Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

HÒA GIẢI HÒA HỢP - Nguyễn Phúc Liên

Saturday, April 19, 2014


TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN *“HÒA GIẢI HÒA HỢP“


TUNG HỎA MÙ
“HÒA GIẢI HÒA HỢP“
NHẰM CỨU CƠ CHẾ BỆNH HOẠN

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.04.2014

Thứ Năm tuần trước, trong loạt bài NHỮNG NHẬN ĐỊNH THEO DÒNG THỜI SỰ, đứng về mặt đấu tranh giải thoát Dân Tộc khỏi cảnh nô lệ dưới Cơ chế CSVN, chúng tôi viết về cái chết của Ts CÙ HUY HÀ VŨ khi bỏ Quê Hương sang Hoa kỳ. Trong bài ấy, chúng tôi đã đưa ra 5 dự phóng về việc Ts.Cù Huy Hà Vũ được trả tự do sớm và sang Hoa kỳ. Trong số những dự phóng ấy, có ba điểm liên hệ đến hỏa mù “Hòa Giải Hòa Hợp“ như sau:
=>       3)         Một số đông nghi ngờ rằng đây chỉ là đòn hỏa mù để đánh lạc tình trạng nguy hiểm mà CSVN đang phải đứng trước sự phẫn nộ của quần chúng quốc nội mỗi ngày mỗi tăng để đi đến NỔI DẬY dù với BẠO ĐỘNG để chấm dứt cái tà quyền CSVN.
=>       4)         Một số đông khác nghĩ đây là việc chính CSVN, cùng với nhóm chính khách cơ hội nhằm nhẩy bàn độc đang nằm tại Hải ngoại, muốn đi đến “Hòa Giải Hòa Hợp“ để CSVN vẫn tiếp tục giữ Cơ chế cũ mà hạ cánh an toàn và đám chính khứa cơ hội tại hải ngoại có dịp nhẩy bàn độc hớp những mẩu bánh rơi rụng thẩy xuống. Các chính khứa này hoạt động mạnh với một số Dân biểu, Nghị sĩ Hoa kỳ.
=>       5)         Một số người còn cho rằng đây là cái đòn mà CSVN mượn chính hai chữ NHÂN QUYỀN mà Hoa kỳ và một số Phong trào Việt Nam hải ngoại tung ra để tấn công CSVN, làm khí giới cho mình để chính CSVN tấn công lại Hoa kỳ và những Phong trào ấy nhằm thu vào được những cái giá béo bở mà Hoa kỷ đang nhử CSVN như cái giá TPP chẳng hạn. CSVN mượn thế “gậy ông đập lưng ông“. NHÂN QUYỀN là cái dây thung, dương ra để bắn người khác, nhưng có thể bật ngược lại chính mình .
            Không phải chỉ một mình Ts.Cù Huy Hà Vũ  được thả ra sớm, mà còn một số người khác nữa như các Oâng NGUYỄN HỮU CẦU, ĐINH ĐẶNG ĐỊNH, NGUYỄN TIẾN TRUNG, VI  ĐỨC HỐI.
            Tin tức cũng cho thấy Nguyễn Thanh Sơn gặp TNS NGÔ THANH HẢI như mở đầu cho việc vận động “Hòa Giải Hòa Hợp“.Nguyễn Thanh Sơn đã mời TNS Ngô Thanh Hải về thăm Việt Nam như dấu hiệu bắt đầu Hòa Giải Hòa Hợp. Chúng tôi đã phê bình TNS Ngô Thanh Hải tỏ ra yếu khi trả lời rằng Oâng sẵn sàng về thăm Việt Nam nếu CSVN thả thêm những tù nhân khác nữa cho tới con số 10 người chẳng hạn. Cái yếu của TNS Ngô Thanh Hải là chỉ đặt việc thả một số cá nhân ra khỏi nhà tù nhỏ trong khi ấy điều kiện căn bản của Hòa Hợp Hòa Giải là cà Dân Tộc Việt Nam sống như nô lệ trong nhà tù lớn của CSVN. Việc Hòa Hợp Hòa Giải là giữa khối Dân Tộc 90 triệu người và đảng CSVN.
            Vấn đề mà chúng ta đặt ra đây là việc “Hòa Giải Hòa Hợp“ này sẽ :
(i)                 giữa ai với ai ?;
(ii)               (ii) cái Cơ chế CSVN hiện hành còn tồn tại hay phải chôn vùi đi ?    
Chúng ta không tiên thiên phủ nhận “Hòa Giải Hòa Hợp“, mà việc chấp nhận phải tùy thuộc những trả lời cho hai câu hỏi vừa đặt ra trên đây.

(i)      “Hòa Giải Hòa Hợp“ giữa ai với ai ?
           
            Hòa Hợp Hòa Giải phải đặt đúng đối tượng, nếu không đó chỉ là việc lừa đảo ngay từ đầu để tránh đối tượng chính.

            Hòa Hợp Hòa Giải sai đối tượng:
*          Nếu CSVN chỉ đặt việc Hòa Giải Hòa Hợp giữa CSVN với khối đồng bào tỵ nạn tại Hải ngoại, đó là đặt sai vấn đề. Nhất nữa, CSVN chỉ chọn ra một số thành phần hoạt động chính trị ở Hải ngoại theo khuynh hướng chính trị của mình để thảo luận vấn đề Hòa Giải Hòa Hợp thì càng đặt sai vấn đề hơn nữa.
*          Việc Hòa Giải Hòa Hợp không phải là việc thả một số tù chính trị để các Tổ chức Nhân đạo Quốc tế khen Cơ chế của mình có Nhân quyền nhằm giữ nguyên Cơ chế cai trị như cũ.
*          Việc Hòa Giải Hòa Hợp cũng không phải là việc trả giá chiều lòng Hoa kỳ để thâu tóm cho đảng CSVN một số những quyền lợi như nhận được tiền đầu tư hay được vào TPP.
            Càng sai trái hơn nữa nếu CSVN tính toán việc thả tù nhân như đấm miệng hay tấn công ngược lại  những Tổ chức, những Phong trào từng hô hào đấu tranh cho Nhân quyền. Nếu tính toán CSVN như vậy, thì những Tổ chức, những Phong trào đấu tranh Nhân quyền giống như tòng phạm với mưu đồ gian xảo của CSVN vậy.

            Tất cả những Hòa Giải Hòa Hợp trên đây chỉ hạn hẹp giữa những thành phần lãnh đạo Xã hội hay Phong trào Đấu tranh chứ không đếm xỉa đến khối quần chúng, nạn nhân của một Cơ chế cai trị. Nếu không đếm xỉa đến quần chúng nạn nhân, thì việc Hòa Giải Hòa Hợp chỉ còn là việc chia ghế với nhau để cai trị thủ lợi giữa những Lãnh đạo

            Hòa Hợp Hòa Giải đúng đối tượng:          
Tại Việt Nam, vấn đề tranh chấp trong bao chục năm trường là giữa  Cơ chế CSVN cai trị độc tài và Dân Tộc Việt Nam bị trị như nô lệ. Đây là hai đối tượng đích thực của việc Hòa Giải Hòa Hợp. Vì vậy việc Hòa Hợp Hòa Giải đích thực là giữa hai đối tượng ấy chứ không phải là Hòa Giải Hòa Hợp với người Việt tỵ nạn ở Hải ngoại, hay với Mỹ, với những Tổ chức, phong trào đấu tranh cho Nhân quyền… Khi mà CSVN Hòa Giải Hòa Hợp thực sự với Dân Tộc VN ở quốc nội rồi, thì khỏi cần đặt vấn đề này với khối người Việt tỵ nạn, hay với Mỹ, với những Tổ chức, Phong trào đấu tranh cho Nhân quyền.
            Không Hòa Hợp Hòa Giải với Dân Tộc Việt Nam bị trị như nô lệ, thì việc Hòa Giải Hòa Hợp với khối người Việt tỵ nạn ở Hải ngoại hay với Mỹ, với những Tổ chức, những Phong trào đấu tranh Nhân quyền chỉ là trò gian xảo lừa bịp mà thôi. Cũng vậy, nếu khối người Việt tỵ nạn ở Hải ngoại hay Mỹ, các Tổ chức, Phong trào đấu tranh Nhân quyền chấp nhận Hòa Giải Hòa Hợp với CSVN để Cơ chế CSVN hiện hành tiếp tục tồn tại, thì đó chỉ là tiếp tục tòng phạm với tội ác của CSVN mà thôi.

(ii)     Cái Cơ chế CSVN hiện hành còn tồn tại
hay phải chôn vùi đi ?

            Đích điểm căn bản phải đạt được của Hòa Giải Hòa Hợp giữa hai đối tượng chính yếu trên đây là cái Cơ chế CSVN hiện hành phải bị chôn vùi hẳn đi hay còn tồn tại. Tất cả những tha hóa Xã hội và việc phá sản Kinh tế quốc dân có nguồn gốc là chủ trương Độc tài Độc đảng Chính trị nắm Chủ đạo Kinh tế.
            Nếu Hòa Hợp Hòa Giải chỉ ở việc cắt tỉa nhánh cành thuộc phần ngọn cho có vẻ đẹp, mà cái gốc Cơ chế vẫn nằm đó như cũ, thì những cành lá vẫn chồi ra làm tha hóa Xã hội và phá sản Kinh tế. Tỉ dụ chỉ thả một số tù nhân chính trị cho đẹp mà cái gốc độc tài chính trị và gốc chủ đạo Kinh tế còn đó, thì Cơ chế sẽ bắt tù những người khác sau đó vì chống bất công xã hội. Bản chất của Cơ chế là phi nhân quyền, thì không thể nói đến việc cải thiện nhân quyền ở một số việc.
            Việc thả một số người ra khỏi nhà tù nhỏ không thể nói là cải thiện nhân quyền bởi vì cả Dân Tộc vẫn phải sống trong một nhà tù lớn. Vì vậy:
1)         Nếu đấu tranh cho nhân quyền mà chỉ nhằm đưa được một số cá nhân ra khỏi nhà tù nhỏ, thì đó chỉ là kiện toàn cho một Cơ chế tội ác vẫn nằm đó để bắt toàn Dân ở trong một nhà tù lớn. Đấu tranh cho nhân quyền mà chỉ ở mức độ kiện toàn Cơ chế để tồn tại lâu thêm nữa, thì đó là tòng phạm với tội ác CSVN.
2)         Hòa Hợp Hòa Giải thực sự là phải đi đến chỗ chôn vùi hẳn cái Cơ chế CSVN, cái nguồn gốc gây tranh chấp bao chục năm trường giữa hai đối tượng chính yếu: đảng CSVN độc tài độc đảng nắm chủ đạo Kinh tế quốc dân và Dân tộc Việt Nam bi trị như nô lệ để phục vụ cho đảng CSVN.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.04.2014
Web: http://VietTUDAN.net


HÒA GIẢI HÒA HỢP:
QUỐC HẬN THỨ 39

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế
Geneva, 04.05.2014

Dường như QUỐC HẬN 30/4 là ngày kỵ húy cho CSVN và đám hoạt đầu chính trị tại Hải ngoại cũng như Quốc nội muốn hô hào Hòa Giải Hòa Hợp để duy trì Cơ chế CSVN hiện hành và cùng đứng chung với nhau chia phần bánh vẽ trên đầu Dân Tộc Việt Nam bởi vì chúng sửa soạn hô hào chiêu bài HÒA GIẢI HÒA HỢP bằng tung ra việc xóa bỏ NGÀY QUỐ HẬN 30/4 như thăm dò phản ứng của quần chúng chống Cộng trước khi phát động Phong trào Hòa Giải Hòa Hợp với CSVN để cùng chia phần bánh vẽ.

1. Năm 2005, mùa QUỐC HẬN 30/4 THỨ 30, chúng tôi cũng phải viết về Phong trào hô hào HÒA GIẢI HÒA HỢP với 10 bài Quan Điểm liên tiếp cho Tuần báo Điện tử VietTUDAN. Mùa Quốc Hận 30/4 thứ 30 này được đánh dấu bằng việc hô hào của đảng Việt Tân muốn đổi ngày 30/4 thành ngày DIỄN HÀNH TỰ DO tại Hoa Thịnh Đốn. Ý nghĩa Diễn Hành Tự Do này có thể lầm lẫn với việc CSVN coi ngày 30/4 là ngày GIẢI PHÓNG để mang TỰ DO đến cho dân Miền Nam. Quần chúng chống Cộng phản ứng mạnh và đảng Việt Tân phải rụt vòi.

2. Năm 2014, tức là 9 năm sau, Mùa QUỐC HẬN 30/4 thứ 39 cũng nổi lên việc dự phóng cho Phong trào chủ trương HÒA GIẢI HÒA HỢP với những biến cố sau đây:

* Phóng thích Cù Huy Hà Vũ sang Hoa kỳ. Cù Huy Hà Vũ là người vẫn tôn sùng Hồ Chí Minh, một tên tội đồ của Dân Tộc đã phục vụ cho Nga, Tầu để mang chủ thuyết ngoại lai chụp lên đầu toàn dân Việt và đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm bán Biển và Đảo của Tổ Tiên. Không thể coi Cù Huy Hà Vũ là người cùng với Dân Tộc trong ý chí dứt khoát là phải chôn vùi Cơ chế CSVN. Người ta nhìn thấy viễn tượng rằng Cù Huy Hà Vũ là nhân vật cầu nối giữa CSVN mà ông còn tôn sùng Hồ Chí Minh và giữa một số thành phần gọi là chống Cộng tại Hải ngoại muốn đội ông Vũ lên đầu với danh hiệu đấu tranh cho Dân chủ mà vì do ông Vũ đã bị tù ở Việt Nam như một công trạng.

* Việc Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao của VGCS sang Gia Nã Đại gặp TNS Ngô Thanh Hải, được một số người thạo tin về đảng Liên Minh Dân Chủ mà TNS Hải là Chủ tịch coi như cũng có dàn xếp liên hệ nào đó với HÒA GIẢI HÒA HỢP mà CSVN đang tung ra trong tình trạng băng hoại Xã hội và phá sản Kinh tế lúc này tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ lần lượt cho đang những tài liệu mà một số vị thạo tin viết ra cho thấy TNS Ngô Thanh Hải có lẽ phản lại vị sáng lập đảng Liên Minh Dân Chủ là Gs.Nguyễn Ngọc Huy.

* Trước đây khi vợ của Cù Huy Hà Vũ, bà Ls.Dương Hà, sang Mỹ để “lo liệu công việc cho chồng“, chúng tôi đã thấy hình của Gs.Nguyễn Ngọc Bích ra chính Phi trường để đón bà Ls.Dương Hà. Việc ra đón thân thiện này cho chúng tôi nghĩ đến lập trường của Gs.Nguyễn Ngọc Bích trong mùa QUỐC HẬN 30/4 năm ngoái là, cũng như Việt Tân năm 2005, muốn đi đến xóa ngày QUỐC HẬN 30/4, một ngày kỵ húy cho việc Hòa Giải Hòa Hợp như chúng tôi đã cắt nghĩa ở phần mở đầu bài này.

* Ts. Nguyễn Đình Thắng cũng có những liên hệ khá đặc biệt với trường hợp Ts Cù Huy Hà Vũ được đưa qua Mỹ. Khi vợ chồng Ts Cù Huy Hà Vũ đặt chân lên Phi trường tại Mỹ, thì chính Ts.Nguyễn Đình Thắng ra đón. Ts Nguyễn Đình Thắng là người khá “khôn ngoan lanh lợi bên phải bên trái“ trong việc đấu tranh ở những phương diện sau đây:
Người ta không biết rõ rệt là việc làm của Tiến sĩ Thắng thuộc về đấu tranh Chính trị, đấu tranh Nhân đạo hay đấu tranh Bác ái. Ai cắt nghĩa thế nào cũng được. Có lẽ trong sự mơ hồ này mà có nhiều người không có thời giờ nhìn vào chiều sâu của cuộc đấu tranh của Tiến sĩ Thắng, nên ca ngợi việc làm của Tiến sĩ.

Ts Nguyễn Đình Thắng có lẽ chưa bao giờ dám tuyên bố công khai rằng mục đích đấu tranh của Tiến sĩ là “DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH“.

Chính Ts Nguyễn Đình Thắng ra phi trường đón vợ chồng Ts Cù Huy Hà Vũ, nhưng từ đó cho đến đầu tháng 5 này, không ai thấy Cù Huy Hà Vũ lên tiếng, đồng thời Ts Nguyễn Đình Thắng cũng “yên lặng chiến thuật“: Nhưng từ ngày 03.05.2014, người ta thấy Cù Huy Hà Vũ “mở màn“ nghĩa là mở đầu bằng bài cảm ơn trong đó nói đến lập trường đấu tranh cho Dân chủ của ông. Cũng đầu tháng 5 này, Ts Nguyễn Đình Thắng bắt đầu bài viết biện minh cho việc đấu tranh cứu người bị tù vì đấu tranh Dân chủ hay Nhân đạo gì đó.

Dầu sao Nhân quyền là khí giới lùng bùng như dây thung co dãn, không phải là khí giới có thể “DỨT BỎ HẲN MỘT THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ“ độc tài gian xảo như Cơ chế CSVN, mà ngược lại nó dễ trở thành một việc đấu tranh nhằm “kiện toàn“ chế độ CSVN với Điều 4 Hiến Pháp vẫn còn đó, nghĩa là Cơ chế CSVN hiện hành vẫn được giữ lại và kéo dài thêm nữa với chút ít gọt dũa bề ngoài cho có vẻ đẹp chấp nhận bởi chính những Dân biểu, Nghị sĩ Mỹ và TT.Obama vốn đang choàn chiếc áo Nobel HÒA BÌNH “Hòa Giải“ !

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế

Vì Sao Cần Bàn Về Tính Quốc Gia Của VNCH Và Tính Chất Pháp Lý Của Việc Thống Nhất Đất Nước

Dương Danh Huy và Phạm Thanh Vân May 31, 2014

2014 MAY 10 GIAN KHOAN
Có chủ quyền, vẫn có thể bị mất
Dù cho một nước đã có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ, nếu sau đó nước này bỏ ngỏ cho nước khác tranh chấp, lại còn không duy trì chủ quyền của mình trong khi nước thứ nhì có động thái để xác lập chủ quyền, thì nước thứ nhất có thể bị mất chủ quyền.
Có thể thấy điều này rất rõ trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008.[1]
Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Tòa còn cho rằng công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có tính chất pháp lý cơ bản[2], cũng như không có tính ràng buộc đối với Johor[3]. Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền, và Tòa đã dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore[4].
Bài học cho chúng ta là mặc dù cho tới 1954 Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, vẫn có tiềm năng là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho yêu sách của Trung Quốc, và nếu Việt Nam đã không khẳng định chủ quyền trước yêu sách đó thì Việt Nam vẫn có thể bị mất chủ quyền.
Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu và phân tích thấu đáo về vấn đề duy trì chủ quyền sau 1954.
Những yếu tố còn hạn chế tranh luận, nghiên cứu
Thế nhưng đây lại là một thiếu sót lớn trong truyền thông Việt Nam. Truyền thông Việt Nam đăng tải nhiều về chứng cứ chủ quyền của Việt Nam thời quân chủ, nhưng ít đăng phân tích sâu về việc duy trì chủ quyền sau 1954. Như vậy giống như xem phim tập đầu mà không xem tập cuối: sẽ không thể biết kết quả ra sao. Tệ hơn, nó có thể làm cho chúng ta chủ quan.
Không khó hiểu lý do cho sự thiếu sót trên.
Nếu phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975, sẽ không tránh được sự thật là trong giai đoạn đó VNDCCH đã tiêu cực đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Mặc dù trên diện pháp lý có thể biện luận rằng VNDCCH không có nghĩa vụ hay quyền hạn gì đối với Hoàng Sa, Trường Sa, khó có thể cho rằng VNDCCH không có nghĩa vụ luân lý gì trong việc giúp dân tộc Việt bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo đó cho đến ngày nào đó đất nước thống nhất. Có người có thể sợ rằng điều này sẽ làm mất đi phần nào hào quang của VNDCCH. Dù sao đi nữa, chúng ta cần lưu ý rằng VNDCCH không phải là CHXHCNVN, và nếu VNDCCH có đã tiêu cực về Hoàng Sa, Trường Sa thì điều đó là độc lập với CHXHCNVN có tiêu cực hay không.
Phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 còn có những hệ quả lô gíc có thể bị cho là trái lề chính trị. Thí dụ, khi TT Nguyễn Tấn Dũng viện dẫn sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì lô gíc dẫn đến những câu hỏi sau.
1. Chính quyền VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên trường quốc tế không?
2. Để có thẩm quyền trên, chính quyền VNCH phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế. Vậy khi chính quyền VNCH còn tồn tại, chính thể đó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?
3. Nếu không thì thế nào mà sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa có giá trị trong luật quốc tế?
4. Nếu sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa không có giá trị pháp lý thì từ 1954 đến 30/4/1975 có đại diện pháp lý nào của quốc gia Việt nào đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này không?
Có thể có người sợ rằng việc đặt vấn đề “có phải đã từng có hai quốc gia” cũng như “có phải chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia” sẽ dẫn đến một số câu hỏi. Thậm chí còn có thể có những chuyện chụp mũ kiểu “Anh nói là có 2 quốc gia, anh nói chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý, vậy là anh muốn khôi phục VNCH, vậy là anh là phản động, vậy là anh muốn chia đôi đất nước lần nữa”. Nhưng đó chỉ là một sự chụp mũ. Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia, nếu cho rằng trước 30/4/1975 chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia thì đó chỉ là một nhận định về quá khứ, không có nghĩa muốn chia đôi đất nước đã thống nhất năm 1976, và không có nghĩa muốn khôi phục VNCH hay CHMNVN.
Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng câu hỏi thứ nhì là trong phạm trù luật quốc tế, không phải là một câu hỏi về các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính thể VNCH, VNDCCH.
Khái niệm “quốc gia” ở đây là một thuật ngữ pháp lý, tiếng Anh là State, tiếng Pháp là État, được định nghĩa trong Công ước Montevideo 1933 là một chủ thể có lãnh thổ, dân cư, chính phủ và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác[5]. Nó phải được quán chiếu trong phạm trù luật quốc tế. Khái niệm “quốc gia” trên phương diện pháp lý khác với khái niệm đất nước và tổ quốc, thậm chí khác với cách hiểu bình dân về từ “quốc gia”.
“Quốc gia” khác với “đất nước” hay “nước”, vốn là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư, và cũng khác với “tổ quốc”, vốn là một khái niệm dựa trên lịch sử.
“Quốc gia” cũng khác với “nhà nước”. Nhà nước là tổ chức chính trị để đại diện, lãnh đạo và cai quản quốc gia, chứ không phải là quốc gia. Một nhà nước cộng hòa thường có ba hệ thống: lập pháp (thí dụ như quốc hội), hành pháp (chính phủ) và tư pháp (hệ thống tòa án)[6].
“Quốc gia” cũng khác với “chính phủ”: chính phủ là cơ quan hành pháp của nhà nước. Khi CP VNDCCH không công nhận rằng CP VNCH là đại diện hợp pháp phía nam vĩ tuyến 17 thì điều đó không có nghĩa là CP VNDCCH không công nhận rằng có một quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. Hơn nữa, theo Công ước Montevideo 1933, sự hiện hữu của một quốc gia không dựa vào sự công nhận của các quốc gia khác[7].
Tương tự, “đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế” là một vấn đề trong phạm trù luật quốc tế độc lập với các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính quyền VNCH, chính quyền VNDCCH và chính quyền CHMNVN.
Chúng ta nên giữ câu hỏi thứ nhì trong phạm trù luật quốc tế của nó, và tuyệt đối không nên chụp mũ, để có một môi trường tốt hơn cho việc thảo luận và nghiên cứu về về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975.
Trên thực tế, quan điểm chính thức của VNDCCH và CHMNCH là trước khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN trong quá trình từ 25/4/1976 đến 2/7/1976 thì hai chính thể đó là hai quốc gia[8].
Ngày 30/4/1975 CPCMLT CHMNVN tuyên bố
“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt-nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt-Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt-nam.”[9]
Với một tuyên bố về lãnh thổ, dân cư và quan hệ quốc tế như vậy, rõ ràng là CPCMLT CHMNVN khẳng định rằng miền Nam là một quốc gia như được định nghĩa trong Công Ước Montevideo, và VNDCCH cũng đã không phản đối sự khẳng định đó.
Nhưng nếu từ 30/4/1975 đến 2/7/1976 có hai quốc gia thì dĩ nhiên là đã có hai quốc gia từ trước 30/4/1975, vì sẽ hoàn toàn vô lý nếu cho rằng trước 30/4/1975 chỉ có một quốc gia nhưng sau 30/4/1975 thì thành hai quốc gia. Không lẽ ngày 30/4/1975 lại là ngày đất nước chia đôi từ một quốc gia thành hai quốc gia? Vì vậy, quan điểm cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia không có gì là phản động hay đáng ngạc nhiên – nó là quan điểm chính thức của VNDCCH, CHMNVN và CHXHCNVN mà ngày nay bị nhiều người lãng quên, và có người vì lãng quên cho nên tiêu cực về nó.
Ngoài khó khăn chính trị liên quan đến câu hỏi thứ nhì, còn có khía cạnh con người. Những cựu chiến binh VNDCCH của cuộc chiến 1954-1975 và gia đình của những người đã hy sinh trong cuộc chiến đó sẽ nghĩ gì về câu hỏi “Khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?”, và nếu trả lời cho câu hỏi đó là “Có” thì họ sẽ nghĩ gì?
Nhưng nếu chúng ta cho rằng khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó không phải là đại diện cho một quốc gia nào trong luật quốc tế, thì làm sao có thể khẳng định rằng sự khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của chính quyền đó là có giá trị pháp lý?
Chúng ta có thể đánh giá lịch sử, cụ thể là đánh giá VNDCCH, một cách khoa học, khách quan và tự do hay chưa? Chúng ta có thể nhìn nhận rằng VNDCCH có thể đã làm những điều đúng, những điều sai, những điều phù hợp với luật quốc tế, những điều không phù hợp, hay không? Ở đây cần nhấn mạnh rằng nhìn nhận đó không phủ nhận giá trị của việc thống nhất đất nước. Hay là chúng ta vẫn phải một bên thì bảo vệ hình ảnh thần tượng hóa của VNDCCH, và bên kia thì quỷ sứ hóa chính thể đó?
Một kịch bản trước Tòa
Để minh họa tại sao lại phải phân tích về giai đoạn sau 1954, tại sao cần phải nghiên cứu về có phải VNCH và VNDCCH đã từng là hai quốc gia không, tại sao cần phải nghiên cứu về tính pháp lý của việc thống nhất đất nước, chúng tôi sẽ trình bày kịch bản giả định sau:
● Việt Nam và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa.
● Tòa bác bỏ những chứng cứ hoang đường, mơ hồ trong cổ sử của Trung Quốc.
● Tòa công nhận rằng các hành động chủ quyền của Việt Nam trong thời quân chủ đã làm cho chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.
● Tòa cho rằng Pháp đã duy trì chủ quyền Việt Nam, và cho tới 1954 thì Hoàng Sa vẫn là của Việt Nam.
● Trung Quốc vin vào CH PVĐ và các hành vi của VNDCCH để tiếp tục tranh cãi về giai đoạn từ năm 1954 trở đi. Trong luật quốc tế, có ba nguyên tắc có thể làm cho Việt Nam mất chủ quyền: recognition (công nhận chủ quyền của nước khác), estoppel (bị ngăn cản không được dùng dẫn chứng cho chủ quyền của mình) và acquiescence (từ bỏ chủ quyền của mình)[10], và Trung Quốc vận dụng những nguyên tắc này.
1. Trung Quốc: Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc (recognition). Dẫn chứng là CH PVĐ, các phát ngôn và tài liệu của VNDCCH.
2. Việt Nam: Các dẫn chứng đó không có giá trị pháp lý như một sự công nhận (recognition).
[Trên thực tế, báo Nhân Dân, các NXB sách vở, bản đồ, v.v., và ông Ung Văn Khiêm đều không có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia về lãnh thổ. Trong những tác giả của các dẫn chứng mà Trung Quốc dùng, theo luật quốc tế thì chỉ có ông Phạm Văn Đồng là có thẩm quyền, nhưng theo luật quốc tế thì CH PVĐ không phải là sự công nhận. GS luật quốc tế Monique Chemiller-Gendreau cũng cho rằng CH PVĐ không phải là sự công nhận[11].]
3. Trung Quốc: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn của VNDCCH có tính ràng buộc pháp lý và cũng đã tạo ra một estoppel ngăn cản không cho Việt Nam đòi Hoàng Sa.
4. Việt Nam: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn đó không có tíng ràng buộc pháp lý, và cũng không hội tụ được nhiều điều kiện của estoppel, eg, CH PVĐ không nói cụ thể về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc đã không dựa trên CH PVĐ để có hành động có thiệt hại cho mình (detrimental reliance).
[Theo luật quốc tế, có khi tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc cho bên tuyên bố, có tuyên bố đơn phương không có tính ràng buộc[12], có khi gây ra estoppel, có khi không. Chúng tôi cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện để có tính ràng buộc hay gây ra estoppel cho Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa[13].
Thí dụ như trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge, Tòa án Công lý Quốc tế đã không công nhận rằng công hàm của Johor nói Johor không đòi chủ quyền đối với đảo Pedra Branca có tính ràng buộc, cũng như không công nhận quan điểm của Singapore cho rằng công hàm đó đã gây ra estoppel.
TS Từ Đặng Minh Thu cũng có phân tích cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện của Estoppel[14].]
5. Trung Quốc: Đó là từ bỏ chủ quyền (acquiescence). Dẫn chứng là Việt Nam đã im lặng, và tới giữa thập niên 70 mới lên tiếng. Bất kể ban đầu Việt Nam có chủ quyền hay không, trong khi chúng tôi đòi chủ quyền và chiếm giữ mà Việt Nam im lặng bấy lâu thì sau đó Việt Nam cũng không có.
[Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, mặc dù Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền khi Singapore có những động thái nhằm xác lập chủ quyền trong giai đoạn sau này.
Sự im lặng của Thái Lan đối với các động thái ngoại giao của Campuchia nhằm khẳng định chủ quyền đối với đền Preah Vihear trong một thời gian dài cũng là yếu tố để Tòa quyết định rằng chủ quyền của đền thuộc về Campuchia[15].
Việt Nam không chối cãi được rằng VNDCCH đã không hề khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. CPCMLT CHMNVN thì năm 1969 mới ra đời, và cũng không khẳng định chủ quyền một cách cụ thể, trong khi Trung Quốc đã liên tục có các động thái để khẳng định yêu sách chủ quyền hai quần đảo, ví dụ như chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa năm 1956, đưa ra tuyên bố lãnh hải 1958. Khi Trung Quốc chiếm hết quần đảo Hoàng Sa năm 1974 thì CPCMLT CHMNVN cũng chỉ tuyên bố chung chung rằng các nước láng giềng thường có tranh chấp lãnh thổ, và các nước liên quan cần giả quyết một cách bình đẳng, hữu nghị, v.v., bằng thương lượng.
Khó phản biện luận điểm này của Trung Quốc (vận dụng nguyên tắc acquiescence) hơn luận điểm 1 (vận dụng nguyên tắc recognition) và 3 (vận dụng nguyên tắc estoppel).
Việt Nam không có cách nào khác ngoài viện dẫn các lời khẳng định chủ quyền và hành động chủ quyền của VNCH, và đó là điều mà Việt Nam đã làm.]
6. Việt Nam: Việt Nam có đòi chủ quyền. Dẫn chứng là (1) Trước 1956 thì CP Việt Nam Quốc Gia đòi chủ quyền, (2) Từ 1956 đến 1975 thì CP VNCH đòi.
[Trung Quốc sẽ phản biện như sau.]
7. Trung Quốc: Trong luật quốc tế thì việc khẳng định chủ quyền chỉ có giá trị pháp lý nếu việc đó là từ đại diện pháp lý của một quốc gia. Chính quyền Sài Gòn là một ngụy quyền, không phải là đại diện pháp lý của 1 quốc gia.
[VN làm gì đây? Bên “A” thì nói "Thấy chưa? CP VNCH là đại diện pháp lý của VN, chính quyền Hà Nội là bất hợp pháp, là hay nhất"? Bên “B” thì nói "Đồ phản động! CP VNDCCH mới là đại diện pháp lý của Việt Nam"?]
9. Trung Quốc: Mỉm cười nụ cười “thiên triều”.
[Đó là lý do tại sao cần vận dụng quan điểm của một số nhà luật học nổi tiếng nhất thế giới: trước 1976 đất nước Việt Nam là 2 quốc gia[16]. Trong quyển “The creation of States in international law”, luật sư luật quốc tế James Crawford viết như sau.
Trang 474:
what in fact occurred in the period after 1954 is clear – the provisional demarcation line between the two zones became a boundary between two States, north and south Vietnam.
Trang 475:
Each entity was a unit for the purposes of the use of force, self-determination, foreign and internal affairs; and another name for such as unit is a State.
Trang 476:
“But the subsequent establishment of two separate zones in Vietnam must be taken to mark the establishment of two separate States, neither of which, in law or in fact, ever extended over the whole territories of Vietnam.”
Với quan điểm đó, có thể hiểu rằng CP VNDCCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía bắc, CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam cho đến 1975, trong thời gian 1975-1976 thì CPCMLT CHMNVN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam.
Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng “đại diện pháp lý của quốc gia” là một vấn đề luật quốc tế, một vấn đề giữa các quốc gia, nó không nói gì về chính nghĩa trong tranh chấp chính trị giữa người Việt với nhau.
Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia, Việt Nam có thể nói như sau.]
10. Việt Nam: Theo luật quốc tế thì từ 1956 đến 1975 thì có 2 quốc gia, và CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17.
[Trên thực tế, trước 30/4/1975 phần lớn các nước trên thế giới công nhận CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam. Trong một số bài viết khác, chúng tôi đã phân tích về khi VNCH còn tồn tại thì chính thể đó có phải là một quốc gia hay không, và quan điểm của chúng tôi là “Có”[17]. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thường thì lập luận nào cũng có rủi ro trước Tòa.
Khúc mắc hiện nay là khúc mắc có tính lịch sử và chính trị. Hệ quả lô gíc của quan điểm “trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia” là khi quân đội của VNDCCH chiến đấu ở phía nam vĩ tuyến 17 trước khi CP VNCH sụp đổ thì đó là can thiệp quân sự vào xung đột nội bộ (tức là xung đột giữa CP VNCH và MTGPMN/CPLT CHMNCN trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17) của một quốc gia khác (mặc dù cả hai quốc gia đó đều là những phần của tổ quốc Việt Nam), tức là đã làm một điều không phù hợp với luật quốc tế. Chắc chắn là có người khó có thể chấp nhận rằng sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17 là không phù hợp với luật quốc tế, và do đó họ khó có thể chấp nhận quan điểm “trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia”.
Nhưng nếu có ai không chấp nhận (có thể là trên phương diện chính trị hay phương diện pháp lý) quan điểm “đã từng hiện hữu 2 quốc gia” thì hãy thử đặt vấn đề ngược lại như sau.
Nếu từ 1956 đến 1975, CP VNCH không phải là đại diện pháp lý của một quốc gia, để cho những tuyên bố và hành động của CP đó về Hoàng Sa có giá trị pháp lý, thì trong thời gian đó có đại diện pháp lý của quốc gia nào đã khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa? Nếu từ 1956 đến 1975 đại diện pháp lý của toàn bộ Việt Nam không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, còn chính thể khẳng định thì lại là ngụy, không phải là đại diện pháp lý cho một quốc gia, do đó việc khẳng định không có giá trị pháp lý, thì Tòa sẽ kết luận thế nào?
Có vẻ như ở đây có hai điều trên bàn cân: một bên là lập luận dựa trên luật quốc tế để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm về chính trị và lịch sử lo ngại rằng nếu công nhận rằng VNDCCH và VNCH đã từng là hai quốc gia thì sẽ là một sự công nhận nào đó về “bên kia”, và có thể cả lo ngại rằng sự công nhận đó sẽ đặt nghi vấn về sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17.]
11. Trung Quốc: Nếu VNDCCH và VNCH là 2 quốc gia thì VNDCCH đã thôn tính lãnh thổ của một quốc gia khác (VNCH) bằng bạo lực, do đó không thể thừa kế chủ quyền lãnh thổ từ quốc gia đó, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
[Vấn đề ở đây là nếu cho rằng CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền pháp lý với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.
Phản biện của Việt Nam sẽ dựa trên sự hiện hữu của CPCMLTCHMNVN. Dựa trên hình thức trên, Việt Nam có thể phản biện như sau.]
12. Việt Nam: CHXHCNVN được thành lập từ 2 quốc gia, VNDCCH và CHMNVN, thống nhất lại với nhau một cách hợp pháp ngày 2/7/1976. Chính Trung Quốc đã công nhận CPLT CHMNCN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17, và Trung Quốc đã công nhận sự thành lập của CHXHCNVN. Vì vậy, Trung Quốc không thể cho rằng CHXHCNVN là VNDCCH thôn tính VNCH một cách bất hợp pháp. Như vậy, CHXHCNVN đã thừa kế từ VNCH.
[Theo hình thức pháp lý thì:
1. Trước 30/4/1975 có hai quốc gia: VNDCCH và VNCH.
2. Cuộc xung đột trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17 là giữa CP VNCH và CPCMLT CHMNVN.
3. Ngày 30/4 CPCMLT CHMNVN lật đổ CP VNCH, lên cầm quyền, đổi tên quốc gia thành CHMNVN.
4. CHMNVN không phải là một quốc gia mới, mà là quốc gia có từ trước 30/4/1975, nhưng với một tên mới. Vì chỉ là một việc đổi tên và đổi chế độ của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên vùng lãnh thổ nào là đã thuộc chủ quyền VNCH mặc nhiên vẫn là của CHMNVN[18]. Tức là nếu trên diện pháp lý trước 30/4/1975 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền VNCH, thì sau 30/4/1975 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHMNVN.
5. Sau 30/4/1975, vẫn có hai quốc gia: VNDCCH và CHMNVN.
6. Từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành một, CHXHCNVN, và sự thống nhất đó không bị nước nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, phản đối là xâm lăng bằng bạo lực. Với định nghĩa của quốc gia là lãnh thổ, dân cư và nhà nước, định nghĩa của sự thống nhất quốc gia tất nhiên là thống nhất lãnh thổ, dân cư và nhà nước của một số quốc gia thành một. Khi hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất thành một, CHXHCNVN, thì dĩ nhiên là chủ quyền lãnh thổ của CHXHCNVN bao gồm chủ quyền lãnh thổ của VNDCCH và CHMNVN trước thống nhất. Như vậy, nếu trên diện pháp lý trước 2/7/1976 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền CHMNVN, thì sau 2/7/1976 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHXHCNVN. Trừ khi CHXHCNVN tuyên bố rằng mình đã không thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, không có lý do hợp lý để cho rằng khi CHXHCNVN được thành lập năm 1976 trên diện pháp lý chủ quyền của quốc gia đó đã không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.
(Có thể có quan điểm sai lầm rằng từ 1976 cho đến nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Tệ hơn nữa, có thể cho rằng ngày nay cần làm thủ tục thì mới thừa kế. Quan điểm này là sai lầm vì những lý do sau:
1. Như đã trình bày trên, ngày 30/4/1975, khi CP VNCH bị sụp đổ và CPCMLT CHMNVN lên thay thế thì đó chỉ là một sự thay đổi chế độ và thay đổi tên của một quốc gia. Do đó, lãnh thổ của VNCH mặc nhiên là lãnh thổ của CHMNVN. Kế tiếp, như đã trình bày trên, năm 1976 hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã làm thủ tục để thống nhất thành một quốc gia, CHXHCNVN, và thống nhất quốc gia tất nhiên bao gồm cả thống nhất lãnh thổ. Do đó, thủ tục để CHXHCNVN thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa từ CHMNVN (quốc gia trước đó có tên “VNCH”) chính là thủ tục thống nhất mà CHMNVN và VNDCCH đã làm từ 25/4/1976 đến 2/7/1976.
2. Thứ nhì, trên thực tế, không có nước nào trên thế giới cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền lãnh thổ của VNCH, cho nên không có lý do hợp lý để người Việt lại cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế.
3. Thứ ba, sau khi CHXHCNVN ra đời thì hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN/VNCH không còn tồn tại nữa. Nếu khi đó CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì chủ quyền đó đã rơi vào tay một trong những nước đã đòi chủ quyền từ trước. Nếu từ 1976 cho tới nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế thì dù bây giờ có làm thủ tục gì đi nữa, có tuyên bố gì đi nữa, cũng sẽ không còn gì để thừa kế, vì chủ quyền đó đã rơi vào tay nước khác rồi. Bất cứ thủ tục, tuyên bố nào ngày nay cũng chỉ có thể xác nhận một sự thừa kế đã diễn ra năm 1976, không thể nào thay đổi từ “chưa thừa kế” thành “thừa kế”.
4. Nếu ngày nào trong tương lai Việt Nam làm gì đó gọi là “làm thủ tục” để thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì Trung Quốc sẽ dùng hành động vớ vẩn đó để nói rằng chính Việt Nam đã công nhận rằng từ 1976 cho đến ngày đó đã chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì Việt Nam sẽ khó có thể cãi rằng trong khoảng thời gian đó chủ quyền chưa rơi vào tay nước khác.)
Tuy nhiên, luận điểm 12 này cũng không phải không có rủi ro trước Tòa. Trên thực tế, những sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam (quân đội của CPCMLT CHMNVN) là những sư đoàn Quân đội Nhân dân của VNDCH. Chiến dịch Hồ Chí Minh được chỉ đạo bởi VNDCCH. Các lữ đoàn xe tăng tiến vào dinh Độc lập này 30/4/75 treo cờ CHMNVN, nhưng là các đơn vị của VNDCCH. Nếu ra Tòa, vấn đề đó có sẽ có ảnh hưởng gì đến tính pháp lý của việc thống nhất và kế thừa không?
Ngoài khía cạnh pháp lý trên, có điều trớ trêu là trong khi Điểm 10 có khúc mắc chính trị-lịch sử cho những người khó chấp nhận rằng khi VNCH còn tồn tại thì nó đã từng là một quốc gia, thì điểm 12 lại có khúc mắc chính trị-lịch sử cho một số người có chính kiến khác với nhóm thứ nhất. Nhóm thứ nhì này khó chấp nhận quan điểm cho rằng hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã thống nhất một cách tự nguyện và pháp lý thành CHXHCNVN. Họ cho rằng sự thống nhất đó là VNDCCH xâm lược VNCH, và CPCMLTCHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH.
Nhưng nếu cho rằng VNDCCH đã xâm lược VNCH, và cho rằng CPCMLT CHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH, thì làm sao để lập luận cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa năm 1976? Nếu cho rằng CHXHCNVN chưa thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì như phân tích án lệ ở trên, rất có thể Tòa sẽ cho rằng Việt Nam đã mất chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1976 vào tay Trung Quốc hoặc Philippines, là những quốc gia đã liên tục có yêu sách chủ quyền từ trước 1975.
Dường như Hoàng Sa, Trường Sa lại bị đặt lên bàn cân: một một bên là lập luận pháp lý để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm chính trị và lịch sử của những người cho rằng sự thống nhất của Việt Nam lại thành một quốc gia, CHXHCNVN, là không hợp pháp].



 
Lột trần sự thật về “Bác”, Ảnh Ba Bùi
Một số lập luận khác
Trong trường hợp không chứng minh được là đã từng có hai quốc gia, có lẽ Việt Nam có hai lập luận khác.
Thứ nhất, nếu kể ra cho đầy đủ thì Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1956-1975 CP VNCH là chính phủ pháp lý của quốc gia Việt duy nhất. Trên thực tế, Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận quan điểm đó, chưa nói tới Tòa có sẽ chấp nhận hay không. Vì thế, quan điểm này có vẻ có ít tính thực tế.
Thứ nhì, Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1954-1975 chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong tình trạng đóng băng, và không thể thay đổi. Thí dụ, Việt Nam có thể cố gắng dùng một số trong những lập luận sau.
1. Cả chính quyền Hà Nội và chính quyền Sài Gòn đều không có đủ thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền lãnh thổ. Nhưng có vẻ như có ít cơ sở pháp lý cho lập luận này.
2. Mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý. Nhưng không biết trong luật quốc tế có nguyên tắc nào có nghĩa “mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý” nếu hai bên đó không phải là hai quốc gia?
3. Cuộc chiến khốc liệt đã tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt đòi hỏi chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, phải được đóng băng để bảo đảm sự công bằng. Trên thực tế, nguyên tắc utis possidetis có được áp dụng trong chiến tranh, khi nước này chiếm đóng lãnh thổ của nước kia trong cuộc chiến, và cũng được áp dụng cho quá trình giành độc lập của các nước thuộc địa. Nhưng không rõ có thể áp dụng nguyên tắc đó cuộc chiến 1954-1975 không?
Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghiên cứu đủ để tìm thấy cơ sở pháp lý của những lập luận trên và thật sự đánh giá chúng.
Lời kết
Trên đây chúng tôi đưa ra một kịch bản giả tưởng có thể xảy ra tại Tòa. Nhưng cho dù Tòa chưa thể phân xử tranh chấp, những nguyên tắc trong kịch bản này vẫn áp dụng cho hiện tại. Lý do là trong hiện tại, trong cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông trên trường quốc tế, Trung Quốc đã luôn viện dẫn CH PVĐ để chứng minh Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[19]. Một số học giả quốc tế cũng coi đây là điểm yếu trong yêu sách chủ quyền của Việt Nam[20]. Bởi vậy, tuy là một kịch bản tại Tòa, và vẫn còn chưa biết tới ngày nào Trung Quốc sẽ đồng ý ra Tòa, nhưng ngay từ lúc này Việt Nam cần phải nghiên cứu, mổ xẻ vấn đề này để có thể chuẩn bị lý lẽ cho cuộc tranh biện trên truyền thông và trong giới học giả. Việt Nam coi trận hải chiến Hoàng Sa là hành động dùng vũ lực của Trung Quốc để cưỡng chiếm Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc có thể nói rằng đây là cuộc chiến chính đáng để thu hồi đất bị chiếm. Cũng có hai quan điểm đối kháng tương tự cho Trường Sa. Dư luận thế giới sẽ tin bên nào, có ủng hộ Việt Nam hay ngó lơ cho Trung Quốc, có lẽ phụ thuộc rất nhiều vào lập luận pháp lý của mỗi bên và phụ thuộc vào sự tích cực của Việt Nam trong việc tranh thủ dư luận quốc tế.
Thế nhưng, vẫn còn những khúc mắc trong các quan điểm khác nhau về chính trị và lịch sử, vẫn còn những vết thương chưa lành từ cuộc chiến, thậm chí có thể có cả những sự chụp mũ, và những điều này vẫn còn gây ra những hạn chế cho môi trường phân tích pháp lý. Hai bàn cân được đề cập đến trong Điểm 10 và 12 trong kịch bản có, hay có sẽ, nghiêng về ưu tiên cho Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
Dương Danh Huy và Phạm Thanh Vân
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Nguồn bauxitevn
[1] Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, I.C.J. Reports 2008: http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[2] Xem tr. 73, đ. 227: Regarding the first submission, the Court does not consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense that it had a conclusive legal effect on Johor. Rather it is a response to an enquiry seeking information. It will be seen that, in the circumstances, this submission is closely related to the third.
[3] Xem tr. 73, đ. 228: Regarding the second submission, the Court points out that a party relying on an estoppel must show, among other things, that it has taken distinct acts in reliance on the other party’s statement (North Sea Continental Shelf, Judgment, I.C.J. Reports 1969, p. 26, para. 30). The Court observes that Singapore did not point to any such acts. To the contrary, it acknowledges in its Reply that, after receiving the letter, it had no reason to change its behaviour; the actions after 1953 to which it refers were a continuation and development of the actions it had taken over the previous century. While some of the conduct in the 1970s, which the Court next reviews, has a different character, Singapore does not contend that those actions were taken in reliance on the Johor response given in its letter of 1953. The Court accordingly need not consider whether other requirements of estoppel are met.
Xem tr. 82, đ. 229: Finally, on the third submission about the Johor reply amounting to a binding unilateral undertaking, the Court recalls that when it is claimed that “States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for” (Nuclear Tests (Australia v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 267, para. 44; Nuclear Tests (New Zealand v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 473, para. 47). The Court also observes that the statement was not made in response to a claim made by Singapore or in the context of a dispute between them, as was the case in the authorities on which Singapore relies. To return to the discussion of the first submission, Johor was simply asked for information. Its denial of ownership was made in that context. That denial cannot be interpreted as a binding undertaking.
[4] Xem tr. 96, đ. 275: Further, the Johor authorities and their successors took no action at all on Pedra Branca/Pulau Batu Puteh from June 1850 for the whole of the following century or more. And, when official visits (in the 1970s for instance) đwere made, they were subject to express Singapore permission. Malaysia’s official maps of the 1960s and 1970s also indicate an appreciation by it that Singapore had sovereignty. Those maps, like the conduct of both Parties which the Court has briefly recalled, are fully consistent with the final matter the Court recalls. It is the clearly stated position of the Acting Secretary of the State of Johor in 1953 that Johor did not claim ownership of Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. That statement has major significance.
Xem tr. 96, đ. 276: The Court is of the opinion that the relevant facts, including the conduct of the Parties, previously reviewed and summarized in the two preceding paragraphs, reflect a convergent evolution of the positions of the Parties regarding title to Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. The Court concludes, especially by reference to the conduct of Singapore and its predecessors à titre de souverain, taken together with the conduct of Malaysia and its predecessors including their failure to respond to the conduct of Singapore and its predecessors, that by 1980 sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh had passed to Singapore.
[5] Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia: http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897
ARTICLE 1 The state as a person of international law should possess the following qualifications: a ) a permanent population; b ) a defined territory; c ) government; and d) capacity to enter into relations with the other states.
[6] Có “State” và “État” được thành “Nhà nước”, nhưng dịch như thế là không chính xác. Thí dụ như UNCLOS đề cập đến “coastal State” và “user State”, nếu dịch thành “quốc gia ven biển” và “quốc gia sử dụng biển” thì sẽ chính xác hơn dịch thành “Nhà nước ven biển” và “Nhà nước sử dụng biển”.
[7] Công ước Montevideo, Điều 3: The political existence of the state is independent of recognition by the other states. Even before recognition the state has the right to defend its integrity and independence, to provide for its conservation and prosperity, and consequently to organize itself as it sees fit, to legislate upon its interests, administer its services, and to define the jurisdiction and competence of its courts.
The exercise of these rights has no other limitation than the exercise of the rights of other states according to international law.
[8] Thí dụ như “Báo cáo của ông Trường Chinh, Trưởng Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_4.htm, ghi Về mặt Nhà nước, Việt Nam là một nước, nhưng về danh nghĩa vẫn chia làm hai Nhà nước: miền Bắc có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Nam có Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Bắc có Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; miền Nam có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Quan điểm của CHMNVN cũng là VNDCCH và CHMNVN vẫn còn là hai Nhà nước khác biệt. Thí dụ như “DIỄN VĂN CỦA ÔNG PHẠM HÙNG, TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU MIỀN NAM TẠI HỘI NGHỊ HIỆP THƯƠNG CHÍNH TRỊ THỐNG NHẤT TỔ QUỐC, NGÀY 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_5.htm, ghi
Vừa qua, ở miền Nam đã họp Hội nghị liên tịch mở rộng giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Trung ương Liên minh Các lực lượng Dân tộc dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời, Hội đồng Cố vấn Chính phủ, nhiều đại biểu trí thức, nhân sĩ yêu nước và dân chủ, để thảo luận việc sớm thực hiện thống nhất Tổ quốc về mặt Nhà nước. Hội nghị đã hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải sớm thống nhất Nhà nước và thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội.
[9] Hà Nội Mới, Số 2246, 2/5/1975
[10] ”Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary Dispute Settlement”, Nuno Sergio Marques Antunes, 2000, International Boundaries Research Unit, Durham University.
[11] Monique Chemillier-Gendreau, “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”: p. 129
và “Guiding Principles applicable to unilateral declarations of States capable of creating legal obligations”, The International Law Commission, http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/draft%20articles/9_9_2006.pdf
[13] “A legal analysis in support of Viet Nam’s position regarding the Paracel & Spratly Islands”, Nguyen Thai Linh and Duong Danh Huy, 2012, South China Seas Studies, Học viện Ngoại giao, http://southchinaseastudies.org/en/publications/vietnamese-publications/698-a-legal-analysis-in-support-of-viet-nams-position-regarding-the-paracel-a-spratly-islands
[14] “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 2007, Thời Đại Mới, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
[15] Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand). I.C.J. summary 1962:
[15]http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4873.pdf
[16] “The creation of States in international law”, Crawford, 2006, Oxford University Press.
[17] “Tính pháp lý của việc thừa kế hai quần đảo”, Phạm Thanh Vân và Dương Danh Huy, 2012, BBC,http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120707_legal_scs_comment.shtml
và “Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh, 2013, BBC,http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130411_hoangsa_truongsa_vn_vnch.shtml
[18] Thí dụ như khi phe nổi loạn ở Zaire lật đổ chế độ Mobutu và đổi tên nước thành Democratic Republic of the Congo thì đó chỉ là sự thay đổi chế độ và thay tên của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên những vùng lãnh thổ nào là của Zaire mặc nhiên vẫn là của Democratic Republic of the Congo. Cũng như khi Lol Nol lật đổ Sihanouk và đổi tên nước thành Cộng Hòa Khmer, Khmer Đỏ lật Lol Nol và đổi tên nước thành Campuchia Dân Chủ, thì những vùng lãnh thổ nào là của Campuchia vẫn là của Campuchia.
[19] Tại Hội thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông do Trung tâm châu Á và toàn cầu hóa phối hợp tổ chức với trường ĐH Lý Quang Diệu tháng 3 năm 2013, với sự tham gia của nhiều học giả và quan chức từ Mỹ, Việt Nam, Trung Quốc và Singapore, khi được chất vấn về hành động “thay đổi hiện trạng” của Trung Quốc vào các năm 1974 và 1988, học giả Trung Quốc đã viện dẫn CH PVĐ để chứng minh rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:http://asiasociety.org//video/policy/us-and-china-south-china-sea-complete?utm_source=asiasociety.org&utm_medium=jwplayer&utm_campaign=video (xem từ phút thứ 59)
Hay: Trong cuốn sách mới xuất bản năm 2013 với tựa đề “Solving Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective”, Wu Shicun, chủ tịch Viện nghiên cứu quốc gia TQ về Biển Đông do chính phủ TQ tài trợ, viết “VNDCCH công khai ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Nguyên văn tiếng Anh: “DRV openly supported China’s sovereignty over the Xisha and Nansha Islands”)
[20] Stein Tonnesson, “The History of the Dispute,” in Timo Kivimaki (ed.): p. 16
Clarence J. Bouchat, “Dangerous Ground: The Spratly islands and U.S. interests and approaches”, United States Army War College Press (2013): p. 25
Trefor Moss, “History Wars: A Long View of Asia’s Territorial Disputes”, The Diplomat (2013): http://thediplomat.com/2013/09/history-wars-a-long-view-of-asias-territorial-disputes.

Làm Cách Nào Xóa Mối Nhục Bán Nước?


2014 MAY 29 BÁN NƯỚC.300
Các “đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên một thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Quốc (viết tắt, Trung Cộng). 
Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện, không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn.
Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!” Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền! Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.
Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.
Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.
Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa” và “Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.
Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!
Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?
Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.
Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.
Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan.” Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,
Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng.” Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung.” Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan.” Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.
Ngô Nhân Dụng