| Lượt xem: 14095
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI.
Trong
nền kinh tế thị trường hiện nay có sự tham gia của rất nhiều doanh
nghiệp vào cùng một lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp sản xuất không
thể bán (hoặc khó có thể bán) trực tiếp sản phẩm của mình đến tay người
tiêu dùng cuối cùng, mà họ phải sử dụng đến "các trung gian Marketing".
Thông qua các trung gian, hàng hoá được phân phối đến tay người tiêu
dùng một cách hiệu quả nhất, thoả mãn tốt hơn mục tiêu của doanh nghiệp
và nhu cầu của khách hàng. Chính những người làm nhiệm vụ phân phối
trung gian này đã tạo nên hệ thống kênh phân phối sản phẩm của doanh
nghiệp, đây là một trong 4 yếu tố quan trọng bậc nhất của hệ thống
Marketing - Mix.
Hệ thống Marketing - Mix được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ1 : Các yếu tố cấu thành hệ thống Marketing - Mix
1.1.1. Khái niệm kênh phân phối.
Có
rất nhiều khái niệm về hệ thống kênh phân phối. Tuỳ theo những góc độ
nghiên cứu khác nhau, người ta có thể đưa ra những khái niệm khác nhau
về kênh phân phối.
Xét
ở tầm vĩ mô, kênh phân phối được coi là con đường vận động của hàng hoá
và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Dưới góc độ của người
tiêu dùng, kênh phân phối là tập hợp những trung gian nên họ phải mua
sản phẩm với giá cao hơn giá của người sản xuất. Còn đối với người sản
xuất, người muốn tổ chức hệ thống kênh phân phối là sự tổ chức các quan
hệ bên ngoài (chuyển quyền sở hữu, đàm phán…), nhằm thực hiện hoạt động
phân phối sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp theo cách thức, chính sách
của doanh nghiệp đặt ra.
Xét
dưới góc độ quản lý, kênh phân phối được xem như là một lĩnh vực quyết
định trong Marketing. Kênh phân phối được coi là "một sự tổ chức các
tiếp xúc bên ngoài để quản lý các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu
phân phối của nó". Điều này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của "quan
hệ bên ngoài", "sự tổ chức kênh", "các hoạt động phân phối"…
1.1.2. Vai trò hệ thống kênh phân phối trong hoạt động Marketing của doanh nghiệp.
Vấn
đề tiêu thụ giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường
sản phẩm gì, với giá bao nhiêu mà còn đưa sản phẩm ra thị trường như
thế nào? Đây chính là chức năng phân phối của Marketing. Chức năng này
được thực hiện thông qua mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
Các
kênh Marketing làm nên sự khác nhau giữa các doanh nghiệp. Phát triển
các chiến lược Marketing thành công trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt ngày nay là một công việc khó khăn, phức tạp. Việc đạt được lợi thế
về tính ưu việt của sản phẩm ngày càng trở nên khó khăn. Các chiến lược
về cắt giảm giá không chỉ nhanh chóng và dễ dàng bị copy bởi các đối
thủ cạnh tranh mà còn dẫn đến sự giảm sút hoặc bị mất khả năng có lợi
nhuận. Các chiến lược quảng cáo và xúc tiến sáng tạo thường chỉ có kết
quả trong ngắn hạn và bị mất tác dụng trong dài hạn. Vì vậy, dễ hiểu là
các nhà quản lý Marketing ở mọi loại doanh nghiệp kể cả lớn lẫn nhỏ đều
đang dồn tâm trí của họ để tìm ra cái mà các chiến lược Marketing phải
dựa vào để trạnh tranh. Có thể đã đến lúc họ phải tập trung sự chú ý
nhiều hơn vào các kênh Marketing của họ như là cơ sở cho sự cạnh tranh
có hiệu quả trên thị trường. Hàng ngàn công ty đang thấy rằng, để cạnh
tranh thành công họ không phải chỉ cung cấp sản phẩm và dịch vụ tốt hơn
người cạnh tranh mà còn phải làm tốt hơn khả năng sẵn sàng của
chúng ở những địa điểm xác định, khi nào và như thế nào mà người tiêu
dùng muốn chúng. Chỉ có qua các kênh Marketing, những khả năng này mới
được thực hiện. Có ba vấn đề lớn trong nền kinh tế tác động trực tiếp
tới hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Thứ nhất là phải làm phù hợp
giữa sản xuất chuyên môn hoá theo khối lượng lớn với nhu cầu đặc biệt đa
dạng. Quá trình làm phù hợp này giải quyết sự không thống nhất về số
lượng phân loại và nghiên cứu trong suốt quá trình phân phối. Vấn đề thứ
hai là sự khác nhau về không gian, liên quan đến việc vận tải sản phẩm
từ địa điểm sản xuất tới địa điểm tiêu dùng. Vấn đề thứ ba là phải tạo
ra sự ăn khớp cung cấp với nhu cầu khi chúng tập trung vào những thời
điểm khác nhau. Mỗi doanh nghiệp đều phải đối mặt và giải quyết tốt
những vấn đề này trong hệ thống phân phối của mình.
Phân
phối là một trong 4 yếu tố trong mô hình chiến lược Marketing-Mix. Mô
hình chiến lược nổi tiếng này cung cấp mô hình cơ bản để xem xét kênh
Marketing. Mô hình Marketing - Mix dùng trong quá trình quản lý
Marketing là một hỗn hợp các chiến lược gồm 4 biến số Marketing có thể
điều chỉnh cơ bản đáp ứng nhu cầu thị trường mà doanh nghiệp hoạt động,
trong đó có các nhân tố môi trường không thể điều khiển bao gồm các lực
lượng môi trường chính như kinh tế - văn hoá - xã hội, cạnh tranh, luật
pháp, kỹ thuật. Công việc chính của quản lý Marketing là điều khiển các
mục tiêu tiềm năng và phát triển cho phù hợp, phối hợp các chiến lược
sản phẩm, giá cả, xúc tiến và phân phối để thoả mãn những thị trường này
trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Quản
lý kênh Marketing là một trong những chiến lược chính của quản lý
Marketing. Người quản lý phải phát triển, điều hành các tổ chức liên kết
bên ngoài (kênh Marketing) theo cách hỗ trợ và nâng cao hiệu quả của
các biến số chiến lược khác của Marketing - Mix nhằm đáp ứng nhu cầu của
các đoạn thị trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên chiến lược phân phối
thành công cần tạo nên lợi thế cạnh tranh và quan trọng là điều kiện để
phát huy các biến số chiến lược khác của Marketing - Mix.
1.1.3. Các dòng chảy trong kênh Marketing .
Khi
một kênh Marketing đã được phát triển, nhiều dòng chảy xuất hiện trong
nó. Những dòng chảy này đủ sự kết nối và ràng buộc các thành viên trong
kênh và các tổ chức khác với nhau trong phân phối hàng hoá và dịch vụ.
Từ quan điểm quản lý kênh, những dòng chảy quan trọng nhất là:
+ Dòng chảy sản phẩm.
+ Dòng chảy thương lượng (đàm phán).
+ Dòng chảy quyền sở hữu.
+ Dòng chảy thông tin.
+ Dòng chảy xúc tiến.
+ Dòng chảy tiền tệ.
Sơ đồ2 : Dòng chảy chính trong kênh Marketing phân phối hàng tiêu dùng.
Sơ đồ 3: Dòng chảy chính trong kênh Marketing phân phối công nghệ.
-
Dòng chảy sản phẩm: thể hiện sự di chuyển vật chất thực sự của sản phẩm
về không gian và thời gian, qua tất cả các thành viên tham gia vào quá
trình này từ địa điểm sản xuất tới địa điểm tiêu dùng cuối cùng.
-
Dòng đàm phán: biểu hiện sự tác động qua lại lẫn nhau của các bên mua
và bán liên quan đến quyền sở hữu sản phẩm. Các nhận thức rằng công ty
vận tải không nằm trong dòng chảy này vì nó không tham gia vào đàm phán.
Đồng thời cũng phải thấy rằng đây là dòng hai chiều chỉ rõ đàm phán
liên quan đến sự trao đổi song phương giữa người mua và người bán ở tất
cả các cấp của kênh.
-
Dòng chảy quyền sở hữu: thể hiện sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm từ
người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Ở đây, lại một lần nữa
công ty vận tải không nằm trong dòng chảy này vì nó không sở hữu sản
phẩm trong quá trình vận chuyển, nó chỉ tạo thuận lợi cho sự trao đổi.
-
Dòng chảy thông tin: Chúng ta thấy rằng Công ty vận tải xuất hiện ở
dòng chảy này và dòng thảy thông tin từ người sản xuất đến người diêu
dùng cuối cùng đều là thông tin hai chiều. Tất cả các thành viên đều
tham gia vào dòng thông tin và các thông tin này được chuyển qua lại
giữa từng cặp thành viên. Phần lớn các thông tin này liên quan đến mua,
bán và xúc tiến, đến số lượng, chất lượng hàng hoá, thời gian, địa điểm
giao nhận hàng, thanh toán v.v…
-
Dòng chảy xúc tiến: thể hiện sự hỗ trợ về truyền tin sản phẩm của người
sản xuất cho tất cả các thành viên kênh dưới hình thức quảng cáo, bán
hàng cá nhân, xúc tiến bán hàng và quan hệ công cộng. Ở đây có sự tham
gia của các đại lý quảng cáo cung cấp và thực hiện các dịch vụ quảng
cáo. Người sản xuất và đại lý quảng cáo sẽ làm việc cùng nhau để phát
triển các chiến lược xúc tiến hiệu quả trong kênh.
Nội
dung của các dòng chảy trong kênh cung cấp cơ sở khác nhau để phân biệt
giữa quản lý phân phối vật chất và quản lý kênh. Quản lý kênh liên quan
đến quản lý tất cả các dòng chảy trong khi quản lý phân phối vật chất
chỉ liên quan đến quản lý dòng chảy sản phẩm.
Mặt
khác, nội dung các dòng chảy của kênh cung cấp cơ sở khoa học để phân
biệt các thành viên của kênh khỏi các doanh nghiệp không phải thành
viên. Chỉ có những ai có liên quan đến chức năng đàm phán về mua, bán và
chuyển quyền sở hữu mới được xác định là thành viên của kênh Marketing.
Từ quan điểm các dòng chảy của kênh chỉ các thành viên tham gia vào
dòng chảy đàm phán và chuyển quyền sở hữu mới là các thành viên của kênh
Marketing.
Từ
quan điểm quản lý, nội dung các dòng chảy của kênh cung cấp khung làm
việc rất hữu ích để hiểu phạm vi và tính phức tạp của quản lý kênh. Bằng
việc suy nghĩ về các dòng chảy cho thấy rằng quản lý kênh có phạm vi
rộng hơn quản lý dòng sản phẩm vật chất trong kênh. Các dòng chảy khác
như đàm phán, quyền sở hữu, thông tin, tiền tệ và xúc tiến… cũng phải
được quản lý có hiệu quả và phù hợp để đạt các mục tiêu phân phối của
công ty.
Nội
dung các dòng chảy trong kênh Marketing cũng giúp tìm ra động lực tự
nhiên của các kênh Marketing. Danh từ "dòng chảy" để chỉ sự chuyển động
và hơn nữa đó là mục tiêu của các kênh phân phối. Những sự thay đổi, cả
khách quan và chủ quan hoàn toàn có thể xảy ra. Những hình thức mới của
phân phối, các loại trung gian khác nhau xuất hiện trong kênh, trong khi
các loại khác biến mất, các cấu trúc cạnh tranh thường xuyên làm giảm
một số thu nhập của người phân phối nhưng lại tăng thêm một số thu nhập
khác. Sự thay đổi những yếu tố của hành vi mua và những hình thức mới
của kỹthuật cũng tăng thêm những nhân tố làm thay đổi kênh Marketing.
Các dòng chảy của kênh phải được đảm bảo và điều chỉnh cho phù hợp với
những thay đổi đó. Các chiến lược kênh tiến bộ và quản lý kênh hiệu quả
là cần thiết làm cho điều đó xảy ra.
1.1.4. Chức năng của kênh phân phối.
Chức
năng cơ bản của tất cả các kênh phân phối là giúp đưa sản phẩm đến
người tiêu dùng cuối cùng với đúng mức giá mà họ có thể mua, đúng chủng
loại họ cần, đúng thời gian và địa điểm mà họ yêu cầu. Thực chất các
kênh phân phối đã giải quyết 3 mâu thuẫn cơ bản giữa người sản xuất và
tiêu dùng, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu đa dạng nhưng với số lượng ít
của người tiêu dùng với sản xuất một loại sản phẩm cụ thể nhưng với khối
lượng lớn; giữa sản xuất thường ở một địa điểm nhưng tiêu dùng rộng
khắp hoặc ngược lại; mâu thuân giữa thời gian sản xuất và thời gian tiêu
dùng không trùng khớp với nhau. Cho dù các nhà sản xuất có sử dụng các
trung gian trong kênh hay không thì các chức năng này của kênh vẫn phải
được thực hiện. Làm việc với kênh Marketing không phải tự hỏi có thực
hiện các chức năng này hay không mà là quyết định phân công ai sẽ thực
hiện chúng và với mức độ nào để có hiệu quả cao nhất bởi vì các chức
năng này tồn tại có tính khách quan.
Sau đây là các chức năng Marketing được thực hiện trong kênh phân phối:
- Mua: Việc mua hàng hoá của người bán để sử dụng hoặc bán lại.
- Bán: Thực hiện bán sản phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng hay những người mua công nghiệp.
-
Phân loại: Là các chức năng được các trung gian thực hiện để làm giảm
đi sự khác biệt giữa các loại hàng hoá hoặc dịch vụ do người sản xuất
tạo ra và những loại mà khách hàng có nhu cầu. Chức năng này gồm 4 quá
trình khác nhau: phân loại, tập hợp, phân bổ và sắp xếp.
- Phân loại: là quá trình chia loại hàng cung cấp không đồng nhất thành các nhóm hàng tương đối đồng nhất.
- Tập hợp: là quá trình đưa những mặt hàng tương tự từ một số nguồn tập trung lại thành nguồn cung cấp đồng nhất lớn hơn.
- Phân bổ: Là quá trình phân chia, bao gồm việc chia nguồn cung cấp đồng nhất thành bộ phận nhỏ và nhỏ hơn nữa.
- Sắp xếp: là quá trình phân loại bao gồm việc tạo nên một tập hợp sản phẩm có liên quan với nhau trong sử dụng.
- Tập trung: là quá trình tập hợp hàng hoá từ nhiều nơi về một nơi.
- Tài chính: là việc cung cấp tín dụng hoặc cấp tiền để thúc đẩy việc giao dịch.
- Dự trữ: là việc duy trì hàng tồn kho và bảo vệ sản phẩm để cung cấp dịch vụ khách hàng tốt hơn.
- Phân hạng: phân loại sản phẩm thành các cấp khác nhau trên cơ sở chất lượng.
- Vận tải: là sự vận chuyển hợp lý hàng hoá từ nơi chúng được sản xuất ra tới nơi chúng được mua hoặc sử dụng.
- Chấp nhận rủi ro: chấp nhận rủi ro kinh doanh trong vận chuyển và sở hữu hàng hoá.
-
Nghiên cứu Marketing: thu thập thông tin liên quan như các điều kiện
thị trường, khối lượng bán mong muốn, các xu hướng khách hàng, các lực
lượng cạnh tranh…
1.2. CẤU TRÚC KÊNH PHÂN PHỐI (KÊNH MARKETING).
1.2.1. Khái niệm.
Cấu trúc kênh là một tập hợp các tổ chức mà công việc phân phối được phân chia cho họ theo những cách thức thích hợp.
Các biến số của cấu trúc kênh:
- Chiều dài kênh: được phản ánh bởi cấp độ trung gian tham gia vào kênh phân phối đó.
- Chiều rộng của kênh: là số lượng các trung gian ở mỗi cấp của kênh.
Các dạng trung gian tham gia vào kênh phân phối.
Các biến số trên tạo nên sự khác nhau của từng hệ thống kênh phân phối.
1.2.2. Phân loại kênh phân phối.
Kênh
phân phối được phân loại theo nhiều tiêu thức: theo mức độ trung gian,
theo sự độc lập hay phụ thuộc giữa các thành viên kênh.
1.2.2.1. Phân loại kênh phân phối theo mức độ trung gian.
(4) (3) (2) (1)
Sơ đồ 4: Phân loại kênh phân phối theo mức độ trung gian
Số mức độ trung gian trong kênh phân phối tạo nên kênh phân phối có độ dài ngắn khác nhau:
*
Kênh 1: Đây là loại kênh phân phối trực tiếp từ người sản xuất đến
người tiêu dùng cuối cùng không thông qua các trung gian phân phối. Cấu
trúc kênh này được áp dụng cho các loại hàng hoá dễ hỏng, dễ vỡ và những
loại hàng hoá đòi hỏi kỹ thuật cao, phải có sự hướng dẫn sử dụng một
cách tỷ mỷ hoặc cũng có thể sử dụng với những hàng hoá mà người sản xuất
độc quyền phân phối.
Với
loại kênh này, nó đảm bảo sự giao tiếp chặt chẽ của nhà sản xuất, tăng
cường trách nhiệm trên thị trường, đảm bảo tính chủ đạo của nhà sản xuất
trong phân phối. Thông tin mà nhà sản xuất thu được sẽ thực hơn và hữu
ích hơn, nhà sản xuất được tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, nắm bắt
được nhu cầu của họ một cách dễ dàng hơn là thông qua các trung gian
phân phối.
Bên
cạnh những ưu điểm trên thì kênh phân phối trực tiếp có hạn chế là
trình độ chuyên môn hoá thấp, tổ chức và quản lý kênh sẽ phức tạp hơn,
vốn của công ty chu chuyển chậm, nguồn nhân lực bị phân tán.
Nhìn
chung, trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế phát triển nhanh, quy
mô mở rộng thì cấu trúc kênh này rất hiếm, nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong
toàn bộ hệ thống kênh phân phối bởi nó chỉ phù hợp với nền sản xuất có
quy mô nhỏ, quan hệ thị trường hẹp.
*
Kênh 2: Được gọi là kênh một cấp. Ở đây, để hàng hoá đến tay người tiêu
dùng, nhà sản xuất thông qua người bán lẻ. Với loại kênh này, một mặt
nó vẫn phát huy được lợi thế của kênh phân phối trực tiếp, mặt khác nó
làm tăng chức năng chuyên môn hoá, phát triển năng lực sản xuất. Tuy
nhiên, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, sự
đòi hỏi khắt khe của khách hàng là đảm bảo hàng hoá phải có mặt ở khắp
nơi, tạo điều kiện cho việc mua bán được dễ dàng thì cấu trúc kênh phân
phối này vẫn chưa phải là tối ưu.
*
Kênh 3: Đây là loại kênh 2 cấp. Trong kênh, ngoài người bán lẻ còn có
thêm người bán buôn, cấu trúc này thường được sử dụng phổ biến cho những
loại hàng hoá có giá trị thấp, được mua thường xuyên.
*
Kênh 4: Là kênh 3 cấp. Nó được sử dụng khi có nhiều nhà sản xuất nhỏ và
nhiều người bán lẻ. Một đại lý được sử dụng để giúp phối hợp cung cấp
sản phẩm với khối lượng lớn đến thị trường mục tiêu.
Loại
kênh 3 và 4 là loại kênh dài và đầy đủ nhất. Đây là loại kênh phổ biến
trong phân phối hàng hoá. Nó giải quyết được mâu thuẫn: sản xuất tập
trung, tiêu dùng rộng khắp. Tuy nhiên với việc sử dụng kênh dài thì chi
phí cho việc thiết lập kênh là lớn, việc điều hành và quản lý kênh phân
phối gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nhà quản lý cần phải đầu tư và quản lý
một cách thích hợp để tránh trùng lặp và giảm chi phí xuống.
1.2.2.2. Phân loại kênh phân phối theo mức độ liên kết.
Sơ đồ 5: Kênh Marketing theo mức độ liên kết
*
Kênh thông thường: Kênh liên kết thông thường là một hệ thống kênh bao
gồm một mạng lưới các nhà sản xuất, nhà bán buôn và nhà bán lẻ, hoạt
động tương đối độc lập. những thương vụ buôn bán được hình thành một
cách đơn lẻ hoặc ngẫu nhiên giữa các bên mà không có ràng buộc lâu dài
lẫn nhau. Vì vậy họ luôn tìm cách tối đa hoá lợi ích của mình cho dù có
làm giảm lợi ích của toàn bộ hệ thống kênh phân phối.
Không
một thành viên nào trong kênh có sức mạnh kiểm soát đối với các thành
viên còn lại. Trong kênh không có sự thống nhất dẫn đến có sự cạnh tranh
về giá cả giữa các thành viên trong kênh. Các thành viên tham gia vào
hệ thống kênh này rất đơn giản bởi nó đảm bảo sự tự do cho các bên tham
gia. Tuy nhiên do tính không bền vững nên các thành viên thường xuyên
phải xây dựng mối quan hệ mới và gây nên sự tốn kém chi phí.
*
Hệ thống kênh liên kết dọc: Đây là những kênh đã được tổ chức, thiết kế
theo những tính toán từ trước để đảm bảo sự ràng buộc về quyền lợi và
trách nhiệm giữa các thành viên trong kênh với nhau. Mục tiêu của từng
thành viên được đặt trong mục tiêu chung của cả hệ thống. Nhà sản xuất,
nhà bán buôn, nhà bán lẻ hoạt động như một thể thống nhất. Một thành
viên có kênh có thể được hưởng ưu đãi trong buôn bán, vì vậy giữa các
thành viên trong kênh được phân chia công việc một cách phù hợp, đảm bảo
đem lại hiệu quả cao nhất cho cả hệ thống. Với kênh liên kết dọc, quá
trình đàm phán diễn ra một cách dễ dàng bởi lợi ích của từng thành viên
được đặt trong lợi ích của toàn hệ thống.
Có 3 loại kênh VMS :
-
Kênh VMS được quản lý: đây là kênh liên kết dọc mà ở đó một thành viên
có những cơ sở sức mạnh tự nhiên vốn có của họ. Và vì vậy họ trở thành
người lãnh đạo trong kênh, các thành viên khác tự nguyện đi theo chấp
nhận những yêu cầu và chiến lược mà họ đưa ra.
-
Kênh VMS tập đoàn: đây là những kênh liên kết dọc mà mỗi thành viên
trong kênh đều thuộc quyền sở hữu của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân. Thực
chất quan hệ giữa các thành viên trong kênh giờ trở thành quan hệ của
một tổ chức. Đây là kiểu kênh có mức khả năng điều khiển giữa các thành
viên là cao nhất vì kiểu kênh này có thể điều khiển bằng các biện pháp
hành chính mệnh lệnh.
+
Với hệ thống VMS tập đoàn, nó sẽ phát huy được hiệu quả kinh tế theo
quy mô trong phân phối. Nó cho phép chủ động phân chia các công việc
phân phối một cách tốt nhất. Đồng thời VMS tập đoàn có khả năng điều hoà
cung cầu thị trường một cách chủ động. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt
của nó. Kênh VMS tập đoàn dễ dẫn đến độc quyền trong sản xuất và phân
phối, như thế lợi ích của xã hội sẽ không được tối đa hoá.
-
Kênh VMS hợp đồng: Các thành viên trong kênh được liên kết với nhau
bằng bản hợp đồng. Các thành viên trong kênh có sức mạnh ngang nhau,
công việc trách nhiệm, quyền lợi của các bên được ghi trong hợp đồng.
+
Kênh VMS hợp đồng theo kiểu hợp tác bán lẻ: Dưới sức ép cạnh tranh gay
gắt, những người bán lẻ, bán nhỏ tập hợp nhau lại thành hợp tác xã, lập
kế hoạch mua hàng hoá với khối lượng lớn của các bên được ghi trong hợp
đồng. Sau đó họ mới phân chia với nhau số lượng hàng hoá đó.
+
Chuỗi tình nguyện do người bán hàng đảm bảo. Đây là kênh VMS theo kiểu
hợp đồng, có người bán buôn đứng ra ký hợp đồng để chịu trách nhiệm cung
cấp hàng cho một số người bán lẻ. Họ cũng hợp đồng với nhau về hoạt
động bán sản phẩm cho thị trường như quảng cáo cho cả chuỗi hội viên
cùng một mức giá. Như vậy những người bán buôn đã tổ chức trên cơ sở tự
nguyện giúp đỡ nhau đứng vững trong cuộc cạnh tranh với những mạng lưới
phân phối lớn.
+
Độc quyền kinh tiêu là hệ thống phân phối có mối liên hệ kinh doanh
chặt chẽ giữa người chủ quyền, người sở hữu hàng hoá dịch vụ với người
nhận quyền, người được sử dụng những thứ mà họ sở hữu trong quá trình
kinh doanh. Người nhận quyền phải trả cho người chủ quyền phí độc quyền.
Nói
tóm lại, tính phụ thuộc và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên
kênh là những đặc điểm chính của hệ thống kênh phân phối theo chiều dọc.
Có thể nói trên thị trường hiện nay, sự cạnh tranh dần dần không phải
xảy ra giữa các doanh nghiệp độc lập mà xảy ra giữa hệ thống kênh phân
phối theo chiều dọc hoàn chỉnh có trương trình trung tâm để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất và có ảnh hưởng đến người mua lớn nhất.
Với
nhu cầu phong phú và đa dạng như hiện nay, cùng với sự cạnh tranh gay
gắt trên thị trường, các doanh nghiệp không chỉ xây dựng cho mình một
cấu trúc kênh phân phối duy nhất mà phải có mạng lưới kênh phân phối
phong phú, rộng khắp, đem lại lợi thế cạnh tranh dài hạn cho doanh
nghiệp.
1.2.3. CÁC THÀNH VIÊN CỦA KÊNH PHÂN PHỐI.
Kênh
Marketing là sự tổ chức các tiếp xúc bên ngoài để quản lý các hoạt động
nhằm đạt các mục tiêu phân phối của nó. Những người tham gia vào kênh
phân phối là các doanh nghiệp, các cá nhân có tư cách pháp nhân độc lập
kinh doanh trên thị trường. Doanh nghiệp phải thông qua quá trình đàm
phán, thương lượng để thiết kế kênh. Chính các chức năng đàm phán (mua
bán, chuyển quyền sở hữu) là căn cứ để phân chia quản lý giữa các thành
viên kênh. Những người tham gia vào chức năng trên, người được nối với
nhau bởi các dòng chảy đàm phán và sở hữu được coi là thành viên của
kênh phân phối.
Sơ đồ 6: Các thành viên của kênh phân phối
*
Nhà sản xuất: họ là rất nhiều những công ty sản xuất hàng hoá và dịch
vụ ở tất cả các lĩnh vực khác nhau nhưng họ đều cố gắng sản xuất ra
những sản phẩm tốt hơn các đối thủ cạnh tranh. Muốn vậy thì nhà sản xuất
không chỉ cần có chính sách sản phẩm giá cả hợp lý, mà nhà sản xuất
phải đảm bảo cho hàng hoá của mình sẵn sàng ở các thị trường. Nhưng
thông thường các công ty sản xuất không có điều kiện thuận lợi về địa
lý, chuyên môn hoá, để làm công việc đó. Do vậy nhà sản xuất phải chuyển
công việc phân phối hàng hoá đến các thị trường mục tiêu cho các thành
viên khác của kênh như nhà bán buôn, bán lẻ.
*
Nhà bán buôn: họ là thành viên của hệ thống kênh phân phối, họ mua khối
lượng lớn từ nhà sản xuất, để bán với khối lượng nhỏ hơn cho người bán
lẻ. Khoảng cách của các trung gian đến với người mua gần hơn là nhà sản
xuất. Trung gian bán buôn có vai trò cực kỳ quan trọng trên thị trường
và với hệ thống kênh phân phối, họ có một khối lượng vốn, quan hệ thị
trường lớn và mức độ tập trung hoá cao. Nhưng mà ngày nay, khi mà mức độ
tập trung hoá đang ngày càng dần dần ít đi, thay vào đó là mức độ
chuyên môn hoá về một loại ngành, sản phẩm. Do vậy nhà bán buôn đang
ngày càng trở nên vừa và nhỏ.
Người
bán buôn được chia ra làm nhiều loại: trong đó có 3 loại chính. Sự phân
chia này dựa trên sự khác nhau về sở hữu hàng hoá, phương thức kinh
doanh độc lập hay phụ thuộc nhà sản xuất.
Sơ đồ 7: Các loại bán buôn
*
Nhà bán lẻ: họ là những người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng cuối cùng. Vì vậy họ là người hiểu rõ nhất nhu cầu và ước muốn của
khách hàng. Họ có hệ thống cửa hàng phong phú và đa dạng. Họ đảm bảo
cho tính sẵn sàng của hàng hoá để tạo điều kiện tốt nhất cho người mua.
*
Người tiêu dùng cuối cùng: đây là những người trực tiếp sử dụng sản
phẩm của nhà sản xuất. Người tiêu dùng cuối cùng tạo nên thị trường mục
tiêu của công ty và nó được đáp ứng bởi các thành viên khác của kênh như
nhà bán buôn, nhà bán lẻ… và cũng chính họ là người ảnh hưởng trực tiếp
đến doanh số của các thành viên kênh, của nhà sản xuất. Một sự thay đổi
nho nhỏ trong hành vi mua, trong nhu cầu của khách hàng cuối cùng cũng
đủ đưa doanh nghiệp đến bên bờ vực thẳm.
1.3. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ KÊNH PHÂN PHỐI.
1.3.1. Tổ chức (thiết kế) kênh.
Thiết
kế kênh là đưa ra những quyết định liên quan đến việc phát triển kênh
phân phối mới ở những nơi chưa tồn tại hoặc để cải tiến những kênh phân
phối hiện tại. Quá trình thiết kế kênh gồm 7 bước:
- Nhận dạng nhu cầu thiết kế kênh.
- Xác định và phối hợp kênh phân phối.
- Phân loại công việc phân phối.
- Phát triển các cấu trúc thiết kế kênh.
- Đánh giá các biến số ảnh hưởng đến cấu trúc kênh.
- Lựa chọn cấu trúc kênh tốt nhất.
- Tìm kiếm các thành viên kênh.
Tuỳ
vào mục đích thiết kế kênh là để phát triển, mở rộng tại những khu vực
thị trường mới hay để hoàn thiện hệ thống kênh hiện tại mà người quản lý
sẽ có những quyết định quản lý kênh riêng. Ở đây chúng ta xem xét việc
thiết kế kênh dưới góc độ "Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối" thông qua
việc xác định các mối quan hệ giữa các biến số của công ty, tuyên
truyền mục tiêu và chiến lược Marketing với việc thiết kế kênh phân
phối.
1.3.1.1. Thị trường mục tiêu và việc thiết kế kênh.
Thiết
kế hệ thống kênh phân phối là nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu và ước
muốn của thị trường mục tiêu. Do vậy nhà quản lý cần xem xét các biến số
của thị trường một cách cẩn thận, từ đó có những quyết định sáng suốt.
Có hàng loạt những yếu tố ảnh hưởng đến kênh phân phối:
Thứ nhất là: Sự ảnh
hưởng của yếu tố địa lý thị trường. Mọi hoạt động phân phối đều gắn với
một khu vực thị trường nhất định. Các dữ liệu thông tin về một số khu
vực địa lý: tỉnh, thành phố, nông thôn, miền núi… là cơ sở để các nhà
quản lý phân chia vùng thị trường. Có những khó khăn về thị trường mà
buộc các nhà doanh nghiệp không thể xây dựng được hệ thống kênh phân
phối do chi phí quá lớn, công tác vận chuyển phức tạp. Đồng thời một sự
thay đổi của địa lý thị trường cũng có thể là cơ hội lớn của doanh
nghiệp, ví dụ như sự di dân, sự xuất hiện củ khu công nghiệp, khu chế
xuất… tất cả sẽ tạo nên một khu vực thị trường mới. Nhà quản lý phải
nhanh nhạy nắm bắt được những vấn đề này vì nó có liên quan mật thiết
đến việc thiết kế kênh.
Thứ
hai là: Sự ảnh hưởng của kích cỡ thị trường. Ở đây chúng ta đề cập đến
số lượng người mua và mua tiềm năng trên khu vực thị trường xác định.
Chúng ta hãy xem xét mô hình về sự liên quan giữa kích cỡ thị trường và
cấu trúc kênh:
Chi phí một đơn vị
Sơ đồ 8: Sự ảnh hưởng của khối lượng người mua trong chi phí tương đối của kênh trực tiếp và kênh có thành phần trung gian
Cd: Chi phí của kênh trực tiếp.
d : Chi phí giảm dần theo quy mô do sự tham gia của các trung gian chuyên môn hoá tại các khu vực thị trường lớn.
Theo
sơ đồ trên, ban đầu, chi phí cho một đơn vị là cao do chi phí giao dịch
cao và do dự trữ cho kênh lớn. Nếu quy mô thị trường là nhỏ thì sẽ rất
khó cho việc tạo lập kênh đó. Nhưng khi quy mô thị trường tăng lên, chi
phí cho việc tạo lập kênh đối với một khối lượng lớn khách hàng sẽ giảm
xuống.
Tại
điểm C: chi phí của kênh trực tiếp cân bằng với kênh có sử dụng trung
gian. Nhưng với khối lượng khách hàng lớn thì chi phí của các trung gian
sẽ thấp hơn. Do vậy, sự gia tăng đáng kể về số lượng người mua trên một
khu vực thị trường sẽ là cơ sở để nhà quản lý kênh xem xét đánh giá hệ
thống kênh phân phối hiện tại từ đó đề xuất nhu cầu thiết kế kênh trong
tương lai.
Thứ
ba là: sự ảnh hưởng của mật độ thị trường đến việc thiết kế kênh. Đó là
khối lượng khách hàng và khách hàng tiềm năng trên một đơn vị địa lý.
Khi mật độ thị trường là lớn thì điều kiện tốt cho việc vận chuyển hàng
hoá và lượng tồn kho sẽ thấp. Ngược lại, nếu mật độ thị trường nhỏ thì
hàng hoá sẽ được vận chuyển ít hơn và lượng tồn kho sẽ nhiều hơn.
Thứ tư là : sự ảnh hưởng của hành vi thị trường, các yếu tố hành vi thị trường là:
- Thị trường mua khi nào?
- Thị trường mua ở đâu?
- Thị trường mua như thế nào?
- Ai mua?
Nhiệm
vụ của các thành viên kênh là phải đảm bảo sự có mặt của hàng hoá trên
thị trường bất kỳ lúc nào khách hàng muốn. Tuy nhiên nhà quản lý cần
phải làm sao cho lượng tồn kho của các thành viên kênh là nhỏ nhất mà
vẫn đảm bảo được tính sẵn có của hàng hoá. Đây là yêu cầu của việc thiết
kế kênh.
Kiểu
cửa hàng mà người tiêu dùng cuối cùng lựa chọn và vị trí của nó sẽ
quyết định thị trường mua ở đâu. Nó có liên quan chặt chẽ đến yếu tố địa
lý thị trường. Có những khách hàng thích mua tại chợ, có người muốn mua
ở siêu thị, đại lý… tất cả đó là thói quen của khách hàng và nhà quản
lý phải tìm hiểu xem thói quen đó như thế nào và nó có dễ thay đổi
không. Ngày nay công việc bận rộn khiến mọi người luôn cảm thấy thiếu
thời gian, vì vậy hệ thống kênh phân phối cần phải bảo đảm sự thuận tiện
và dễ dàng trong mua bán và dễ phân biệt với các cửa hàng khác.
Sự thích thú trong thay đổi mua sắm của khách hàng quyết định thị trường mua sắm như thế nào?
- Mua với khối lượng lớn.
- Mua tại nhà.
- Yêu cầu dịch vụ hay không…
Đáp ứng từng loại hành vi trên mà nhà quản lý phải thiết kế một mạng lưới kênh phân phối đa dạng và phong phú.
+
Ai mua? Đây cũng là vấn đề khá quan trọng. Với những mặt hàng như may
mặc… thì chủ yếu là người tiêu dùng, người sử dụng sản phẩm là người
mua. Vì thế, thông qua hệ thống kênh phân phối, công ty phải thể hiện rõ
được uy tín, hình ảnh của mình trước khách hàng.
1.3.1.2. Các yếu tố của công ty và thiết kế kênh.
Các
yếu tố bên trong công ty chính là sức mạnh để công ty quyết định mình
có thể vươn tới các thị trường mục tiêu hay không và vươn tới đó bằng
cách nào để đạt được hiệu quả cao nhất.
-
Quy mô của công ty: sẽ quyết định đến kiểu kênh, quyết định việc phân
phối tối ưu các công việc phân phối cho các thành viên kênh.
-
Khả năng tài chính: đây là một trong những lý do mà công ty phải sử
dụng trung gian. Khả năng tài chính tốt thì công ty ít phải phụ thuộc
vào các thành viên kênh và vì vậy cấu trúc kênh của công ty lựa chọn sẽ
khác với các công ty có khả năng như mình.
-
Sự trợ giúp về quản lý: đây là một bằng chứng tích cực thể hiện sự quan
tâm của nhà sản xuất. Các thành viên kênh luôn muốn biến nhà sản xuất
có trợ giúp họ trong việc quản lý kinh doanh không. Sự trợ giúp này được
thể hiện trên nhiều mặt: đào tạo, phân tích tài chính, phân tích thị
trường.
1.3.1.3. Chiến lược Marketing và thiết kế kênh.
Chiến
lược kênh phân phối luôn phải đặt trong chiến lược Marketing chung của
toàn doanh nghiệp. Việc phối hợp tốt các yếu tố Marketing - Mix sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình thiết kế kênh. Như chúng ta đã biết,
mục tiêu của bất kỳ một doanh nghiệp nào, của bất kỳ hệ thống Marketing
hay hệ thống kênh phân phối nào cũng là nhằm đạt được lợi nhuận, thế lực
và an toàn trong kinh doanh. Mục tiêu đó sẽ được thực hiện khi và chỉ
khi có sự cố gắng, phối hợp nhịp nhàng, ăn ý của các bộ phận trong hệ
thống Marketing - Mix và các thành viên trong hệ thống kênh phân phối.
Trong
quản lý Marketing, việc phát triển hệ thống Marketing - Mix về sản
phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến liên hợp để đáp ứng nhu cầu của thị
trường mục tiêu tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa rất lớn
trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp ở mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn khác nhau mà công ty có hướng đầu tư khác
nhau. Nếu công ty đang xác định là mở rộng thị trường, phải đảm bảo tính
sẵn sàng của sản phẩm thì lúc này công ty nên có sự ưu tiên trong hệ
thống kênh phân phối. Song kênh phân phối chỉ là một bộ phận trong hệ
thống Marketing - Mix, nó có quan hệ hữu cơ với các biến số khác. Sự
thành công của hệ thống kênh phân phối gắn liền với sự thành công của hệ
thống Marketing - Mix để thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường mục
tiêu.
1.3.2. Tuyển chọn thành viên kênh.
Xuất
phát từ những điềukiện bên trong: khả năng tài chính, khả năng quản lý
và những yếu tố bên ngoài, công ty đã xây dựng được những cấu trúc kênh
phân phối phù hợp nhất cho mình để làm tăng thêm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Công việc tiếp theo mà các nhà quản lý cần thực hiện là
tuyển chọn các thành viên kênh.
Như
chúng ta đã biết, để thiết kế được một hệ thống kênh phân phối có hiệu
quả, công ty phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiền của. Nhưng
bù vào đó, công ty có cả một lợi thế cạnh tranh trong dài hạn, góp phần
vào việc hình thành nên hệ thống kênh phân phối đó là công tác tuyển
chọn các thành viên kênh. Các thành viên của kênh mặc dù là các doanh
nghiệp cá nhân độc lập nhưng đều là sự mở rộng của nhà sản xuất và các
thành viên này sẽ có tác động trở lại nhà sản xuất. Chính vì vậy, bất kỳ
một công ty nào cũng phải tuyển chọn các thành viên kênh một cách cẩn
thận để họ có tác động tốt đến hoạt động kinh doanh của công ty cũng như
uy tín của doanh nghiệp sau này.
1.3.2.1. Tìm kiếm danh sách các thành viên kênh nhiều tiềm năng.
Có rất nhiều nguồn thông tin có giá trị giúp nhà quản lý kênh tìm kiếm được thành viên kênh đó là:
-
Tổ chức bán hàng theo khu vực: đây là lực lượng bán sẵn có của công ty
trên thị trường. Họ sẽ cung cấp những nguồn thông tin về các trung gian
của kênh, về các trung gian tiềm năng trong vùng. Những thông tin của họ
là những thông tin cực kỳ có giá trị bởi họ là những người làm việc
trong khu vực này, họ hiểu về thị trường trong khu vực đó và họ biết ai
là người có năng lực, có thể đáp ứng được yêu cầu để trở thành thành
viên chính thức của công ty.
- Các nguồn tin thương mại.
-
Các khách hàng: Đây cũng là một nguồn thông tin quan trọng bởi khách
hàng là người có ý kiến rất thực. Bởi vậy công ty có thể thực hiện các
cuộc nghiên cứu đối với người tiêu dùng để tìm ra thành viên kênh tiềm
năng.
Ngoài ra công ty còn có thể sử dụng các nguồn khác như :
- Quảng cáo.
- Tham gia hội chợ.
- Thông qua báo chí, ngân hàng, tư vấn…
1.3.2.2. Các tiêu chuẩn lựa chọn thành viên kênh.
Các
tiêu chuẩn này được đặt ra theo yêu cầu của từng công ty. Tuy nhiên có
một số tiêu chuẩn mà mọi công ty đều phải thông qua là:
-
Điều kiện tín dụng và tài chính: đây là tiêu chuẩn được lựa chọn nhiều
nhất để chấp nhận các thành viên kênh trong tương lai. Do vậy các nhà
sản xuất đều phải điều tra xem trong những thành viên tiềm năng, thành
viên nào có đủ khả năng tài chính đáp ứng được yêu cầu của công ty.
-
Sức mạnh bán hàng: đây là tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng của các thành
viên kênh. Tiêu chuẩn này được đánh giá dựa vào các thước đo:
+ Chất lượng của lực lượng bán.
+ Số lượng người bán thực sự đang làm việc.
+ Khả năng hỗ trợ của lực lượng bán hàng.
-
Khả năng bao phủ thị trường: các nhà sản xuất luôn cố gắng để đạt được
việc bao phủ thị trường với ít nhất sự trùng lặp. Chính vì vậy mà sử
dụng các thành viên kênh có hiệu quả sẽ tránh được sự trùng lặp, tránh
gây sung đột và sự lãng phí về tiền của.
- Hoạt động bán: thông tin này cho biết về hoạt động bán hàng của các trung gian.
-
Khả năng quản lý: thành viên có giá trị là những thành viên có khả năng
quản lý tốt. Nhiệm vụ của họ là phải quản lý một đội ngũ bán hàng của
mình, tổ chức duy trì lực lượng bán, đào tạo và phân chia công việc cho
họ để họ có được những kỹ năng trong công tác bán hàng.
1.3.3. Quản lý kênh phân phối.
1.3.3.1. Khuyến khích các thành viên kênh.
Mối
quan hệ giữa các thành viên kênh và nhà sản xuất là mối quan hệ hai
chiều. Mối quan hệ đó càng mật thiết càng dễ đi đến mục tiêu chung của
cả hệ thống. Muốn vậy nhà sản xuất phải thường xuyên nghiên cứu, tìm
hiểu nhu cầu của các trung gian và có hướng giúp đỡ giải quyết.
-
Trợ giúp về dòng sản phẩm: nhà sản xuất đảm bảo cung cấp cho các thành
viên kênh dòng sản phẩm tốt nhất, có khả năng bán được với doanh số cao,
đạt được lợi nhuận cao.
-
Trợ giúp về quảng cáo và xúc tiến bán hàng. Một chiến dịch quảng cáo là
cách lôi cuốn tốt nhất đối với người tiêu dùng vì khi đó họ sẽ biết đến
sản phẩm, biết đến công ty và khi đó cơ hội bán hàng sẽ tăng lên.
-
Sự trợ giúp về quản lý: công ty nên đào tạo một lực lượng nhân viên bán
hàng để họ có khả năng trong việc phân tích và xúc tiến thị trường.
Ngoài
các biện pháp trên, nhà sản xuất còn phải giúp đỡ họ khi họ gặp khó
khăn về sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh, về sự thay đổi
của môi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Các
nhà sản xuất phải để cho các nhân viên thấy rằng họ có được sự giúp đỡ
khi họ tham gia vào hệ thống kênh phân phối của nhà sản xuất, đồng thời
sự giúp đỡ này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt
thời gian họ là thành viên của kênh. Nhà sản xuất phải thấy được rằng
các trung gian chính là khách hàng của mình. Và khi đó việc thoả mãn nhu
cầu, ước muốn của các trung gian là vô cùng cần thiết.
Theo
MC Vey "người trung gian thường hành động như một người mua hàng của họ
rồi sau đó mới là người bán hàng thay cho người cung ứng của mình… họ
quan tâm đến sản phẩm mà khách hàng của họ muốn mua".
Nhà
sản xuất phải thường xuyên động viên, khuyến khích các trung gian. Song
khuyến khích bằng cách nào để nó đem lại hiệu quả cao nhất là một vấn
đề không đơn giản. Để có thể có những biện pháp khuyến khích thích hợp
thì công ty phải thực sự hiểu được các thành viên trong hệ thống kênh
phân phối. Bên cạnh những biện pháp khuyến khích đó, nhà quản lý cũng
phải xây dựng những hình thức phạt thích hợp đối với các thành viên hoạt
động không có hiệu quả. Biết kết hợp hài hoà giữa thưởng và phạt là một
nghệ thuật trong quản lý.
1.3.3.2 Đánh giá hoạt động của các thành biên kênh.
Bước
cuối cùng của mỗi công việc là phải đánh giá kết quả. Với các thành
viên kênh cũng vậy, việc đánh giá hoạt động của họ là rất quan trọng,
mang tính thời kỳ và là sự xem xét tổng hợp.
Mặc
dù có rất nhiều các tiêu chuẩn để đánh giá các hoạt động của các thành
viên kênh song hầu hết các nhà sản xuất sử dụng các yếu tố như: khối
lượng bán, duy trì lượng tồn kho, khả năng cạnh tranh, thái độ của các
thành viên trong kênh.
-
Hoạt động bán: đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất và hay được sử dụng
nhất là để đánh giá hoạt động của các thành vên kênh. Thông thường người
quản lý đánh giá hoạt động bán dựa trên:
+ Doanh số bán hiện tại của các thành viên kênh so với lượng bán hàng trong lịch sử.
+ So sánh khối lượng bán của mỗi thành viên kênh với tổng lượng bán của các thành viên kênh.
+ Lượng bán của từng thành viên kênh so với các chỉ tiêu đã được xác định trước.
Từ
kết quả so sánh nhà quản lý sẽ biết được thành viên nào hoạt động có
hiệu quả, so sánh nó với những chi phí đã bỏ ra cho hoạt động kênh, cho
từng thành viên kênh để từ đó có hướng đầu tư thích hợp.
-
Duy trì tồn kho: lượng tồn kho được thể hiện trong hợp đồng buôn bán
của các thành viên kênh. Xác định một mức tồn kho đều đặn là cần thiết
bởi nó đảm bảo cho tính sẵn có của hàng hoá trên thị trường. Hoạt động
tồn kho được thể hiện bởi:
+ Mức tồn kho trung bình của các thành viên kênh là bao nhiêu?
+ Điều kiện và phương tiện tồn kho như thế nào?
- Ngoài ra các nhà quản lý phải đánh giá hoạt động của các thành viên kênh dựa trên sức cạnh tranh của các thành viên đó.
Thông
qua hoạt động đánh giá, nhà quản lý biết được thành viên nào hoạt động
có hiệu quả để từ đó có kế hoạch đầu tư hoặc loại bỏ kịp thời, tạo nên
cấu trúc kênh tốt nhất đáp ứng được với sự đòi hỏi của thị trường.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét