Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014
Alvaro Vargas Llosa Chuyên chế và dân chủ - Chế độ nào hiệu quả hơn?
18:09
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Gần đây tôi có nhận được thư của
một nhóm độc giả người châu Âu: họ khẳng định rằng trong nhiều năm qua,
các nước với chế độ độc tài đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn
các nước dân chủ và nếu xu hướng này cứ tiếp tục thì động lực cho việc
thay thế nền độc tài bằng chế độ pháp trị sẽ ngày càng yếu đi.
Những cuộc thảo luận về đề tài
này – có những giai đoạn giải lao – đã diễn ra từ lâu. Thời gian gần đây
những cuộc thảo luận như thế lại bùng nổ với một sức mạnh mới vì những
thành quả kinh tế mà các chế độ độc tài tại những nước giầu tài nguyên
thiên nhiên vừa đạt được. Gần đây một bài báo trên American.com đã làm
việc so sánh các chỉ số kinh tế với mức độ tự do chính trị và bảo đảm
quyền công dân ở những nước khác nhau.
Hoá ra trong 15 năm qua những
nước do các chế độ độc tài cai trị có tốc độ phát triển kinh tế trung
bình hàng năm là 6,8%, nghĩa là gấp 2,5 lần các nước dân chủ. Các chế độ
độc tài đã tiến hành đa dạng hoá nền kinh tế nhưng vẫn tiếp tục hạn chế
hoặc ngăn chặn không cho dân chủ phát triển, thí dụ như Trung Quốc,
Nga, Malaysia và Singapore, là những nước có chỉ số kinh tế tốt hơn phần
lớn các nước đã và đang phát triển nhưng có mức độ tự do chính trị và
tự do cá nhân cao hơn.
Sẽ là ngốc ngếch khi cho rằng
chế độ độc tài không có khả năng phát triển kinh tế. Dù chế độ chính trị
có như thế nào thì việc loại bỏ các rào cản trong hoạt động kinh doanh,
đầu tư và thương mại cũng như việc bảo đảm quyền sở hữu tư nhân nhất
định sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho cục diện kinh tế. Những cuộc cải cách
của Franco ở Tây Ban Nha, của Lí Quang Diệu ở Singapore những năm 1960,
của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc những năm 1990, của Pinochet ở Chi-lê
những năm 1980 và những bước đi tương tự tại những nước khác đã cùng dẫn
đến kết quả như thế.
Nhưng đấy chỉ là một phần của
bức tranh. Trong 15 nước giầu có nhất thế giới thì đã 13 nước có chế độ
dân chủ. Hai nước còn là là Hồng Công, một khu vực đặc biệt của Trung
Quốc, nơi dân chúng được hưởng nhiều quyền tự do dân chủ hơn đa phần dân
chúng đại lục; nước thứ hai là Quatar với những mỏ dầu trữ lượng cực
lớn và dân số ít, thu nhập tính trên đầu người rất cao.
Điều đó chứng tỏ rằng về dài
hạn, sự ổn định và lòng tin chính là điều kiện tiên quyết cho phát triển
kinh tế. Tây Ban Nha, nước được coi là hình mẫu của thành tựu kinh tế
trong mấy thập kỉ, phúc lợi đã tăng gấp đôi kể từ năm 1985, nhưng trong
suốt một phần tư thế kỉ qua chưa bao giờ nước này có tốc độ tăng trưởng
cao như Trung Quốc. Tương tự như vậy, nếu lấy năm 1930 làm mốc thì tổng
sản phẩm xã hội của Mĩ đã tăng 13 lần, nhưng các chỉ số kinh tế cũng
không thể nào so sánh được với “các nước châu Á”.
Khi “môi trường sống” của kinh
tế phụ thuộc vào các thể chế chứ không phải vào ý chí của nhà độc tài
hay của một đảng nào đó thì sự ổn định và lòng tin sẽ xuất hiện và sẽ
tạo ra các kết quả mà ta gọi là “phát triển”. Có lẽ đấy chính là lí do
vì sao sau khi Pinochet rút lui, Chi-lê đã giành được những thành quả
kinh tế rực rỡ hơn thời kì ông ta còn nắm quyền. Ngoài ra cũng không
được quên rằng các thành tựu kinh tế của các chế độ độc tài phụ thuộc
rất nhiều vào công nghệ được tạo ra tại những nước mà người có sáng kiến
được khuyến khích chứ không phải bị đe doạ bởi cánh cổng nhà tù.
Một lí do nữa làm cho các nước
có chế độ độc tài có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn các nước dân
chủ là do các nước dân chủ đã đạt được mức độ phát triển khá cao. Khi
một nước nào đó bắt đầu phát triển, sức sản xuất vừa được giải phóng và
năng lực tiềm tàng sẽ giúp cho nó tiến nhanh hơn những nước đã phát
triển. Hơn nữa, nếu biết rằng Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn đối với
các chỉ tiêu kinh tế trung bình của nhóm các nước chưa được tự do, mà
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của nước này so với các nước dân chủ
không phải là điều đáng ngạc nhiên đến như thế.
Trên thực tế, các nước dân chủ
có thể cạnh tranh với những nước độc tài ngay cả trong ngắn hạn. Thí dụ,
Ấn Độ là nước có chế độ dân chủ nhưng cũng là nước có tốc độ phát triển
kinh tế vào loại hàng đầu thế giới. Peru cũng có tốc độ phát triển kinh
tế 7% một năm. Tất nhiên là nền dân chủ của hai nước này chưa hoàn
thiện. Nhưng các thành tựu mà họ đạt được chứng tỏ rõ ràng rằng bầu cử,
tự do báo chí và tự do hội họp là hoàn toàn phù hợp với một nền kinh tế
phát triển năng động.
Nếu xét về đạo đức thì sự cải
thiện về mặt phúc lợi trong một nhà nước độc tài có thể biến thành chiếc
đòn xóc nhọn hai đầu: một mặt nó làm cho những người dân còn đang bị áp
bức cảm thấy dễ thở hơn về mặt kinh tế, nhưng mặt khác nó lại tạo cho
người ta lí do trì hoãn hay câu giờ đến vô cùng tận các cuộc cải cách
chính trị.
Hai điều sau đây là rất rõ ràng.
Thứ nhất, như lịch sử đã cho thấy, việc kết hợp giữa tự do chính trị,
quyền công dân và tự do kinh tế chứ không phải chế độ độc tài tư bản là
bảo đảm tốt nhất cho việc tăng trưởng một cách đều đặn phúc lợi. Thứ
hai, có những bằng chứng rõ ràng - chỉ cần nhìn vào Bồ Đào Nha và các
nước vùng Ban-tích - chứng tỏ các nước chưa phát triển có thể dựa vào tự
do chính trị để tạo lập được sự ổn định và tự tin. Các nước này đã phủ
nhận một cách thắng lợi luận điểm cho rằng nền kinh tế của đất nước phải
“chín” trước khi nó có thể trở thành “thành niên” trên bình diện tự do
chính trị và quyền công dân.
Nguồn: The Wall Street Journal, dịch qua bản tiếng Nga
Đã đăng trên talawas
0 nhận xét:
Đăng nhận xét