Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014
Ayn Rand – Nguồn gốc của chiến tranh
07:31
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Nhiều người nói rằng vũ khí
nguyên tử làm cho chiến tranh trở thành khủng khiếp đến mức buộc người
ta phải suy nghĩ. Nhưng tất cả các dân tộc trên thế giới đều cảm thấy
hốt hoảng và bất lực trước viễn cảnh là chiến tranh có thể xảy ra.
Tuyệt đối đa số người dân –
những người sẽ chết trên chiến trường hay chết đói hoặc chết trong những
đống đổ nát – không muốn có chiến tranh. Không bao giờ muốn. Nhưng từ
thế kỉ này đến thế kỉ khác chiến tranh vẫn thường xuyên nổ ra, giống như
một vệt máu dài song hành với lịch sử loài người vậy.
Người ta sợ chiến tranh có thể
xảy ra vì họ biết, một cách hữu thức hay vô thức, rằng họ không bao giờ
có thể từ bỏ được cái học thuyết vốn là nguyên nhân của các cuộc chiến
tranh trong quá khứ và có thể là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh
trong hiện tại và tương lai – đấy là học thuyết nói rằng sử dụng vũ lực
(dùng vũ lực chống lại những người khác) để đạt mục đích là chấp nhận
được hay là biện pháp thực tiễn hoặc cần thiết nữa và có thể được biện
hộ nếu đấy là mục đích “tốt”. Học thuyết này cho rằng vũ lực là một
thành tố hợp pháp hoặc không thể tránh được của cuộc sống của con người
và xã hội loải người.
Hãy xem một trong những đặc điểm
xấu xa nhất của thế giới hôm nay: sự chuẩn bị chiến tranh điên cuồng
nhất đi liền với sự tuyên truyền cho hoà bình cũng điên cuồng không kém.
Và cả hai hiện tượng này đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc – từ cùng
một triết lí chính trị. Mặc dù đã bị phá sản, cái triết lí chính trị gọi
là chủ nghĩa quốc gia vẫn giữ thế thượng phong trong thời đại chúng ta.
Xin xem xét bản chất của cái gọi
phong trào gọi là hoà bình hiện nay. Tự nhận là nhân bản và lo lắng cho
sự tồn vong của nhân loại, phong trào này kêu gào chấm dứt chạy đua vũ
trang hạt nhân, từ bỏ vũ khí như là phương tiện giải quyết bất đồng giữa
các quốc gia và đưa chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Nhưng những
phong trào hoà bình này lại không chống lại các chế độ độc tài, còn quan
điểm chính trị của các thành viên của nó thì muôn màu muôn vẻ, từ nhà
nước phúc lợi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng
sản. Điều đó có nghĩa là họ chống lại việc dân tộc này sử dụng vũ lực
chống lại dân tộc khác chứ không chống lại việc chính phủ của một nước
sử dụng vụ lực nhằm chống lại các công dân của chính nó; điều đó cũng có
nghĩa là họ chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại kẻ thù có vũ
trang, nhưng không chống lại việc sử dụng vũ lực nhằm chống lại những
người tay không tấc sắt.
Các chế độ độc tài đã cướp bóc,
phá hoại, gây ra nạn đói, tình cảnh dã man, trại lao động khổ sai, phòng
tra tấn, giết người hàng loạt. Đấy chính là cái mà những người tự nhận
là yêu hoà bình hiện nay sẵn sàng biện hộ hoặc chịu đựng – nhân danh
tình yêu nhân loại.
Rõ ràng là cội nguồn tư tưởng
của chủ nghĩa quốc gia (hay chủ nghĩa tập thể) là quan niệm bầy đàn của
những người nguyên thuỷ, những kẻ không thể nhận thức được các quyền của
cá nhân con người, những kẻ tin rằng bộ lạc là tối thượng, bộ lạc là kẻ
nắm quyền toàn trí toàn năng, có quyền sinh quyền sát đối với các thành
viên của nó và có thể hi sinh các thành viên bất cứ khi nào và cho bất
cứ thứ gì mà nó cho là “tốt”. Không nhận thức được bất kì nguyên tắc xã
hội nào, ngoại trừ nguyên tắc vũ lực bạo tàn, những người như thế tin
rằng bộ lạc có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là có đủ sức và các bộ
lạc khác chỉ là những con mồi, phải bị chinh phục, cướp bóc, bắt làm nô
lệ hoặc xoá sổ hoàn toàn. Lịch sử của các dân tộc bán khai chính là một
loạt những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc và tàn sát lẫn nhau. Sự kiện
là cái hệ tư tưởng nguyên thuỷ đó vẫn còn điều khiển các quốc gia được
trang bị vũ khí hạt nhân phải làm cho bất cứ ai quan tâm tới sự sống còn
của nhân loại để tâm suy nghĩ.
Chủ nghĩa quốc gia là bạo lực đã
được định chế hoá và cuộc nội chiến không bao giờ dứt. Nó không cho
người ta bất cứ lựa chọn nào ngoài việc chiến đấu để giành quyền lực –
tức là cướp hay là bị cướp, giết hay là bị giết. Khi vũ lực bạo tàn trở
thành thước đo duy nhất đối với các hành vi của xã hội và không kháng cự
nghĩa là chết thì ngay một hèn kém nhất, ngay cả con vật, thậm chí con
chuột cũng sẽ chiến đấu. Một dân tộc bị nô dịch thì không thể có hoà
bình được.
Nội chiến, tức là chiến tranh
huynh đệ tương tàn giữa những người không thể tìm được luật pháp và công
lí bằng con đường hoà bình, chứ không phải chiến tranh giữa các dân tộc
mới là những cuộc đụng độ đẫm máu nhất trong lịch sử. Lịch sử của các
nhà nước chuyên chế thường bị gián đoạn bởi những cuộc nổi dậy đẫm máu –
những vụ bùng nổ của nỗi tuyệt vọng mù quáng, không cần hệ tư tưởng.
không cần cương lĩnh hay kế hoạch nào hết – những vụ bạo loạn thường bị
đàn áp bằng những vụ hành quyết dã man những kẻ phản loạn.
Trong chế độ chuyên chế tuyệt
đối, cuộc “chiến tranh lạnh” do chủ nghĩa quốc gia sinh ra thường diễn
ra dưới hình thức những cuộc thanh trừng đẫm máu, đấy là khi băng đảng
này lật được băng đảng kia, như đã từng xảy ra ở nước Đức quốc xã hay ở
Liên Xô. Trong nền kinh tế hỗn hợp, cuộc chiến tranh này diễn ra dưới
hình thức cuộc chiến đấu giữa các nhóm lợi ích, mỗi nhóm đều chiến đấu
cho việc thông qua những đạo luật có lợi cho họ và tước đoạt lợi ích của
các nhóm khác .
Đất nước càng chia thành các
nhóm đối địch nhau và làm cho người nọ chống báng người kia thì tinh
thần quốc gia trong hệ thống chính trị của nước đó càng cao. Khi quyền
cá nhân không còn thì cũng không thể nào xác định ai được làm gì, không
thể nào xác định được đòi hỏi, ước mong hay quyền lợi của một người nào
đó là đúng hay không. Lúc đó sẽ phải trở về với tiêu chuẩn của bộ lạc:
anh có thể ước muốn bất cứ thứ gì, miễn là băng nhóm của anh có đủ sức.
Muốn sống sót trong một hệ thống như thế người ta buộc phải sợ hãi, căm
thù và giết hại lẫn nhau; đấy là hệ thống của những mưu đồ, những âm mưu
bí mật, những vụ thông đồng, bao che, phản bội và đảo chính đẫm máu. Hệ
thống này không đưa người ta đến tình huynh đệ, sự an toàn, thái độ hợp
tác và hoà bình.
Chủ nghĩa quốc gia – cả trên
nguyên tắc lẫn thực tế – chỉ là quyền lực của băng đảng. Chế độ độc tài
chính là băng đảng được quyền cướp đoạt thành quả lao động của các công
dân của chính đất nước mình. Sau khi đã làm khánh kiệt nền kinh tế của
đất nước, kẻ cầm quyền có tinh thần quốc gia sẽ tấn công các nước láng
giềng. Đấy là cách duy nhất giúp hắn trì hoãn vụ sụp đổ và kéo dài quyền
lực của chính hắn. Một đất nước giày xéo lên quyền của các công dân
nước mình thì cũng sẽ không tôn trọng quyền của các nước khác. Những kẻ
không tôn trọng quyền của cá nhân con người thì cũng sẽ không công nhận
quyền của các quốc gia khác: quốc gia là do nhiều cá nhân mà thành.
Chủ nghĩa quốc gia cần chiến
tranh, còn đất nước tự do thì không. Chủ nghĩa quốc gia sống nhờ cướp
bóc, đất nước tự do sống nhờ sản xuất.
Tất cả những cuộc chiến tranh
lớn trong lịch sử đều là do các nước có nền kinh tế bị kiểm soát chặt
chẽ hơn phát động nhằm chống lại những nước tự do hơn. Thí dụ Chiến
tranh Thế giới I do nước Đức quân chủ và nước Nga Sa hoàng phát động,
hai nước này đã lôi kéo các đồng minh tự do hơn của mình vào cuộc chiến.
Chiến tranh Thế giới II là do liên minh Xô-Đức và cuộc tấn công phối
hợp của họ vào nước Ba Lan gây ra.
Chúng ta thấy rằng trong Chiến
tranh Thế giới II cả Đức và Liên Xô đều chiếm và tháo dỡ các nhà máy tại
các nước mà họ chiếm được và chở về nhà, trong khi nước có nền kinh tế
hỗn hợp tự do nhất là Mĩ, tức là nước nửa tư bản chủ nghĩa, thì chuyển
thiết bị trị giá hàng tỉ dollar, trong đó có cả những nhà máy hoàn
chỉnh, cho các nước đồng minh. (Xin đọc: Keller W. East Minus West =
Zero. N.Y.: G.P. Putnam’s Sons, 1962 để biết toàn bộ câu chuyện về sự
cướp bóc của Liên Xô.)
Nước Đức và nước Nga cần chiến
tranh, còn Mĩ thì không và cũng chẳng được lợi lộc gì. (Thực ra Mĩ đã
thua về mặt kinh tế mặc dù đã giành thắng lợi trong cuộc chiến: chiến
tranh đã để lại món nợ khổng lồ cho nhà nước, nợ lại càng gia tăng vì
chính sách giúp đỡ các nước đồng minh và kẻ thù cũ mà chẳng mang lại lợi
ích gì). Thế mà ngày hôm nay những người yêu chuộng hoà bình lại chống
báng chủ nghĩa tư bản và ủng hộ chủ nghĩa quốc gia.
Chủ nghĩa tư bản laissez-faire
là hệ thống xã hội duy nhất đặt căn bản trên nguyên tắc công nhận quyền
cá nhân và vì vậy mà là hệ thống duy nhất loại bỏ vũ lực ra khỏi các mối
quan hệ xã hội. Đây là hệ thống duy nhất chống lại chiến tranh, nếu xét
về bản chất các nguyên tắc và quyền lợi căn bản của nó.
Tất cả những người được tự do
sản xuất đều không có động cơ cướp bóc, chiến tranh chỉ làm cho họ thua
thiệt chứ chẳng mang lại lợi lộc gì. Về mặt ý thức hệ, nguyên tắc tôn
trọng quyền con người không cho phép người ta dùng vũ khí làm kế sinh
nhai, cả ở trong cũng như ngoài nước. Vế mặt kinh tế, chiến tranh rất
tốn kém: trong nền kinh tế tự do, nơi mà tài sản là sở hữu tư nhân,
chiến phí sẽ phải lấy từ thu nhập của các công dân – không thể bơm ngân
quĩ lên mà che đậy được – các công dân cũng không hi vọng chiến thắng sẽ
bù đắp được thiệt hại về mặt tài chính (thuế khoá, sản xuất gián đoạn
và tài sản bị phá huỷ). Như vậy là, quyền lợi kinh tế làm cho người công
dân đứng về phía hoà bình.
Trong nền kinh tế nhà nước, nơi
tài sản là “của công”, người công dân không có nhu cầu bảo vệ hoà bình
về mặt kinh tế – anh ta chỉ là một giọt nước trong biển cả mà thôi –
trong khi chiến tranh cho anh ta hi vọng (giả tạo) là sẽ được chủ cho
thêm. Về mặt ý thức hệ, anh ta được dạy phải coi người là những con vật
dùng để hiến tế, anh ta cũng là một trong số những người như thế: anh ta
không hiểu được vì sao lại không được giết người nước ngoài trên chính
cái bệ thờ nhân danh lợi ích của chính nhà nước.
Trong suốt chiều dài của lịch
sử, nhà buôn và chiến binh vẫn là kẻ thù không đội trời chung với nhau.
Thương mại không thể phát triển trên bãi chiến trường, nhà máy không thể
sản xuất dưới trận mưa bom, lợi nhuận không thể sinh ra trên đống gạch
vụn. Chủ nghĩa tư bản là xã hội của các thương nhân – vì vậy mà những kẻ
sẵn sàng cướp bóc bao giờ cũng coi thương mại là “ích kỉ”, còn chinh
phục là “cao thượng”.
Tất cả những người quan tâm đến
hoà bình cần phải thấy rằng chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cho nhân loại
giai đoạn hoà bình dài nhất trong lịch sử – một giai đoạn không có những
cuộc chiến tranh bao trùm lên toàn bộ thế giới văn minh – đấy là giai
đoạn từ sau những cuộc chiến tranh của Napoleon vào năm 1815 cho đến khi
nổ ra Chiến tranh Thế giới I vào năm 1914.
Nên nhớ rằng hệ thống chính trị
thế kỉ XIX không phải là chủ nghĩa tư bản thuần tuý mà là nền kinh tế
hỗn hợp. Nhưng dù sao thành phần tự do cũng là yếu tố chủ đạo, chưa bao
giờ loài người tiến gần đến “thời đại tư bản chủ nghĩa” đến như thế.
Nhưng thành tố quốc gia chủ nghĩa vẫn tiếp tục phát triển trong suốt thế
kỉ XIX và đến năm 1914, tức là khi nó làm thế giới nổ tung, phần lớn
chính sách của các chính phủ đã mang màu sắc quốc gia là chính.
Nếu như trong lĩnh vực đối nội,
tất cả những điều xấu xa do chủ nghĩa quốc gia và sự kiểm soát của chính
phủ gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do thì
trong lĩnh vực đối ngoại, tất cả những điều xấu xa do chính sách mang
màu sắc quốc gia chủ nghĩa gây ra đều được gán cho chủ nghĩa tư bản.
Những huyền thoại như là “chủ nghĩa đế quốc tư bản”, “trục lợi bằng
chiến tranh” hay quan niệm cho rằng chủ nghĩa tư bản giành được thị
trường bằng những cuộc chinh phục vũ trang là những thí dụ về sự thiển
cận hoặc thiếu thận trọng của các nhà bình luận và các nhà sử học theo
trường phái quốc gia chủ nghĩa.
Bản chất của chính sách đối
ngoại của chủ nghĩa tư bản là thương mại tự do – nghĩa là bãi bỏ tất cả
các rào cản thương mại, bãi bỏ thuế khoá mang tính bảo hộ, bãi bỏ đặc
quyền đặc lợi – mở những con đường giao thương trên khắp hành tinh cho
việc trao đổi tự do trên bình diện quốc tế và cạnh tranh giữa các công
dân của tất cả các nước buôn bán trực tiếp với nhau. Trong thế kỉ XIX,
chính tự do thương mại đã giải phóng thế giới khỏi những tàn dư của chủ
nghĩa phong kiến và chế độ chuyên chế của các chế độ quân chủ.
“Thế giới chấp nhận đế quốc Anh,
cũng như trước đây từng chấp nhận đế chế Rome, vì nó hướng năng lượng
của con người vào lĩnh vực tương mại. Mặc dù việc cai trị hà khắc, với
những kết quả khủng khiếp, vẫn còn được áp đặt đối với Ireland, nhưng
nói chung luật pháp và tự do thương mại là những món hàng xuất khẩu “vô
hình” đã xâm nhập vào nước này. Trên thực tế, khi nước Anh còn làm chủ
các đại dương, bất kì người nào thuộc bất kì dân tộc nào đều có thể mang
hàng và tiền một cách an toàn đến bất kì đâu”. (Isabel Paterson, The
God of the Machine, Caldwell, Idaho: Caxton Printers, 1964, p. 121. Xuất
bản lần thứ nhất năm 1943.)
Cũng như Rome, khi thành tố áp
bức của nước Anh với nền kinh tế hỗn hợp phát triển đến mức trở thành
chính sách giữ thế thượng phong và trở thành chủ nghĩa quốc gia thì đế
chế tan rã. Không phải lực lượng vũ trang đã làm cho đế chế trở thành
thực thể gắn bó với nhau.
Nhờ cạnh tranh mà chủ nghĩa tư
bản giành và giữ được thị trường, cả trong cũng như ngoài nước. Thị
trường giành được bằng chiến tranh chỉ có giá trị (tạm thời) đối với
những người ủng hộ nền kinh tế hỗn hợp, tức là những người tìm cách bế
quan toả cảng, không cho cạnh tranh quốc tế, áp đặt các biện pháp hạn
chế và như vậy cũng chính là giành đặc quyền đặc lợi bằng vũ lực. Chính
những doanh nhân nhờ bàn tay của chính phủ để tìm những khoản ưu tiên ưu
đãi ở trong nước cũng lại là những kẻ dùng bàn tay của chính phủ để tìm
những thị trường đặc biệt ở nước ngoài. Ai phải trả giá? Đa số các
doanh nhân, những người đóng thuế cho những vụ phiêu lưu nhưng chẳng
được gì, sẽ phải trả giá. Kẻ nào biện hộ và quảng bá những chính sách
như thế ra xã hội? Đấy là những người trí thức có tinh thần quốc gia chủ
nghĩa, họ chính là những người sáng tác ra các học thuyết gọi là “quyền
lợi của xã hội” hay “uy tín quốc gia”, hoặc “sứ mệnh đặc biệt”.
Trong tất cả các nền kinh tế hỗn
hợp, những kẻ nhờ chiến tranh mà được lợi là: những người có thế lực
chính trị, họ kiếm được tài sản nhờ sự ưu đãi của chính phủ cả trong và
sau chiến tranh – họ không thể nào kiếm được số tài sản như thế trên thị
trường tự do.
Xin nhớ rằng các công dân –
nghèo hay giàu, chủ doanh nghiệp hay công nhân thì cũng thế – không có
quyền phát động chiến tranh. Đấy là đặc quyền của chính phủ. Chính phủ
loại nào có nhiều khả năng đẩy đất nước vào cuộc chiến hơn: chính phủ
với những quyền lực hạn chế được qui định trong khuôn khổ của hiến pháp –
hay chính phủ có quyền lực vô hạn, dễ dàng bị những nhóm có tư tưởng
hiếu chiến hoặc những nhóm sẽ giàu lên nhờ chiến tranh gây áp lực, chính
phủ có thể buộc quân đội lên đường theo ý thích nhất thời của một người
đứng đầu duy nhất?
Nhưng những người yêu chuộng hoà
bình hiện nay lại không ủng hộ chính phủ hạn chế. (Không cần phải nói
rằng chủ nghĩa hoà bình đơn phương cũng chẳng khác gì mời gọi bọn xâm
lược. Nếu như mỗi người đều có quyền tự vệ thì đất nước tự do cũng có
quyền đó nếu bị tấn công. Nhưng điều đó cũng không cho phép chính phủ
quyền buộc toàn dân phải thi hành luật nghĩa vụ quân sự – đấy chính là
sự vi phạm trắng trợn quyền của con người được tự ý định đoạt đời sống
của mình. Không có gì mâu thuẫn giữa đức hạnh và thực tiễn ở đây hết:
quân đội tình nguyện là đội quân hữu hiện nhất, nhiều chuyên gia quân sự
có uy tín đã nói như thế. Đất nước tự do không bao giờ thiếu người tình
nguyện một khi bị tấn công. Nhưng chẳng mấy người tình nguyên tham gia
những vụ phiêu lưu như chiến tranh ở Triều Tiên hay Việt Nam. Không có
lực lượng quân dịch, chính sách đối ngoại của những người theo phái quốc
gia hay những nền kinh tế hỗn hợp sẽ trở thành bất khả thi.)
Khi đất nước vẫn còn tự do, thậm
chí nửa tự do, thì những người được hưởng lợi từ nền kinh tế hỗn hợp sẽ
không phải là nguồn gốc của chính sách kích động chiến tranh và cũng
không phải là nguyên nhân đầu tiên đẩy đất nước vào vòng chiến. Họ chỉ
là những con kền kền chính trị kiếm chác được trong xu hướng chung của
xã hội mà thôi. Những nhà trí thức ủng hộ cho nền kinh tế hỗn hợp chính
là những người tạo ra xu hướng đó.
Xin xem xét mối liên hệ giữa chủ
nghĩa quốc gia và chủ nghĩa quân phiệt trong lịch sử tư tưởng thế kỉ
XIX và XX. Cũng như việc phá huỷ chủ nghĩa tư bản và sự ngóc đầu dậy của
nhà nước toàn trị không phải là do các doanh nhân hay giới lao động
hoặc bất kì quyền lợi kinh tế nào khác mà là do hệ tư tưởng quốc gia
đang giữ thế thượng phong của những người trí thức gây ra – việc hồi
sinh học thuyết biện hộ cho việc chinh phục và những cuộc “thập tự
chinh” bằng vũ lực nhân danh các “lí tưởng” chính trị cũng là sản phẩm
của những người trí thức, những người tin rằng có thể đạt được điều
“tốt” bằng vũ lực.
Sự ngóc đầu dậy của tinh thần đế
quốc dân tộc chủ nghĩa ở Mĩ không xuất phát từ cánh hữu mà xuất phát từ
cánh tả, không xuất phát từ quyền lợi của những doanh nghiệp lớn mà
xuất phát từ những nhà cải cách theo xu hướng chủ nghĩa tập thể, những
người có ảnh hưởng đối với chính sách của các tổng Theodore Roosevelt và
Woodrow Wilson. (Những ai muốn tìm hiểu lịch sử của những ảnh hưởng như
thế xin đọc: Arthur A. Ekirch, Jr. The Decline of American Liberalism,
New York: Longmans, Green, 1955.)
Giáo sư Ekirch viết: “Khi những
người cấp tiến càng tích cực ủng hộ chế độ quân dịch bắt buộc và quan
niệm “nghĩa vụ của người da trắng” thì đấy rõ ràng là biểu hiện của chế
độ gia trưởng, tương tự như những đạo luật về cải cách kinh tế của họ.
Chủ nghĩa đế quốc, theo một nghiên cứu gần đây về chính sách đối ngoại
của Mĩ, chính là cuộc nổi dậy chống lại chủ nghĩa tự do. Tinh thần của
chủ nghĩa đế quốc đưa nghĩa vụ lên trên quyền lợi, đưa lợi ích tập thể
lên trên lợi ích cá nhân, đặt những giá trị anh hùng lên trên vật chất,
đặt hành động cao hơn tư duy, đặt các xung động tự nhiên lên trên trí
tuệ trần trụi” (Tác phẩm đã dẫn, trang 189. Trích lại từ: R. E. Osgood,
Ideals and Self-Interest in America’s Foreign Relations, Chicago:
University of Chicago Press, 1953, trang 47.)
Giáo sư Ekirch viết về Woodrow
Wilson như sau: “Wilson chắc chắn muốn nền ngoại thương của Mĩ phát
triển như là kết quả của sự cạnh tranh tự do trên bình diện quốc tế,
nhưng do những tư tưởng về đạo lí và trách nhiệm, ông dễ dàng thực hiện
những biện pháp can thiệp trực tiếp của Mĩ và coi đấy là phương tiện bảo
vệ quyền lợi quốc gia (sách đã dẫn, trang 199). Và: “Có vẻ như ông cảm
thấy rằng nước Mĩ có sứ mệnh truyền bá những định chế của nó – mà ông
cho là dân chủ và tự do – tới những khu vực còn tăm tối hơn trên thế
giới (như trên). Không phải những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản đã giúp
Wilson đẩy một dân tộc yêu chuộng hoà bình vào cơn cuồng loạn “thập tự
chinh” bằng quân sự mà chính là tờ tạp chí theo đường lối “tự do” The
New Republic đã làm việc đó. Biên tập viên tờ tạp chí này, ông Herbert
Croly, nói như sau: “Dân tộc Mĩ cần một vụ phiêu lưu mang tính đạo đức
sâu sắc, đấy chính là liều thuốc bổ”.
Trong khi Wilson, một nhà cải
cách “theo đường lối tự do” đấy nước Mĩ vào Chiến tranh Thế giới I nhằm
“làm bảo vệ nền dân chủ trên thế giới” thì Franklin D. Roosevelt, một
nhà cải cách “theo đường lối tự do” khác nhân danh “bốn quyền tự do” đã
đẩy nước Mĩ vào Chiến tranh Thế giới II. Thế mà trong cả hai trường hợp,
tuyệt đại đa số những người “bảo thủ” và đại diện cho các doanh nghiệp
lớn đều chống lại chiến tranh, nhưng họ đã bị bịt miệng. Trong trường
hợp Chiến tranh Thế giới II họ đã bị bôi nhọ bằng những từ ngữ như:
“những kẻ theo chủ nghĩa biệt lập”, “bọn phản động”, “nước Mĩ trên
hết”..v.v..
Chiến tranh Thế giới I không dẫn
tới dân chủ mà lại tạo ra ba chế độ độc tài, đấy là nước Nga Xô-viết,
nước Ý phát xít và nước Đức Quốc xã. Chiến tranh Thế giới II không dẫn
tới “bốn quyền tự do” mà lại đưa một phần ba nhân loại vào vòng nô lệ
cộng sản.
Nếu hoà bình là mục đích của
những người trí thức hiện nay thì tưởng như những thất bại trên bình
diện rộng lớn như thế và bằng chứng về những đau khổ không nói được nên
lời của biết bao nhiêu người như thế sẽ buộc họ phải suy nghĩ và đánh
giá lại những luận điểm mang tính quốc gia chủ nghĩa của mình. Nhưng họ
vẫn là những người đui mù trước tất cả, trong họ chỉ có mỗi lòng hận thù
chủ nghĩa tư bản mà thôi, bây giờ họ khẳng định rằng “nghèo đói sinh ra
chiến tranh” (và biện hộ cho chiến tranh theo cách đó). Nhưng vấn đề
là: cái gì sinh ra nghèo đói? Nếu bạn nhìn vào thế giới ngày hôm nay và
nếu bạn nhìn lại lịch sử thì bạn sẽ tìm được câu trả lời: mức độ tự do
của một nước chính là mức độ thịnh vượng của nước đó.
Nhiều người hiện nay cũng hay
phàn nàn rằng thế giới bị chia thành nước “giàu” và nước “nghèo”. Nhưng
xin nhớ rằng nước giàu là nước tự do, còn nước nghèo là nước không có tự
do.
Người nào muốn chống chiến tranh
thì phải chống chủ nghĩa quốc gia trước đã. Khi người ta vẫn giữ trong
đầu quan niệm có từ thời ăn lông ở lỗ rằng cá nhân chỉ là “bia đỡ đạn”
cho tập thể, rằng một số người có thể dùng vũ lực để cai trị những người
khác, và rằng một số điều (bất kì điều gì) có thể biện hộ cho việc cai
trị như thế thì khi đó trong nước vẫn không có hoà bình và giữa các dân
tộc cũng không thể có hoà bình.
Đúng là vũ khí nguyên tử làm cho
chiến tranh trở thành khủng khiếp đến mức buộc người ta phải suy nghĩ.
Nhưng đối với một người thì chết vì bom hạt nhân, hay chết vì bom làm
bằng thuốc nổ thông thường hoặc chết vì cú đánh của một cái dùi cui cũng
đều là chết cả. Đối với người đó, bao nhiêu người chết và mức độ tàn
phá cũng thế mà thôi. Thật là kinh tởm khi thấy những người coi số người
chết là điều đáng sợ, trong khi họ sẵn sàng đưa một số thanh niên vào
chỗ chết vì bộ lạc của họ, nhưng lại la toáng lên khi cả bộ lạc có thể
bị diệt vong. Hơn nữa: họ tỏ sẵn sàng tha thứ cho việc giết hại hàng
loạt những người tay không tấc sắt nhưng lại đứng lên phản đối chống
chiến tranh giữa các quốc gia được trang bị đến tận răng.
Khi người dân còn bị nô dịch
bằng vũ lực thì họ còn chống cự và sẽ sử dụng tất cả các loại vũ khí mà
họ có trong tay. Khi người ta bị bọn Quốc xã đưa vào lò hơi ngạt hay bị
những người cộng sản đem ra trường bắn mà không thấy ai lên tiếng bảo vệ
thì người ta có còn yêu nhân loại hay còn quan tâm đến sự tồn vong của
nhân loại nữa hay không? Hay người ta sẽ cảm thấy có lí khi nghĩ rằng
cái nhận loại đang tự ăn thịt mình như thế, cái nhân loại chấp nhận nền
độc tài như thế, chẳng nên sống làm gì?
Nếu vũ khí nguyên tử là mối đe
doạ chết người và nhân loại không thể chịu đựng được chiến tranh nữa thì
nhân loại cũng không thể chịu được được chủ nghĩa quốc gia nữa. Bất kì
người có thiện chí nào cũng không được biện hộ cho việc sử dụng vũ lực –
cả trong cũng ngoài nước . Tất cả những ai thực sự quan tâm tới hoà
bình – những người yêu nhân loại và lo lắng cho sự sống còn của nó – cần
phải thấy rằng đưa chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật cũng có nghĩa là
đưa việc sử dụng vũ lực ra ngoài vòng pháp luật.
Nguồn: “The Roots of War”, The Freeman. Vol. 16. № 11 (November 1966)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét