Một
sự thật không thể chối cãi là hiện giờ Mỹ không còn những chiến lược
kinh tế dài hạn – không còn hàng loạt các chính sách nhất quán để đảm
bảo sự cạnh tranh trong một quá trình lâu dài nữa.
Một
chiến lược đúng đắn nhất thiết phải vạch rõ được những ưu tiên phát
triển dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về thế mạnh cần phát huy, cũng như
những điểm yếu đe dọa tới sự thịnh vượng của nền kinh tế. Chiến lược đó
phải vạch ra được những việc cần làm và những việc tuyệt đối tránh.
Trong
quá trình xử lý khủng hoảng, trải nghiệm thực tế đã cho chúng ta một
bài học đắt giá rằng những bước đi ngắn, tạm thời để giải quyết vấn đề
cấp thiết trước mắt vẫn cần phải phù hợp và là trợ thủ đắc lực cho chiến
lược phát triển lâu dài.
Hệ
thống chính trị Hoa Kỳ không ngừng được cải cách trong nhiều năm trở
lại đây, nhưng có lẽ cũng chính vì thế mà đã làm lộ rõ sự thiếu tư duy
chiến lược của các nhà lãnh đạo liên bang. Và cũng vì như vậy mới dẫn
tới một thực tế là là các vị lãnh đạo chính phủ vừa rồi phản ứng với
những biến cố lớn một cách rời rạc, từng phần thay vì phát triển một
chiển lược dài hạn hé mở đã nhiều năm.
Quốc hội cũng như Cơ quan Hành Pháp[1] thực
hiện vai trò điều hành thông qua các chính sách với từng phạm vi có đôi
chút riêng biệt, chứ không phải vì mục tiêu chung là nâng cao tính cạnh
tranh. Cũng không một ứng cử viên nào đề xuất được bất cứ điều gì liên
quan mật thiết tới một chiến lược dài hạn; thay vào đó, họ đều diễn
thuyết hàng loạt những chính sách không mấy liên quan tới nhau.
Cả
đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đều tiếp cận vấn đề với các lập trường
chính trị hoặc hệ tư tưởng cũ rích mà nhiều trong số chúng đã tỏ ra
không còn phù hợp với thực tế ngày nay nữa.
Hơn
lúc nào hết, giờ chính là lúc nước Mỹ cần phá vỡ vòng tròn luẩn quẩn
này. Kinh tế Hoa Kỳ vẫn thể hiện quá trình vận hành tương đối ổn định,
tuy nhiên tính cạnh tranh liên tục của chúng ta đã trở nên hết sức mong
manh.
Hai
thập niên trở lại đây, Mỹ luôn đóng góp vào sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế thế giới với tỷ trọng 1/3 – một con số đáng kinh ngạc. Khi
bị cuộc khủng hoảng tài chính tấn công, thì tính cạnh tranh của các khu
vực còn lại của kinh tế Mỹ vẫn còn khá cao, với nhiều công ty hoạt động
mạnh mẽ tại thị trường toàn cầu. Tăng trưởng năng suất lao động vẫn tiếp
tục tăng với tốc độ vượt xa hầu hết các nước tiên tiến khác, và xuất
khẩu vẫn là bánh lái phát triển cho toàn bộ nền kinh tế.
Kỷ nguyên của những mối lo âu
Tuy
nhiên, sự thành công của chúng ta luôn đi kèm với sự bấp bênh, bất ổn
khó lường cho nhiều công dân Hoa Kỳ, thậm chí là nhiều năm trước cuộc
khủng hoảng. Sự lớn mạnh của những quốc gia như Trung Quốc hay Ấn Độ -
những đối thủ toàn cầu thực sự mới nổi dậy - đã làm dấy lên những e ngại
sâu sắc tới vấn đề tiền lương và việc làm tại Mỹ.
Mặc
dù không mấy ai có thể phủ nhận rằng trong số những quốc gia phát
triển, Mỹ vẫn là một thị trường dẫn đầu trong việc tạo ra công ăn việc
làm cho người dân, nhưng mức biến động công việc cao (hàng năm khoảng 30
triệu công việc bị mất đi do tái cơ cấu) làm nhiều công dân Hoa Kỳ tỏ
ra lo lắng cho tương lai, tiền lương hưu, cũng như việc dịch vụ chăm sóc
y tế của họ.
Mặc
dù chất lượng cuộc sống của người dân ở tất cả các mức thu nhập đều có
những cải thiện đáng kể trong vài thập niên trở lại đây; và mặc dù ở Mỹ
vẫn tồn tại những mảnh đất - nơi những công dân có thu nhập thấp có được
cơ hội tốt nhất để leo lên nấc thang kinh tế cao hơn; nhưng cùng với đó
bất bình đẳng cũng ngày càng gia tăng. Chính điều này đã làm cho nhiều
người dân Mỹ hoài nghi về toàn cầu hóa.
|
Nước Mỹ sẽ lại phải vạch ra được những chiến lược kinh tế dài hạn
Ảnh: wildmanandassociates.com
|
Để
xoa dịu bối cảnh chứa nhiều mâu thuẫn này, việc phải đánh giá xem hiện
tại Mỹ thực tế đang đứng ở vị thế nào là vô cùng cần thiết. Nền kinh tế
Hoa Kỳ trở nên phồn thịnh như bấy lâu nay chính là nhờ quốc gia này may
mắn được sở hữu một loạt những thế mạnh cạnh tranh độc nhất vô nhị.
Bảy thế mạnh cạnh tranh độc nhất vô nhị
Trước tiên, phải kể đến môi trường thuận lợi không đâu sánh bằng của
Mỹ dành cho các công ty mới thành lập, khuyến khích tinh thần khởi
nghiệp mạnh mẽ.
Thứ hai,
hoạt động sản xuất kinh doanh ở Mỹ được hỗ trợ đắc lực bởi khoa học,
công nghệ, những phát minh tiên tiến mà cho đến nay vẫn chưa nước nào
theo kịp. Trong khi các quốc gia khác không ngừng tăng chi tiêu dành cho
nghiên cứu và phát triển (R&D), thì Hoa Kỳ lại tập trung phát huy
thế mạnh trong việc thu hút những phát minh mà họ không nghiên cứu được,
đồng thời nhanh chóng đưa những phát minh này ứng dụng vào việc sản
xuất các sản phẩm thương mại.
Năm
2007, những nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đăng ký khoảng 80.000 bằng phát minh
sáng chế tại hệ thống cấp bằng, trong đó hầu hết tất cả các công nghệ
quan trọng - dù chúng được phát triển tại bất kì quốc gia nào - đều được
đăng kí. Con số tám vạn bằng phát minh sáng chế được cấp này nhiều hơn
tổng số bằng của tất cả các nước còn lại trên toàn cầu.
Thứ ba,
Mỹ có được một hệ thống giáo dục đào tạo tốt vào bậc nhất thế giới, và
những tổ chức đào tạo của Mỹ vẫn đang tiếp tục phát triển. Họ cung cấp
cho sinh viên những kĩ năng cao cấp, và điều đó làm cho các tổ chức giáo
dục nơi đây trở thành những cục nam châm thu hút nhân tài từ khắp toàn
cầu tụ họp về đây.
Thứ tư,
từ trước tới nay, Mỹ vẫn luôn là đất nước có quan điểm ủng hộ mạnh mẽ
nhất với cạnh tranh và tự do hóa thị trường. Chính điều này đã nâng tốc
độ tăng trưởng năng suất lao động, tái cơ cấu và đổi mới cải cách tại Mỹ
lên một cấp độ đáng kinh ngạc.
Thứ năm, nhiệm vụ thiết lập chính sách kinh tế và đưa chúng vào thực tiễn được phân cấp rõ rệt xuống tất cả các bang và khu vực.
Trên
thực tế, không thực sự tồn tại một nền kinh tế Mỹ đơn lẻ, mà thay vào
đó là một tập hợp thống nhất những nền kinh tế khu vực chuyên biệt – chỉ
cần nghĩ tới thế giới giải trí tại Hollywood hay ngành sinh học tại
Boston là có thể thấy rõ vấn đề. Mỗi một khu vực có những những cụm công
nghiệp riêng, với những kĩ năng và tài sản riêng biệt.
Cũng
như vậy, mỗi bang, mỗi vùng đều chủ động trong việc tự chịu trách nhiệm
về tính cạnh tranh của mình cũng như trong việc giải quyết các vấn đề
riêng của mình thay vì thụ động ngồi chờ Chính phủ. Có thể nói sự phân
quyền này là thế mạnh cạnh tranh tiềm ẩn lớn nhất của Hoa Kỳ.
Thứ sáu,
lịch sử phát triển đất nước cho thấy: từ trước tới nay, Mỹ vẫn luôn là
nước có khả năng tốt nhất trong việc tận dụng lợi ích tối ưu từ những
thị trường tư bản vốn hoạt động hiệu quả nhất của bất kì quốc gia nào
trên thế giới, đặc biệt là vốn rủi ro.
Cũng
chỉ có ở Mỹ mới có những bạn trẻ kiếm ra hàng triệu đô la, nhưng rồi có
thể mất hết chúng trong một giây, và rồi lại bắt đầu trở lại với một
khởi đầu mới bằng một công ty khác.
Cuối cùng, không thể không kể đến nguồn động lực sẵn có và một sức bật đáng nể mà Mỹ sở hữu và họ đang tiếp tục tận dụng, phát huy.
Thiện
chí dành cho công cuộc tái thiết, sự sẵn sàng gánh lấy tổn thất và lòng
hăng hái tiến lên phía trước sẽ là những nhân tố giúp chúng ta vượt qua
sóng gió do cơn khủng hoảng gây ra; và chúng ta sẽ làm tốt hơn hầu hết
các quốc gia khác.
Những giá trị bị xói mòn
|
Nước Mỹ có những thế mạnh cạnh tranh
riêng, nhưng hiện nay những điều đó
đang dần mất ưu thế
Ảnh: www.silver-fox-consultants.com
|
Tuy nhiên, những nguồn lực chắp cánh cho thành công của
nước Mỹ cũng đang bắt đầu xói mòn. Những thế mạnh dần bị che mờ, thậm
chí bị xóa bỏ bởi sự thất bại của hàng loạt các chính sách, trong khi đó
tính cạnh tranh của những quốc gia khác lại đang ngày càng được nâng
cao.
Nói
như vậy không không có nghĩa là chỉ nhằm tập trung vào sự thật là các
nước khác đang đe dọa tới Hoa Kỳ, mà thực ra chính là Hoa Kỳ đang thiếu
một chính sách nhất quán, dài hạn để đối mặt và giải quyết những thách
thức của chính mình.
Tỷ
lệ tái đầu tư vào khoa học và công nghệ dưới mức cần thiết đang gây hại
cho hệ thống đào tạo, nơi cung cấp nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp.
Nghiên cứu và phát triển (R&D) – với vai trò như một thành tố cấu
thành GDP – đã thực sự giảm, cùng lúc đó, ở nhiều nước khác thì lại tăng
lên. Những nhà hoạch định chính sách liên bang có nhận thấy vấn đề này,
nhưng khi bắt tay vào giải quyết thì lại thất bại.
Niềm
tin của người Mỹ vào sự cạnh tranh cũng đang bắt đầu suy yếu. Việc nới
lỏng dần các quy định pháp lý về chống độc quyền đã tạo điều kiện cho
những con kình ngư sau khi sáp nhập thống trị toàn bộ thị trường.
Mà
trớ trêu thay, những vụ hợp nhất, sáp nhập này lại vẫn thường được biện
minh bằng thuyết “thị trường tự do”. Và nước Mỹ đang can thiệp ngày
càng nhiều vào sự cạnh tranh, cùng với đó là sự gia tăng các chế độ ưu
đãi cùng với lập trường bảo hộ mậu dịch.
Rất
ít công dân Hoa Kỳ biết được được rằng Mỹ chỉ xếp thứ 20 trong danh
sách những nước có độ mở lớn nhất với dòng lưu chuyển tư bản, thứ 21
trong số các quốc gia có hàng rào thương mại thấp nhấp, và thứ 35 về nỗ
lực làm giảm tình trạng thương mại bị bóp méo thông qua biện pháp thuế
quan và trợ cấp (theo số liệu Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008 – Global Competitive Report[2]).
Chúng ta đang nhanh chóng biến thành một nước có diện mạo nền kinh tế
bị bóp méo – nền kinh tế mà chúng ta bấy lâu nay vẫn kịch liệt phê phán.
Hoạt
động giám sát, điều tiết thiếu chặt chẽ cùng với các yêu cầu về vốn
thấp, trên danh nghĩa tự do hóa và những nỗ lực đầy thiện chí nhằm mở
rộng tín dụng cho người dân với mức thu nhập thấp, đã làm xói mòn toàn
bộ thị trường tài chính. Như vậy, liệu Hoa Kỳ của chúng ta có đang quản
lý theo kiểu: nhất bên trọng, nhất bên khinh?
Các
trường Đại học và Cao đẳng chính là những tài sản quý giá, mặc dù vậy,
chúng ta lại chưa hề lên một kế hoạch nghiêm túc nào nhằm nâng cao khả
năng giúp công dân của mình tiếp cận dễ dàng hơn với những tài sản này.
Hiện
tại, hệ thống giáo dục cấp ba (tức là cấp đại học và sau đại học) dành
cho nhóm những người từ 25 tới 34 tuổi của Mỹ đang khiêm tốn xếp ở vị
trí thứ 12 trên toàn thế giới. Suốt 30 năm qua, không giống như hầu hết
các quốc gia khác, chúng ta vẫn chưa đạt được nhiều sự tiến triển nào
trong lĩnh vực tối quan trọng này.
Đây
là một xu hướng thực sự đáng lo ngại giữa bối cảnh một nền kinh tế nhất
thiết đòi hỏi phải có những kỹ năng nhất định để đánh giá các kết quả
một cách xứng đáng.
Thay vì tạo dựng một chương trình thiết thực, cụ thể mở rộng tiếp cận với giáo dục đại học, giống như chương trình GI. Bill[3] của Bộ Cựu chiến binh hay Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ[4] đã bắt đầu từ nhiều năm trước,
Quốc hội của chúng ta lại quá tập trung vào việc tăng chi tiêu dưới
hình thức cấp vốn cho những trường đại học danh tiếng bậc nhất.
Chính
phủ liên bang cũng không mấy thành công trong việc nhìn nhận và có
những hỗ trợ hiệu quả trong quá trình phân quyền và chuyên biệt hóa theo
từng khu vực, những yếu tố mang tính chất chèo lái nền kinh tế của
chúng ta. Washington vẫn thực hiện vai trò của mình như thể hoạt động
của họ diễn ra ở nơi nào thì nơi ấy hoạt động vẫn ở tầm vĩ mô – tức ở
cấp liên bang.
Những
quan chức cấp cao có thể rót từ trên xuống dưới hàng nhiều tỷ đô la,
chủ yếu dành cho những chương trình phát triển kinh tế của liên bang khá
rời rạc. Dù vậy nhưng những đề án này lại không thể phác họa, làm rõ
mục tiêu hỗ trợ từng khu vực cụ thể; cũng vì thế mà tiền của họ không
tới được những nơi mà nó có tiềm năng phát huy ảnh hưởng lớn nhất.
Lấy
ví dụ như các cộng đồng ở thành thị chẳng hạn, nơi đây là tập hợp của
nhiều công dân Hoa Kỳ rơi vào cảnh bần cùng, cơ cực, nơi đây họ đang
ngày ngày ngóng chờ sẽ có những khoản tiền cần thiết được rót xuống để
phát triển thị trường việc làm. Tôi phải nhắc lại để các bạn nhớ: Chúng
ta vẫn đang thiếu những tư duy chiến lược.
Vào
một thời điểm khi mà sự bất ổn và những biến động về việc làm đang lên
tới đỉnh điểm trong lịch sử, thì Mỹ lại rũ bỏ trách nhiệm của mình trong
việc mang tới cho các công dân sự bảo vệ đáng tin cậy, giúp họ trải qua
giai đoạn chuyển đổi khó khăn này.
Cũng
chính vì thế mà chẳng có gì đáng nghi ngờ khi ngày càng nhiều người Mỹ
trở thành những người theo trường phái dân túy hay phái bảo hộ mậu dịch
trong nước; và càng ngày càng tỏ ra nhẫn nhịn, thậm chí là khoan dung,
trước sự can thiệp tai hại từ phía cấp quản lý vào nền kinh tế nước nhà.
Hệ
thống đào tạo việc làm thì gần như bị vô hiệu, mỗi năm đều nhận được ít
nhiều hỗ trợ cấp vốn từ trên xuống. Sự đảm bảo an toàn cho tiền lương
hưu cũng đang bị xói mòn, và biện pháp hiện hữu nhất để nâng cao an ninh
xã hội - có lẽ là điều chỉnh từ từ theo hướng kéo dài tuổi về hưu – vẫn
chưa được thực hiện.
Bất
kì một người Mỹ nào cũng có mối quan tâm đặc biệt tới khả năng tiếp cận
với các dịch vụ an sinh xã hội như bảo hiểm y tế chẳng hạn. Lẽ ra
Washington có thể đưa ra một vài biện pháp hỗ trợ cơ bản như cân bằng
các khoản khấu trừ thuế của loại hình bảo hiểm cá nhân để giúp đỡ những
người chưa được ông chủ của mình mua bảo hiểm cho. Tuy nhiên, cho đến
giờ, Chính phủ cũng đã thất bại trong việc này.
- Bài viết của Michael E. Porter trên tạp chí BusinessWeek, bài được điểm trên HBS In the New -
[1] Executive
Branch – Cơ quan Hành pháp: Đứng đầu là Tổng thống, theo sau tổng thống
là các bộ trưởng; là cơ quan có trách nhiệm điều hành đất nước dự trên
những qui định của luật pháp.
[2] Báo cáo cạnh tranh toàn cầu là một bản tin hàng năm được xuất bản bởi Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF - World Economic Forum)
phát hành lần đầu vào năm 1979. Báo cáo này “nhằm đánh giá khả năng
cung cấp mức độ thịnh vượng cao hay thấp đối với dân chúng ở mỗi quốc
gia, trong đó có công bố “chỉ số cạnh tranh quốc gia” (GCI - Global Competitiveness Index)
nhằm đo lường khuynh hướng của các thế chế, chính sách, những nhân tố
tạo thành trạng thái hiện thời & những mức giới hạn về trạng thái
thịnh vượng kinh tế.
[3] "G.I.
Bill" là một đạo luật mới, do Tổng thống Bush kí hồi tháng 6 cùng lúc
với việc ban hành đạo luật ngân sách, trong đó kinh phí quốc phòng $162
tỷ gia tăng kinh phí dành cho quyền lợi giáo dục của những cựu chiến
binh đã phục vụ từ sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, mốc đánh dấu ngày nước
Mỹ bắt đầu cuộc chiến chống khủng bố.
[4] Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (The US. National Science Foundation – NFS)
là một cơ quan của Mỹ chuyên tài trợ cho các cho các công trình nghiên
cứu phi y học; nguyên giám đốc thứ 12 của NFS là ngài Arden L. Bement.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét