đắc cử George Bush đọc trước cửa Tây của Quốc
Hội Hoa Kỳ, ngày Thứ Hai 20/1/1989:
“Cha ở trên Trời… xin cha giúp cho chúng con
mạnh để làm công việc của Cha, biết chú ý và
nghe theo ý muốn của Cha, xin cha ghi vào tim
chúng con những chữ: “Dùng quyền hành để phục vụ
Dân…” Chỉ có một cách sử dụng quyền hành đúng là
phục vụ Dân. Xin Cha giúp cho chúng con ghi nhớ.
Amen”.
(Heavenly Father… Make us strong to do your
work, willing to heed and hear your will, and
write on our hearts these words: “Use power to
help people”… There is but one use of power, and
it is to serve people, Help us remember, Lord.
Amen)
Thật đã hết sức rõ ràng, nhiệm vụ của mỗi người,
và của tôn giáo, là đem lại Hạnh Phúc cho người
khác. Nhưng nếu giảng dạy như thế thì không ai
theo cả. Phải làm cho người ta sợ, thì người ta
mới theo. Vì thế cần phải chế tạo ra một Thượng
Đế thật Ác, nhưng có quyền năng vô biên, có thể
cho người này lên Thiêng Đàng, đày người kia
xuống Hỏa Ngục. Không ai biết, khi chết thì đi
về đâu, nghe nói Hỏa Ngục, sợ quá, nên chọn
Thiên Đàng cho khỏe. Thế là họ khúm núm, sợ sệt,
“Tự nhận mình là kẻ có tội”, rồi cầu Chúa cho
lên Thiên Đàng, mà không ai biết ra sao cả! Khúm
núm sợ sệt cấp trên, nhưng đối với những người
yếu thế, thì họ lại tỏ ra rất hung hãn. Trong
đời sống xã hội của chúng ta, thái độ này được
mô tả là “Nịnh trên, Nạt dưới” hay “Đội
trên, Đạp dưới”. Viết như thế là gây chia rẽ
tôn giáo? Ai gây chia rẽ tôn giáo?
“Cầu nguyện”. Khi cầu nguyện để được lên
Thiên Đàng, họ đã Nhân cách hóa Thượng Đế, biến
một Thượng đế Công Bằng và Bác Ái, thành một ông
quan ăn hối lộ. Ai cầu xin nịnh bợ thì cho, ai
không thì trừng phạt. Như thế có phải là mê tín
dị đoan không? Chỉ béo mấy người buôn Thần bán
Thánh.
… All national
institutions of churches, whether Jewish,
Christian, or Turkish, appear to me no other
than human inventions, set up to terrify and
enslave mankind, and monopolize power and
profit. (Tom Paine, Page 285).
… “Tất cả những giáo hội quốc gia, dù là Do
Thái, Gia-tô hay Thổ, đối với tôi chỉ là những
thứ do con người chế tạo ra, được sắp đặt để
khủng bố và nô lệ con người, và để giữ độc quyền
quyền hành và thủ lợi.”
Dân Âu Châu cũng không còn tin vào cầu nguyện,
mà sau đây là nhận định của Tom Paine:
He takes on himself to direct the Almighty what
to do, even in the government of the universe;
he pray dictatorially; when it is sun-shine, he
prays for rain, and when it is rain, he prays
for sun-shine. He follows the same idea in every
thing that he prays for; for what is the amount
of all his mind, and act otherwise than he does?
It is as if he were to say – thou knowest not so
well as I. (Selected work of Tom Paine, The Age
of Reason. Page 302)
“Ông ta tự cho mình cái quyền hướng dẫn Đấng
Toàn Năng phải làm như thế nào, kể cả việc điều
hành Vũ Trụ; ông ta cầu nguyện độc đoán; khi
nắng thì cầu mưa, và khi mưa thì cầu nắng. Ông
ta cầu nguyện cho mọi việc theo cách đó; tất cả
những lời cầu nguyện ấy là gì, nếu không phải là
tìm cách làm cho Đấng Tối Cao thay đổi ý định,
và làm khác với những gì đang làm? Như thế có
phải là con người muốn bảo - Đấng Tối Cao không
biết rõ bằng tôi”.
Cầu nguyện có làm thay đổi xã hội đâu. Ở bên Âu
Châu, các nước đều thờ Chúa Giêsu làm Thượng Đế.
Khi còn Thế Chiến II, trước khi đoàn quân xuất
trận, linh mục Tuyên Úy đều đến làm phép lành,
rẩy nước Thánh, và đều tuyên bố: “Thượng Đế ở
bên chúng ta”. Thượng Đế biết ở bên nào? Ở bên
Đức - Ý chống lại với Anh - Mỹ - Pháp, hay ở cả
hai bên? Kết quả là hai bên tận tình bắn giết
nhau, ném bom nhau, làm cho khoảng 40 triệu
người chết tan thây, nhiều nhà thờ Chúa bị phá
hủy.
Thật đã rõ ràng, Thượng Đế không can thiệp vào
đời sống Quốc Gia hay cá nhân.
Mà là chính chúng ta. Muốn có một xã hội yên
vui, mỗi người chúng ta phải cố gắng góp phần
vào xây dựng.
VII. HÒA HỢP TÔN GIÁO
Để tiện so sánh hai tôn giáo, Thiên Chúa Giáo và
Phật giáo, sau đây là nhận định của linh mục
Jean Vernette (người Pháp), mà chúng tôi thấy vô
tư và hiểu biết hơn Giáo Hoàng về Phật giáo.
“ Đó là cách tiên đoán của tôi về thế kỷ XXI.
Đúng như Malreaux đã loan báo, người ta sẽ rất
sùng đạo, nhưng Thượng Đế của họ lại không
bắt buộc phải là Chúa Giêsu. Có lẽ chúng ta
sẽ chứng kiến một sự va chạm hàng đầu khác, sự
va chạm của hai nền văn hóa lớn, bắt nguồn từ
hai Thiên Tài tôn giáo - tôi muốn nói đến Gia-tô
Giáo và Phật giáo, đến Chúa Giêsu và Đức Phật.
Đức Phật, người khai sáng ra nhiều học thuyết
lớn về tôn giáo, như sự tái sinh, sự Phiếm Thần
(chủ thuyết này cho rằng, Thượng Đế hiện hữu
trong mỗi một thành phần của Vũ Trụ), mà chúng
ta vừa nói tới, và đã làm cho những người tin
vào New Age rất say mê. Và Chúa Giêsu, con một
của Thượng Đế hữu hình và sáng tạo, đã cứu chúng
ta một lần chót, ra khỏi sự chết”.
Car c’est ainsi que j’entrevois le XXIème
siècle. II sera bien religieux, comme
l’annoncait Malreaux, mais son Dieu ne sera pas
forcément celui de Jésus-Christ. Peut-être
assisterons-nous à une autre confrontation
majeure, celle de deux grandes cultures nées de
deux génies religieux – je veux parler du
Christianisme et du Bouddhisme, de Jésus et du
Bouddha. Le Bouddha, inspirateur des grands
thèmes religieux, réincarnation et panthéisme,
dont nous avons parlé tout à l’heure, et qui
séduisent tant les adeptes du New Age. Et Jésus,
Fils unique d’un Dieu personnel et créateur, qui
nous a sauvés une fois pour toutes de la mort …
(Paris Match, số 2152, ngày 23/8/1990).
Đức Phật có dạy, đời là vô thường, có Sinh thì
có Tử, không cái gì tránh khỏi. Một triều đại
Thịnh rồi Suy. Tôn giáo cũng phải đi theo chu kỳ
đó, hết Thịnh rồi đến Suy. Người ta nói đến thời
Mạt Pháp. Mạt Pháp là khi người theo đạo Phật
trở thành mê tín dị đoan, coi Phật như một Thần
Linh mà họ đến lễ lạy để cầu Phước, cầu An, mà
không nhớ lời Phật dạy về luật Nhân Quả, và
không thực hành hạnh Từ Bi với muốn loài, muôn
vật, bảo vệ sự Sống.
Đạo Gia-tô cũng không tránh khỏi sự đào thải,
khi không còn Sinh Lực, khi Kinh Thánh không còn
đáp ứng được nhu cầu Tâm Linh của con người
trong Thời Đại Mới, thời đại Khoa Học và Lý Trí.
Người Âu Châu không còn chấp nhận Kinh Thánh là
do Chúa Mặc Khải viết ra, vì trong Kinh có quá
nhiều điều sai lầm. Kinh Thánh không những chống
lại Khoa Học, mà còn phản bội Lý Trí, như được
trình bày thêm chi tiết, ở dưới đây:
1. REVELATION (MẶC KHẢI):
Each of those churches show certain books,
which they call Revelation, or the word of God.
The Jews say, that their word of God was given
by God to Moses, face to face; the Christians
say, that their word of God came by divine
inspiration; and the Turks say, that their word
of God (the Koran) was brought by an angel from
Heaven. Each of those churches accuses the other
of unbelief; and; for my own part, I disbelieve
them all.
… Revelation when applied to religion, means
something communicated immediately from God to
man.
No one will deny or dispute the power of the
Almighty to make such a communication, if he
pleases. But admitting, for the sake of a case,
that something has been revealed to a certain
person, and not revealed to any other person, it
is revelation to that person only. When he tells
it to a second person, a second to a third, a
third to a fourth, and so on, it ceases to be a
revelition to all those persons. It is
revelation to the first person only, and
hearsay to every other, and, consequently, they
are not obliged to believe it.
It is a contradiction in terms and ideas, to
call any thing a revelaton that comes to us at
second – hand, either verbally or in writing.
Revelation is necessarily limited to the first
com-munication- after this, it is only an
account of something which that person says was
a revelation made to him; and though he may find
himself obliged to believe it, it cannot be
incumbent on me to believe it in the same
manner; for it was not a revelation made to me,
and I have only his word for it that it was made
to him.
… The commandments carry no internal evidence of
divinity whith them; they contain some good
moral precepts, such as any man qualified to be
a lawgiver, or a legislator, could produce
himself, without having recourse to supenatural
intervention. ( Tom Paine, The Age of Reason,
Page 286-87)
“Mỗi một Giáo Hội đó (Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Hồi Giáo) đều dẫn chứng một số sách mà họ
gọi là “Mặc khải” (Revelation ), hay Lời của
Thượng Đế. Người Do Thái bảo, Lời Thượng Đế được
Thượng Đế trao cho Moses, mặt đối mặt; người
Thiên Chúa giáo bảo, lời Thượng Đế do nguồn cảm
hứng Thánh Thần, và người Thổ, Lời Thượng Đế
(Kinh Koran) được một Thiên Thần từ Trời mang
đến. Mỗi một Giáo Hội ấy điều kết tội là Giáo
Hội kia không có Đức Tin; và về phần tôi, tôi
không tin tất cả những Giáo Hội đó.
“Mặc Khải, khi liên quan tới tôn giáo, có
nghĩa là một cái gì được Thượng Đế truyền thẳng
cho người.
“Không ai chối cãi hay dị nghị về quyền năng của
Đấng Tối Cao để làm chuyện đó, nếu Người muốn.
Nhưng chấp nhận, riêng về một trường hợp, rằng
một việc gì đó đã được Mặc Khải cho một người
nào đó, mà không Mặc Khải cho bất cứ ai khác;
thì chỉ là sự Mặc Khải cho người ấy mà thôi. Khi
người ấy nói với người thứ hai, người thứ hai
với người thứ ba, người thứ ba với người thứ tư,
và cứ thế tiếp tục, thì không còn là Mặc Khải
với tất cả những người đó. Đó là sự Mặc Khải với
người thứ nhất mà thôi, và Nghe Nói với mỗi một
người khác, và, lẽ đương nhiên, họ không bắt
buộc phải tin.
“Gọi là Mặc Khải, một điều mà chúng ta
biết được qua trung gian, hoặc bằng lời nói hoặc
bằng chữ viết, là mâu thuẫn danh từ và ý nghĩa.
Mặc Khải chỉ giới hạn vào sự trao quyền cho
người thứ nhất - sau đó, chỉ còn là câu chuyện
mà người đó nói là Mặc Khải cho anh ta; và dù
anh ta có bổn phận phải tin, nhưng tôi không bắt
buộc phải tin như anh ta; bởi vì tôi không được
Mặc khải, mà chỉ nghe anh ta nói lại là anh ta
được Mặc Khải.
“Những điều răn không mang trong bản chất
một bằng chứng Thánh Thần gì; Nó có những luật
lệ Đạo Đức tốt, mà bất cứ một nhà làm luật nào,
hay một nhà tư pháp nào, cũng có thể làm được mà
không cần sự phụ giúp của Đấng Tối Cao”.
Có người hỏi một vị Bác Sĩ, Tại sao
nói bệnh AIDS? Anh ta không đồng ý với câu trả
lời có tính cách khoa học của Bác Sĩ, và bảo: “Chúa
sinh ra bệnh AIDS là để trừng phạt những kẻ Đồng
Tính Luyến Ái”. Anh ta không phải là Chúa,
sao có thể biết bệnh AISD do Chúa sinh ra? Chắc
anh ta lại được Mặc Khải?
2. PURGATORY (LUYỆN TỘI):
“The invention of
purgatory, and of the releasing of souls
therefrom, by prayers, bought the church whith
money, the selling of pardons, dispensations and
indulgencies, are revennuce laws, without
bearing that name or carrying that appearance …
If I owe a person money, and cannot pay him, and
he threatens to put me in prison, another person
can take the debt upon himself, and pay it for
me; but if I have committed a crime, every
circumstance of the case is changed ; moral
justice cannot take the innocent for the guilty,
even if the innocent would offer itself. To
suppose justice to do this, is to destroy the
principle of its existence, which is the thing
itself; it is then no longer justice; it is
indiscriminate revenge.” (Tom Paine, Page
300-301).
“Việc chế tạo ra Nơi Luyện Tội, rồi trả tự do
cho những linh hồn ở trong đó, bằng những lời
cầu nguyện, đem lại tiền bạc cho Giáo Hội; việc
bán giấy tha tội, miễn tố, hay án treo, là những
luật về thuế lợi tức, tuy rằng nó không mang tên
đó, hay có vẻ như thế.
“Nếu tôi nợ tiền ai, và không trả được, và
người đó dọa bỏ tù tôi, một người khác có thể
nhận nợ, và trả thay cho tôi; nhưng nếu tôi phạm
tội ác, thì mọi việc của vấn đề đều thay đổi; sự
công bằng về luật pháp không cho phép lấy một
người vô tội thay thế cho người phạm tội, dù
rằng người vô tội tự ý nhận đứng ra thay thế.
Cho rằng luật pháp cho phép làm như thế, là tự
hủy diệt nguyên nhân hiện hữu của luật pháp, và
chính luật pháp; khi đó thì không còn gì là luật
pháp; mà là sự trả thù mù quáng.”
3. SATAN (QUỶ SATAN)
”The Christian Mythologists, after having
confined Satan in a pit, were obliged to let him
out again to bring on the sequel of the fable.
He is then introduced into the Garden of Eden in
the shape of a snake or a serpent, and in that
shape he enters into familiar conversation with
Eva, who is no way surprised to hear a snake
talk; and the issue of this tête-à-tête is, that
he persuades her to eat an apple, and the eating
of that apple damns all mankind”. (Tom Paine,
Page 290).
“Những nhà Thần Học Kitô Giáo, sau khi nhốt
Satan vào trong một cái hang, lại phải bắt buộc
thả ra để câu chuyện được tiếp tục. Satan được
đem vào Vườn Địa Đàng dưới hình thức một con
rắn, và trong hình thức đó Satan nói chuyện thân
mật với bà Eva, bà lại không lấy làm lạ khi nghe
rắn nói; và hậu quả của sự gặp gỡ đó là Satan dụ
dỗ bà Eva ăn trái táo, và việc ăn trái táo đó
gây ra tội Tổ Tông”.
4. REDEMPTION (CỨU RỖI):
“I well remember, when about seven or eight
years of age, hearing a sermon read by a
relative of mine, who was a great devotee of the
church, upon the subject of what is called
Redemption by the death of the Son of God. After
the sermon was ended, I went into the garden,
and as I was going down the garden steps I
revolted at the recollection of what I had
heard, and thought to myself that it was making
God Almighty act like a passionate man, that
killed his son, when he could not revenge
himself any other way; and as I was sure a man
would be hanged that did such a thing.” (Tom
Paine, Page 316).
“Tôi nhớ rất rõ, năm lên bảy hay tám tuổi, tôi
có nghe một người bà con rất mộ đạo của Giáo
Hội, giảng về đề tài gọi là “Cứu Rỗi bằng cái
chết của Con Thượng Đế”. Sau khi bài
giảng kết thúc, tôi đi xuống vườn, và trong lúc
đang lần theo bậc thang, khi nhớ lại những gì đã
nghe được, tôi rất công phẫn và tự nghĩ, làm
như thế là coi rằng Thượng Đế Quyền Năng Vô
Biên hành động như một người ham mê, Thượng Đế
đã giết con, khi không thể trả thù bằng cách nào
khác; và tôi tin chắc rằng một người nào làm
như thế sẽ bị tội treo cổ”.
Thượng Đế nói là quyền năng vô biên, tại sao
không Cứu Rỗi được, mà lại phải cho con mình
chịu chết để chuộc tội? Chuộc tội với ai?
Thua quỷ Satan? Vì quỷ Satan hóa thành con rắn
biết nói, đã dụ dỗ được cho bà Eva ăn trái cấm?
Người ta cũng thắc mắc hỏi : Thượng Đế quyền
năng vô biên, tại sao lại sinh ra quỷ Satan, rồi
lại để cho quỷ Satan sống mãi, cạnh tranh tín đồ
với Thượng Đế? Theo Kinh Thánh những người không
theo Chúa phải sa Hỏa Ngục, nhưng hiện nay trong
số 5 tỉ người trên thế giới, chỉ có khoảng một
tỉ theo Thiên Chúa. Như thế là dân số của quỷ
Satan nhiều gấp 4 lần dân số của Chúa? Thượng Đế
lại thua quỷ Satan một keo nữa!
Chính vì thấy Hỏa Ngục và Satan thiếu hợp lý,
nên Giáo Hội Anh đã dẹp bỏ Hỏa Ngục và cho quỷ
Satan đi nghỉ phép dài hạn!
(Xin coi Bertrand Russel, Why I am not a
Christian). Ở bên Âu Châu, nhiều người không
những đã bỏ đạo, mà lại còn lên tiếng chống đối.
Chắc hẳn là họ phải có nhiều điều bất mãn với
Tòa Thánh và Giáo Hoàng. Sau đây là lời của Đức
Cha Eugen Drewermann, một nhà thần học người
Đức:
a. La religion est une chose trop importante
pour être confiée à des ecclésiastiques... Le
clergé tel qu’il m’apparait est une plaie. II
est totalement coupé des croyants... La position
de I’Église sur la contraception est absurde et
les déclarations du Pape irresponsables.
(Paris Match số 2296, ngày 27/5/1993).
"Tôn giáo là một vấn đề quá quan trọng để có thể
trao cho những ông thầy tu... Hàng giáo phẩm,
theo như tôi nhận xét, là một vết thương. Họ
hoàn toàn cắt đứt khỏi tín đồ... Lập trường của
Giáo Hội về vấn đề ngừa thai là vô lý, và
những tuyên bố của Giáo Hoàng là vô trách
nhiệm".
b. Je ne peux, par mon travail, que chercher à
donner du courage aux 80% d’Allemands
catholiques qui, sans moi, tourneraient le dos à
I’Église. Les gens partent, tour simplement. IIs
n’ont plus envie de discuter avec cette
institution. IIs sont résignés à n’en rien plus
attendre.
(Paris Match, số 2296, ngày 27/5/1993).
"Tôi chỉ có thể, bằng việc làm của tôi, tìm cách
đem lại can đảm cho 80% dân Đức theo đạo Gia-tô,
những người này, nếu không có tôi, sẽ quay lưng
lại với Giáo Hội. Họ bỏ Giáo Hội, giản dị có thế
thôi. Họ không còn muốn thảo luận gì với định
chế này nữa. Họ cam phận, không chờ đợi bất cứ
gì ở Giáo Hội".
Thế nhưng người Việt Nam mình vẫn giữ được Đức
Tin của thời Trung Cổ, lạc hậu đến mấy thế kỷ.
Người ta tuyên truyền bảo tôi chống Công Giáo.
Thế nào là chống Công Giáo? Phải chăng người ta
âm mưu cấm tôi nói lên Sự Thật, cấm tôi vạch ra
những sai lầm trong Kinh Thánh gây chia rẽ và
tang tóc cho Dân Tộc, và khi họ tàn sát hàng
100.000 đồng bào của chúng ta, hay bắn pháo binh
về làng Phật giáo để ép buộc dân đổi đạo, thì
tôi vẫn phải giữ yên lặng?
"Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hoà… đã bị cán bộ Cần
Lao giết (vì không chịu đổi đạo) rồi vu cho cộng
sản, phá hoại chế độ … đã được kiểm kê vào các
năm 1964 – 1965 là 300.000 người !" (Xem: Đảng
Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh, trang 133).
Ở bên Mỹ người ta bảo vệ sự sống cho cả loài
vật. Sợ loài Cú lông đốm (Spotted Owl) tuyệt
chủng, người ta cấm phá rừng tại những nơi có
loại Cú này sinh sống. Thế mà người mình lại âm
mưu tàn sát người mình. Tội nghiệp cho Dân mình
quá.
"Lạy Chúa tôi! Xin Chúa tha tội cho họ, họ không
biết điều họ làm" (Oh! My Lord. Please forgive
them, they know not what they do.) Các Giám Mục
ở Guatemala đã tỏ ra hết sức Lương Thiện
và Can Đảm, khi biên thư xin lỗi dân bản
xứ. Còn các Giám Mục Việt Nam? Nghĩ thật là buồn
và xót xa cho Dân Tộc mình.
Tôi nêu những sai lầm của đạo Gia-tô và việc tàn
sát những người ngoại đạo của Cần Lao Công Giáo,
không phải để trả thù. Đạo Phật là đạo của Từ,
Bi, Hỉ, Xả. Người Phật tử chân chính không bao
giờ trả thù. Trả thù chỉ gây thêm tang tóc, mà
cũng không làm cho người chết sống lại được.
Đạo Gia-tô chủ trương mở mang nước Chúa, bằng
máu và lửa, bằng lừa dối và hăm dọa, đã gây nên
những thảm sát vĩ đại trên thế giới và ở nước
ta. Nhưng đạo Phật thì không. Chúng tôi không có
một nước Phật để mở mang như quý bạn, nên chưa
bao giờ, và không bao giờ người theo đạo Phật
lại gây đổ máu để mở mang nước Phật. Quý bạn có
thể giết chúng tôi mỗi khi hoàn cảnh cho phép,
nhưng chúng tôi không bao giờ tìm cách giết lại
quý bạn. Có lẽ chúng tôi đã tiêu cực.
Khi nhắc lại những chuyện thảm sát ở nước chúng
ta, chúng tôi hy vọng rằng quý bạn sẽ suy nghĩ,
để không tái diễn việc tàn sát đồng bào của quý
bạn, phục vụ cho Tòa Thánh La Mã. "Nước mắt của
chúng sinh đổ ra vì khổ đau, từ đời này qua đời
khác, gom lại, đã nhiều hơn nước Đại Dương".
Đời, với Sinh, Lão, Bệnh, Tử, đã khổ rồi. Tại
sao chúng ta còn làm cho chúng ta đau khổ nữa.
Chống lại những quan niệm sai lầm làm nhân tâm
ly tán, anh em trong một nhà giết hại lẫn nhau,
dù những quan niệm sai lầm đó thuộc về chính
trị, hay tôn giáo, thì cũng có thể gây ra hiểu
nhầm và thù hận, nhất là khi sự sai lầm đã có từ
lâu đời. Nhưng tôi không thể, không chống lại
Tội Ác, không chống lại sự Thù Hận. Thù Hận là
nguyên nhân gây ra những Tội Ác khủng khiếp.
"Tất cả đều từ Tâm mà ra, tình thương cũng như
sự Thù Hận, nhưng Thù Hận là kẻ thù xấu xa nhất
của con người. Nó phá hủy tất cả mà không giải
quyết được gì".
Tout nait de l’esprit. I’amour comme la haine.
Or la haine est le pire ennemi de I’homme. Elle
détruit tout et ne résout rien.
(Dalai Lama. Paris Match, No 2533, 18/8/1994)
Chỉ vì ông Diệm đã căn dặn "Tôi bị giết, trả thù
cho tôi", nên dư đảng Cần Lao Công Giáo vẫn tìm
cách trả thù Phật giáo, mà họ cho là nguyên nhân
đưa đến cái chết của ông Diệm, chứ không phải vì
ông Diệm và gia đình ông đã tàn sát quá nhiều
người, nên quả báo nhãn tiền? Oâng Diệm đòi trả
thù, nhưng tôi xin ước nguyện: "Nếu tôi bị giết,
xin vợ con tôi, thân bằng quyến thuộc của tôi,
bạn bè tôi, cầu nguyện cho người giết tôi, Xóa
bỏ hận thù". Tôi không có ai là kẻ thù. Kẻ thù
của tôi là Tội Ác. Tôi chống lại Tội Ác, mà
không thù Người phạm tội.
Chúa dạy : "Thương Yêu Người Như Chính
Mình";"Không được giết người".
Phật dạy : "Có Lòng Từ Bi Với Muôn Loài Muôn
Vật"; "Không Được Sát Sinh".
Hai tôn giáo Thiên Chúa và Phật giáo gặp nhau ở
điểm chính đó. Nếu chúng ta cố gắng làm theo lời
Chúa dạy, Phật dạy, là có hòa hợp tôn giáo. Là
chúng ta tích cực góp phần vào việc xây dựng một
Thiên Đàng trên Trái Đất. Xin những người anh em
Gia-tô ruột thịt của chúng ta, cùng với chúng
tôi thực hiện cái Thiên Đàng ấy, mà linh mục
Jean Vernette gọi là một thời Vàng Son
Đích Thực.
Kinh cầu nguyện của chúng tôi : "Cầu xin
cho mọi người, mọi loài được sống trong Bình Yên
và Hạnh Phúc". Viết về hai tôn giáo lớn
như Thiên Chúa Giáo và Phật giáo không thể nói
hết trong vài chục trang. Đây chỉ là một vài ý
kiến đơn sơ mà thôi.
Trần
Văn Kha
0 nhận xét:
Đăng nhận xét