Mephistopheles, Quỷ vương, chính là nhân vật tiến hành mua bán với Faust. Cái tên này được dùng thay cho Satan hay Quỷ sứ, nhưng không có từ ban đầu trong Kinh thánh mà chỉ được hư cấu kể từ thời Phục hưng. Từ thế kỷ thứ 17, nhiều huyền thoại Thiên chúa giáo bắt đầu nói đến Mephistopheles cùng với Lucifer – Ma vương/ Diêm vương – như những thiên thần nổi loạn chống lại Thượng đế vào lúc khởi thủy, bị đuổi khỏi Thiên đàng
Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014
Václav Havel - Sức mạnh của thảo dản (Kì 2)
03:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
VI.
Tại
sao trên thực tế anh hàng rau của chúng ta lại phải trưng lòng trung
thành của mình lên cửa sổ? Chẳng phải anh ta đã chứng tỏ đầy đủ lòng
trung thành qua những thủ tục nội bộ và bán-công khai khác nhau rồi hay
sao? Xét cho cùng, ở những cuộc họp công đoàn bao giờ anh cũng bỏ phiếu
theo đúng yêu cầu. Anh ta cũng thường xuyên tham gia những phong trào
thi đua khác nhau. Anh ta tham gia các kì bầu cử như là một công dân
tốt. Thậm chí anh còn kí “Phản-Hiến chương[1]” nữa
cơ mà. Mặc dù đã làm tất cả những chuyện như thế, tại sao anh vẫn phải
tuyên bố lòng trung thành một cách công khai? Xét cho cùng, những người
đi ngang qua cửa sổ của anh cũng không dừng lại để đọc quan điểm của
người bán rau rằng vô sản toàn thế giới nên liên hiệp lại. Sự thật là,
họ không đọc khẩu hiệu này, và nếu giả định là họ không nhìn thấy nó thì
cũng đúng nốt. Nếu hỏi một phụ nữ đã đứng trước cửa hàng rằng bà ta
nhìn thấy gì trong cửa sổ, chắc chắn là bà sẽ nói hôm nay có cà chua hay
không, nhưng có nhiều khả năng là bà ấy hoàn toàn không nhìn thấy khẩu
hiệu, chứ đừng nói đến nội dung của nó.
Buộc
một người bán rau tuyên bố công khai lòng trung thành của mình dường
như là việc làm vô nghĩa. Nhưng nó lại có ý nghĩa đấy. Chẳng ai để ý đến
khẩu hiệu của anh ta, họ không để ý là vì những khẩu hiệu như thế cũng
được bày trong cửa sổ của các cửa hàng khác, chúng còn được dán trên các
cột đèn, trên các bảng tin, trên cửa sổ căn hộ các chung cư nữa; thực
ra là ở đâu cũng có. Chúng là một phần cảnh quan của cuộc sống hàng
ngày. Dĩ nhiên là, dù không để ý đến chi tiết nhưng người ta vẫn biết rõ
toàn bộ cảnh quan. Và cái khẩu hiệu của anh hàng rau kia có phải chỉ là
một thành phần nhỏ bé trên cái phông vĩ đại của cuộc sống hàng ngày?
Vì
thế mà anh hàng rau phải đặt khẩu hiệu trên cửa sổ, không phải là anh
hi vọng rằng có người sẽ đọc hoặc sẽ bị nó thuyết phục, mà để góp phần -
cùng với hàng ngàn khẩu hiệu khác - vào cái cảnh quan mà tất cả đều
biết rõ. Dĩ nhiên là khung cảnh này cũng có ý nghĩa tế nhị của nó: nó
nhắc nhở người ta rằng họ đang sống ở đâu và phải làm gì. Nó nói với họ
về những việc người khác đang làm và chỉ cho họ những việc cần làm, nếu
không muốn bị khai trừ, bị cô lập, bị xã hội xa lánh, nếu không muốn phá
vỡ luật chơi, và có thể không còn được bình an, không được thanh thản
và an toàn nữa.
Rất
có thể chỉ trước đây một tiếng đồng người đàn bà từng phớt lờ khẩu hiệu
của anh hàng rau, đã treo một khẩu hiệu tương tự ngay trước hành lang
cơ quan nơi bà ta làm việc. Bà ta làm thế mà chẳng suy nghĩ gì, cũng hệt
như anh hàng rau của chúng ta, và bà làm như thế vì nó diễn ra trên nền
của khung cảnh chung, và cũng có một ít nhận thức về nó, nghĩa là nó
diễn ra trên chính cái nền của cảnh quan mà cửa sổ cửa hàng anh rau đã
góp phần tạo ra. Khi anh bán rau đến cơ quan của bà, anh ta cũng sẽ
không nhìn thấy khẩu hiệu của bà, cũng hệt như bà không nhận ra khẩu
hiệu của anh ta. Nhưng, các khẩu hiệu của họ lại phụ thuộc vào nhau: cả
hai đều được bày ra với nhận thức nhất định về khung cảnh chung, và ta
có thể nói, theo mệnh lệnh của nó. Nhưng cả hai đã góp phần tạo ra khung
cảnh ấy, và do đó cũng tạo chính cái mệnh lệnh ấy. Anh bán rau và bà
nhân viên văn phòng đều phải thích nghi với những điều kiện mà họ đang
sống, nhưng làm thế là họ góp phần tạo ra chính những điều kiện đó. Họ
làm những việc mà người khác đã làm, những việc cần phải làm, những việc
nhất định phải làm, nhưng đồng thời, cũng chính bằng thí dụ ấy, họ đã
khẳng định những việc cần phải làm trên thực tế. Họ thực hiện một yêu
cầu cụ thể, và bằng cách đó, họ đã củng cố thêm cho chính cái yêu cầu
đó. Nói một cách trừu tượng, không có khẩu hiệu của anh hàng rau thì
khẩu hiệu của bà nhân viên văn phòng không thể tồn tại được, và ngược
lại. Mỗi người đều đề nghị người kia làm một cái gì đó y như mình và họ
chấp nhận đề nghị của nhau. Thái độ bàng quan đối với khẩu hiệu của nhau
chỉ là một sự lừa dối: trên thực tế, trưng khẩu hiệu ra là mọi người
đều buộc nhau phải tuân thủ luật chơi rồi, và bằng cách đó, họ đã thừa
nhận cái quyền lực yêu cầu treo khẩu hiện lúc ban đầu. Rất đơn giản, họ
giúp nhau phục tùng. Cả hai đều là đối tượng trong một hệ thống kiểm
soát, nhưng đồng thời lại cũng là chủ thể của nó. Họ vừa là nạn nhân vừa
là công cụ của hệ thống.
Nếu
toàn bộ thị trấn được trát đầy khẩu hiệu mà không ai đọc, thì một mặt,
đó là một thông điệp từ bí thư thị trấn gửi lên bí thư vùng, nhưng mặt
khác, còn hơn thế nữa: đấy là thí dụ nhỏ của nguyên lý toàn trị-tự động
mang tính xã hội đang vận hành. Một phần bản chất của hệ thống hậu toàn
trị là nó kéo mọi người vào lãnh địa quyền lực của nó, nhưng không phải
để họ thể hiện mình như những con người, mà để họ có thể từ bỏ bản sắc
cá nhân nhằm vun vén cho bản sắc của hệ thống, nghĩa là để họ có thể trở
thành những nhân viên của bộ máy tự động của hệ thống và là đầy tớ cho
những mục tiêu do nó tự quyết định, để họ có thể cùng chịu trách nhiệm
cho nó, để họ có thể bị nó lôi kéo vào và mắc bẫy, như Faust mắc bẫy
Mephistopheles[2] vậy. Hơn thế nữa: để họ - thông
qua việc tham gia của mình – có thể tạo ra những quy tắc ứng xử chung,
và vì vậy mà tạo áp lực đối với chính đồng bào của mình. Và xa hơn nữa:
để họ tập dần và cảm thấy dễ chịu khi tham gia, để họ đồng cảm với nó
như thể đấy là điều hoàn toàn tự nhiên và tất yếu, và cuối cùng, để họ
có thể coi tất cả mọi hành động không tham gia là bất bình thường, là
kiêu ngạo, là tấn công vào họ, là một hình thức quay lưng lại với xã
hội, mà không cần bất kì sự thúc ép bên ngoài nào. Bằng cách kéo mọi
người vào cơ cấu quyền lực, hệ thống hậu toàn trị biến mọi người thành
phương tiện của một chế độ toàn trị đối với nhau, thành chế độ toàn trị-tự động của xã hội.
Nhưng,
trên thực tế, tất cả mọi người đều bị dính líu và bị nô dịch, không chỉ
anh bán rau mà cả các ông thủ tướng nữa. Vị trí khác nhau trong thang
bậc chỉ đơn giản là sự mức độ dính líu khác nhau mà thôi: anh bán rau
chỉ dính líu ở mức nhỏ, nhưng anh lại có rất ít quyền lực. Ông thủ
tướng, đương nhiên là có nhiều quyền lực hơn, nhưng đổi lại, ông ấy dính
líu sâu hơn nhiều. Nhưng, cả hai đều không được tự do, mỗi người một
cách. Kẻ đồng lõa thực sự trong việc dính líu này không phải là một tác
nhân nào đó mà chính là hệ thống. Vị trí trên thang bậc quyền lực quyết
định mức độ trách nhiệm và tội lỗi, nhưng nó không bắt ai phải chịu tất
cả trách nhiệm và cũng như không qui tất cả tội lỗi cho bất kì ai, mà
cũng không hoàn toàn miễn tội cho bất cứ người nào. Vì thế mà xung đột
giữa những mục tiêu của đời sống và mục tiêu của hệ thống không phải là
xung đột giữa hai cộng đồng riêng biệt và được xác định về mặt xã hội;
và chỉ có cách nhìn trừu tượng hóa rất cao mới cho phép ta phân chia xã
hội thành người thống trị và kẻ bị trị (và thậm chí như vậy thì cũng chỉ
rất tương đối mà thôi). Nhưng đây chính là một trong những điểm khác
biệt quan trọng nhất giữa hệ thống hậu toàn trị với chế độ chuyên chính
cổ điển – ở đấy còn có thể vạch được ranh giới xung đột theo các nhóm xã
hội. Trong hệ thống hậu toàn trị, lằn ranh này chạy qua mỗi cá nhân, vì
mỗi người đều vừa là nạn nhân vừa là người ủng hộ hệ thống, theo cách
của mình. Do đó, hệ thống làm cho chúng ta hiểu rằng không phải một nhóm
người này áp đặt trật tự xã hội lên một nhóm khác, mà là một cái gì đó
đã thấm vào toàn bộ xã hội và là nhân tố định hình nó, một cái gì đó
dường như không thể nắm bắt hay định nghĩa (bởi vì về thực chất, nó chỉ
là một nguyên tắc mà thôi), nhưng lại được toàn xã hội trưng ra như là
khía cạnh quan trọng của cuộc đời của nó.
Sự
kiện là người ta đã và đang hàng ngày tạo ra hệ thống tự định hướng
này, và thông qua nó, họ tự từ bỏ bản sắc của mình, vì vậy mà không phải
là kết quả của sự nhầm lẫn không thể hiểu nổi của lịch sử, hay là do
lịch sử đã đi chệch đường. Đấy cũng không phải là sản phẩm của một ý chí
hắc ám tối cao nào đó – vì những lí do không ai biết - đã quyết định
hành hạ một phần nhân loại theo cách này. Nó có thể xảy ra, và đã xảy ra
chỉ vì trong con người hiện đại rõ ràng là có một xu hướng nhất định
hướng tới việc tạo ra, hoặc ít nhất là cúi đầu chấp nhận, một hệ thống
như thế. Rõ ràng là trong con người có một cái gì đó đồng thanh tương
ứng đồng khí tương cầu với hệ thống này, một cái gì đó tương ứng và dung
dưỡng, một cái gì đó bên trong đã làm tê liệt mọi cố gắng của cái “Tôi
nhân bản hơn” trong họ đứng lên phản kháng. Người ta buộc phải sống
trong dối trá, nhưng họ chỉ có thể bị buộc phải sống trong dối trá nếu
như họ có thể sống như thế. Do đó, không chỉ hệ thống tha hóa con người,
mà con người đã bị tha hóa ủng hộ hệ thống này như thể đó là kế hoạch
do họ tự lập ra, như là hình ảnh suy đồi của sự suy đồi của chính họ,
như là minh chứng cho sự thất bại của chính cá nhân mình vậy.
Mỗi
người đều có những mục tiêu căn bản của cuộc sống. Mỗi người đều khát
khao phẩm giá, khát khao sự toàn vẹn về mặt đạo đức, khát khao thể hiện
mình và vượt lên trên thế giới vật chất này. Nhưng đồng thời, mỗi người
lại có thể - ít nhiều khác nhau - thỏa hiệp với sống trong dối trá. Mỗi
người đều tìm cách buộc nhân tính vốn có của mình phải khuất phục thói
vị lợi và sự tầm thường trần tục. Mỗi người đều muốn hòa mình vào đám
đông vô danh và sẵn sàng buông xuôi trong dòng đời giả dối này. Đây
không chỉ là xung đột giữa hai bản sắc. Nó còn tệ hơn thế rất nhiều: đây
chính là thách thức với chính khái niệm về bản sắc.
Dùng
những thuật ngữ cực kì đơn giản, có thể nói rằng hệ thống hậu toàn trị
được xây dựng trên nền tảng được hình thành bởi cuộc gặp gỡ mang tính
lịch sử giữa chế độ chuyên chế và xã hội tiêu thụ. Chẳng phải là khả
năng thích nghi nhanh chóng với “sống trong dối trá” và sự mở rộng dễ
dàng của chế độ toàn trị-tự động
có mối liên hệ với sự kiện là những người theo chủ nghĩa tiêu thụ không
muốn từ bỏ một vài tiện nghi vật chất để đổi lấy sự toàn vẹn về mặt đạo
đức và tâm hồn hay sao? Chẳng phải là chúng có liên hệ với sự kiện là
họ sẵn sàng từ bỏ những giá trị cao quí khi đối mặt với những cám dỗ tầm
thường của nền văn minh hiện đại hay sao? Chẳng phải là chúng có liên
hệ với sự kiện là họ dễ bị đám đông thờ ơ lôi kéo hay sao? Và cuối cùng,
chẳng phải cuộc đời xám xịt và trống rỗng trong hệ thống hậu toàn trị
cũng chỉ là bức biếm họa sắc nét của đời sống hiện đại nói chung hay
sao? Và chẳng phải là, trên thực tế, chúng ta
(mặc dù theo các tiêu chuẩn bên ngoài thì chúng ta còn tụt hậu rất xa)
đang là lời cảnh báo cho phương Tây, đang chỉ cho họ những xu hướng phát
triển tiềm tàng của chính họ hay sao?
VII.
Bây
giờ, hãy tưởng tượng rằng một ngày kia, trong lòng anh hàng rau nọ bỗng
xảy ra một chuyện gì đó và anh thôi không đặt khẩu hiệu lên cửa sổ nữa,
dù chỉ để cho mình cảm thấy thanh thản mà thôi. Anh không tham gia bầu
cử nữa vì biết rằng đấy là trò nhảm nhí. Trong những cuộc hội nghị chính
trị, anh bắt đầu nói những điều mình thực sự nghĩ. Thậm chí anh còn tìm
được sức mạnh nội tâm, đủ sức bày tỏ tình đoàn kết với những người mà
lương tâm buộc anh phải ủng hộ. Trong cuộc nổi dậy này, anh hàng rau đã
bước ra khỏi “sống trong dối trá”. Anh vất bỏ nghi thức và phá vỡ các
luật chơi. Anh tìm lại được bản sắc và nhân phẩm đã bị áp chế của mình.
Anh cho rằng tự do là điều có ý nghĩa thực sự. Cuộc nổi dậy của anh là
nỗ lực để sống trong sự thật.
Anh
phải trả giá ngay lập tức. Anh ta không được làm quản lí nữa và bị
chuyển đến nhà kho. Lương sẽ hạ. Hi vọng về một kì nghỉ ở Bulgaria sẽ
không còn. Việc vào đại học của con cái bị đe dọa. Cấp trên sẽ quấy rầy
và đồng nghiệp sẽ nghi ngờ anh. Nhưng phần lớn những người sử dụng những
biện pháp trừng phạt đó không phải vì thâm tâm họ kết tội anh, mà vì
sức ép của hoàn cảnh, cũng chính là hoàn cảnh đã từng buộc anh hàng rau
phải trưng ra cái khẩu hiệu chính thức kia. Họ ngược đãi anh là vì những
người khác nghĩ là họ phải làm thế, hoặc để chứng tỏ lòng trung thành
của mình, hoặc chỉ đơn giản là một phần của khung cảnh chung, cùng với
nó là nhận thức về cách xử lí những trường hợp như thế này, mà trên thực
tế là cách mà người ta vẫn làm với những trường hợp như thế, đấy là nói
nếu người đó không muốn trở thành kẻ bị nghi ngờ. Vì vậy mà những kẻ
ngược đãi cũng hành xử như tất cả những người khác, dù mức độ nghiêm
trọng khác có khác nhau: họ hành xử như một thành phần của hệ thống hậu
toàn trị, như một tác nhân của cỗ máy tự động, như là một công cụ đáng
thương của nó vậy, họ cũng ứng xử như mọi người khác, cao thấp tùy
người: với tư cách là các thành tố của hệ thống hậu toàn trị, với tư
cách là nhân viên của cỗ máy tự động, như là các công cụ đáng thương của
hệ toàn trị-tự động của xã hội.
Như
vậy là, cơ cấu quyền lực - thông qua hành động của những người thi hành
những biện pháp trừng phạt, thông qua những thành tố vô danh của hệ
thống - sẽ đẩy anh bán rau ra khỏi miệng của nó. Hệ thống - thông qua
những thành phần đã bị tha hóa trong dân chúng - sẽ trừng phạt anh vì
anh dám nổi loạn. Nó phải làm thế vì logic của bộ máy tự động và tự vệ
buộc nó phải làm thế. Vì tính độc đáo của nó mà cuộc tấn công của anh
hàng rau không phải là cuộc tấn công mang tính cá nhân, đơn lẻ và biệt
lập, mà là cái gì đó nghiêm trọng hơn rất nhiều. Bằng việc phá vỡ luật
chơi, anh đã làm gián đoạn cuộc chơi. Anh đã chỉ ra rằng nó chỉ là một
trò chơi. Anh ta đã đập tan thế giới của ảo tưởng, tức là đập tan cái
cột cái của hệ thống. Anh đã lật đổ cơ cấu quyền lực bằng cách xé toạc
những thứ đã giúp cố kết nó lại với nhau. Anh ta đã chứng minh rằng sống
trong dối trá chính là sống dối trá. Anh ta đã phá vỡ cái mặt tiền được
thần thánh hóa của hệ thống và vạch trần nền tảng thực sự của quyền
lực. Anh đã nói rằng hoàng đế cởi truồng. Và bởi vì trên thực tế hoàng
đế đang cởi truồng, cho nên đã xảy ra một chuyện cực kì nguy hiểm: bằng
hành động của mình, anh hàng rau đã phát đi lời kêu tới toàn thế giới.
Anh giúp mọi người nhìn vào hậu trường. Anh đã cho tất cả mọi người thấy
rằng có thể
sống trong sự thật. Sống trong dối trá chỉ có thể tạo thành hệ thống
nếu mọi người đều làm như vậy. Nguyên tắc của nó phải bao trùm và ngấm
vào tất cả. Không có gì có thể cho phép nó cùng tồn tại với sống trong
sự thật, và vì vậy mà tất cả những người bước qua vạch đều phủ định nó
về mặt nguyên tắc và đe dọa tính toàn vẹn của nó.
Có
thể hiểu được: khi ảo tưởng còn chưa va chạm với hiện thực thì dường
như nó vẫn không phải là ảo tưởng. Khi “sống trong dối trá” còn chưa
giáp mặt với “sống trong sự thật” thì vẫn chưa có đủ điều kiện để vạch
trần sự dối trá của nó. Nhưng ngay khi có một cách sống khác thì cách
sống mới này sẽ đe dọa chính sự tồn tại của ảo tưởng và “sống trong dối
trá”, nó cho biết chúng là gì, cả về bản chất và tính bao trùm của
chúng. Và đồng thời, cách sống khác này lan tỏa bao xa hoàn toàn không
phải là vấn đề quan trọng: sức mạnh của nó không nằm ở các thuộc tính
vật lý mà ở luồng ánh sáng mà nó rọi vào những trụ cột của hệ thống và
nền móng thiếu vững chắc của nó. Nói cho cùng, anh hàng rau là mối đe
dọa với hệ thống không phải vì sức mạnh vật chất hay sức mạnh thực tế mà
anh ta có, mà vì hành động của anh đã vượt lên chính nó, bởi vì nó rọi
vào những thứ bao bọc xung quanh nó, và tất nhiên là vì những hậu quả
khôn lường của luồng ánh sáng ấy. Vì vậy mà trong hệ thống hậu toàn trị,
“sống trong sự thật” không chỉ thuần túy là phạm vi hiện sinh (trả cho
con người bản chất vốn có của nó), hay phạm vi trí tuệ (khám phá thực
tiễn như nó vốn là), hoặc phạm vi đạo đức (làm gương cho người khác). Nó
còn có một phạm vi chính trị rõ ràng. Nếu trụ cột của hệ thống là “sống
trong dối trá” thì không có gì ngạc nhiên là đe dọa chủ yếu của nó là
“sống trong sự thật”. Đấy là lí do vì sao sống trong sự thật lại bị đàn
áp dữ dội hơn bất kì điều gì khác.
Trong
hệ thống hậu toàn trị, sự thật theo nghĩa rộng nhất của từ này có tầm
quan trọng đặc biệt, tầm quan trọng mà trong những bối cảnh khác người
ta không thể nào biết được. Trong hệ thống này, sự thật đóng vai trò to
lớn hơn nhiều (và trước hết là khác hẳn) vì nó là nhân tố của quyền lực,
hoặc của một lực lượng chính trị triệt để. Sức mạnh của sự thật vận
hành như thế nào? Sự thật, như một nhân tố của quyền lực, hoạt động ra
sao? Làm sao biến sức mạnh của nó – với vai trò là một quyền lực – thành
hiện thực?
VIII.
Các cá nhân chỉ có thể bị vong thân với chính mình vì trong họ có một cái gì đó
làm cho họ trở thành vong thân mà thôi. Đối tượng của sự áp bức chính
là cuộc sống chân thật của họ. Vì vậy mà “sống trong sự thật” được đan
cài trực tiếp vào tấm thảm “sống trong dối trá”. Sống trong dối trá là
phản ứng bất chính đối với mục tiêu chân chính của cách sống bị đè nén.
Chỉ trên cái nền ấy mà sống dối trá mới có ý nghĩa: nó tồn tại vì
có cái nền như thế. Những gốc rễ hão huyền của nó trong trật tự của
loài người chỉ là phản ứng trước mong muốn “sống trong sự thật” của con
người mà thôi. Vì vậy mà bên dưới bề mặt có vẻ trật tự của “sống trong
dối trá” luôn luôn ẩn chứa không gian cho “sống trong sự thật”, một sự
cởi mở ẩn tàng sẵn sàng đón nhận chân lí.
Quyền
lực chính trị phi thường, mãnh liệt và khó lường trước được của “sống
trong sự thật” nằm trong sự kiện là sống một cách thẳng thắn trong sự
thật bao giờ cũng có đồng minh, một đồng minh vô hình nhưng mạnh mẽ vô
song: đó chính là cái không gian vốn bị che giấu. Chính là từ không gian
này mà sống cởi mở trong sự thật có thể phát triển, nó nói với không
gian này và tìm được sự cảm thông trong không gian đó. Khả năng thông
cảm chỉ tồn tại ở đây mà thôi. Nhưng đây là nơi bị giấu kín và vì vậy mà
quyền lực cho là rất nguy hiểm đối với nó. Sự
lên men phức tạp diễn ra trong đó chuyển dần sang những miền tranh tối
tranh sáng và sau một thời gian nó sẽ xuất hiện trong ánh sáng ban ngày
như là một chuỗi những bất ngờ gây chấn động cho hệ thống, nhưng thường
thì lúc đó đã quá muộn, không thể che đậy bằng những biện pháp thông
thường được nữa. Nó làm cho hệ thống lúng túng, hoảng loạn và làm cho nó
phản ứng bằng những biện pháp không thích hợp.
Dường
như mầm mống đầu tiên của cái có thể hiểu là đối lập – theo nghĩa rộng
nhất của từ này – trong hệ thống hậu toàn trị chính là “sống trong sự
thật”. Dĩ nhiên là, xung đột giữa những lực lượng đối kháng và chính
quyền rõ ràng phải diễn ra dưới hình thức rất khác với những xung đột
trong các xã hội cởi mở hoặc trong các chế độ chuyên chính cổ điển. Khởi
kì thủy, cuộc xung đột không diễn ra trên bình diện quyền lực thực sự,
không diễn ra trên bình diện quyền lực đã được thể chế hóa và có thể xác
định được, tức là quyền lực dựa trên những phương tiện bạo lực khác
nhau, mà diễn ra trên một bình diện hoàn toàn khác: nó diễn ra trên bình
diện ý thức và lương tâm, trên bình diện của hiện sinh. Không thể đo
lường phạm vi hiệu lực của quyền lực đặc biệt này bằng số lượng môn đồ,
số cử tri hay binh lính, bởi vì nó thâm nhập vào đội quân thứ năm của
nhận thức xã hội, thâm nhập vào mục đích bị che dấu của cuộc đời, thâm
nhập vào khát khao bị đè nén của con người về nhân phẩm và những quyền
cơ bản, về việc biến những mối quan tâm của họ về mặt xã hội và chính
trị thành hiện thực. Vì vậy mà sức mạnh của nó không nằm ở sức mạnh của
các nhóm chính trị và xã hội, mà chủ yếu là nằm ở sức mạnh của tiềm
năng, ẩn giấu trong toàn xã hội, trong đó có cơ cấu quyền lực chính thức
của xã hội ấy.
Do
đó, sức mạnh ấy không nằm trong những người lính của nó, mà nằm trong
những người lính của kẻ thù, bởi vì nó nằm trong tất cả những con người
đang “sống trong dối trá”, những người có thể bị sức mạnh (chí ít là về
lí thuyết) của sự thật (hay những người vì muốn bảo vệ địa vị mà ngả
theo sức mạnh ấy) hạ gục bất cứ lúc nào. Có thể nói, đó là thứ vũ khí vi
trùng và khi điều kiện đã chín muồi, một công dân bình thường có thể
dùng nó để tước vũ khí cả một sư đoàn. Sức mạnh này không tham gia bất
kì một cuộc đấu tranh trực diện nào mà chỉ tạo ra ảnh hưởng trên đấu
trường ngầm để có thể trở thành chính nó. Nhưng, chuyển động ngầm mà nó
tạo ra có thể biến thành một cái gì đó có thể cảm nhận được: thành một
sự kiện hay hành động chính trị thật sự, thành một phong trào xã hội,
thành một vụ bộc phát của sự bất bình, thành xung đột gay gắt trong
trong lòng cơ cấu quyền lực tưởng chừng vẫn thống nhất thành một khối,
hoặc chỉ đơn giản là sự biến đổi nhanh chóng trong dư luận xã hội và
trong lĩnh vực tinh thần (ở đâu, khi nào, trong những hoàn cảnh nào và
qui mô nào thì thật khó dự đoán). Vì tất cả những vấn đề thực sự và
những hiện tượng khủng hoảng đều nằm dưới cái vỏ dối trá dầy đặc nên
không rõ là khi nào thì “cái kim trong bọc sẽ lòi ra[3]”
hay cái kim ấy có hình thù như thế nào. Đấy cũng là lí do vì sao chính
quyền kết án – gần như một phản xạ vô điều kiện nhằm ngăn chặn – thậm
chí ngay cả những cố gắng “sống trong sự thật” khiêm tốn nhất.
Tại sao Solzhenitsyn[4]
bị trực xuất ra nước ngoài? Chắc chắn không phải vì ông là người đại
diện cho một đơn vị quyền lực thực sự, nghĩa là, không phải vì những
người cầm quyền cảm thấy là ông có thể lật đổ họ và chiếm vị trí của họ
trong chính quyền. Trục xuất Solzhenitsyn là một điều gì đó khác hẳn:
đây một cố gắng tuyệt vọng nhằm chặn đứng suối nguồn của sự thật đáng sợ
ấy, chặn đứng cái sự thật có thể gây ra những chuyển hóa không lường
trước được trong nhận thức xã hội, và một ngày nào đó, sự chuyển hóa này
có thể tạo ra một vụ sụp đổ chính trị với những hậu quả không thể dự
đoán được. Và vì thế mà hệ thống hậu toàn trị đã sử dụng biện pháp đặc
trưng của nó: bảo vệ sự toàn vẹn của thế giới ảo tưởng nhằm bảo vệ chính
nó. Vì cái lớp vỏ mà cuộc sống dối trá trưng ra được làm từ một chất
liệu kì quặc. Khi nó còn bịt kín được toàn xã hội thì người ta còn tưởng
là nó được làm bằng đá. Nhưng khi có người chọc thủng được một chỗ, khi
có người hét to lên rẳng: “Hoàng đế cởi truồng!” – khi chỉ cần một
người phá vỡ luật chơi và bằng cách đó chỉ cho mọi người thấy rằng nó
chỉ là một trò chơi – thì tất cả đột nhiên hiện ra dưới một ánh sáng
khác và lúc đó mới thấy rằng dường như cái vỏ đó chỉ là một tờ giấy đang
rách và đang tan rã một cách nhanh chóng.
Khi
nói về việc sống trong sự thật, tất nhiên là tôi không chỉ nghĩ đến
những sản phẩm của tư duy khái niệm, thí dụ như một vụ phản đối hay kiến
nghị của một nhóm trí thức. Bất kì phương tiện nào mà một cá nhân hay
một nhóm người sử dụng nhằm chống lại sự thao túng cũng đều là “sống
trong sự thật” hết: mọi thứ, từ một bức thư của những nhà trí thức cho
đến cuộc bãi công của công nhân, từ một đêm nhạc rock đến cuộc biểu tình
của sinh viên, từ việc không tham gia những vụ bầu cử lố bịch hay đọc
diễn văn tại một đại hội chính thức nào đó, hay thậm chí là một cuộc
tuyệt thực, thí dụ thế. Nếu việc đàn áp những mục tiêu của cuộc sống là
một quá trình phức tạp, và nếu việc đàn áp này dựa trên việc thao túng
nhiều mặt của cuộc đời, thì cũng chính vì thế mà bất cứ biểu hiện tự do
nào cũng đều gián tiếp đe dọa hệ thống hậu toàn trị về mặt chính trị, kể
cả những hình thức thể hiện mà trong những hệ thống xã hội khác chẳng
có một ý nghĩa chính trị tiềm tàng nào, chứ đừng nói có sức mạnh có thể
gây thành một vụ bùng nổ.
Mùa
xuân Praha thường được hiểu như là sự đụng độ giữa hai nhóm người trên
bình diện sức mạnh thực sự: đụng độ giữa những người muốn duy trì hệ
thống như nó vốn là và những người muốn cải tạo nó. Nhưng người ta
thường quên rằng cuộc chạm trán này chỉ là hành động cuối cùng và là hậu
quả tất yếu của của một vở kịch dài mà ban đầu diễn ra chủ yếu trong
lĩnh vực tinh thần và lương tâm của xã hội. Và bắt đầu vở kịch là những
cá nhân muốn sống trong sự thật, thậm chí ngay cả khi mọi thứ đang ở
giai đoạn tồi tệ nhất. Đấy là những người không được tiếp xúc với quyền
lực, mà họ cũng không muốn tiếp xúc với nó. Khu vực mà họ sống trong sự
thật không nhất thiết phải là lãnh địa của tư tưởng chính trị. Họ có thể
là nhà thơ, họa sỹ, nhạc sỹ, hoặc đơn giản chỉ là những công dân bình
thường nhưng có khả năng duy trì phẩm giá của họ. Ngày nay, tất nhiên là
khó có thể truy nguyên khi nào và một hành động hay thái độ cụ thể nào
đã gây được ảnh hưởng qua con kênh bí mật và quanh co nào, và khó có thể
tìm được dấu vết của con vi-rút sự thật vì nó đã lan ra một cách từ từ
trong tế bào của “sống trong dối trá” và làm cho nó tan rã dần. Nhưng,
một điều dường như là rõ ràng: cố gắng cải cách chính trị không phải là
nguyên nhân làm cho xã hội bừng tỉnh, mà là kết quả chung cuộc của sự
bừng tỉnh ấy.
Tôi
cho rằng dùng kinh nghiệm này để chiếu rọi hiện tại thì ta sẽ hiểu nó
một cách rõ ràng hơn. Cuộc đối đầu của một ngàn người kí vào Hiến chương[5]
và hệ thống hậu toàn trị dường như là vô vọng về mặt chính trị. Đúng
như thế, đấy là nói nếu chúng ta nhìn nó qua những lăng kính truyền
thống của hệ thống chính trị cởi mở, trong đó, hoàn toàn tự nhiên là tất
cả các lực lượng chính trị đều phải được đánh giá bằng vị trí mà nó giữ
trên bình diện sức mạnh thực tế. Theo quan điểm đó, một đảng nhỏ tí như
Hiến chương chắc chắn là chẳng có cơ hội nào. Nhưng nếu nhìn cuộc đối
đầu này trong bối cảnh của quyền lực trong hệ thống hậu toàn trị mà ta
đã biết thì nó sẽ xuất hiện dưới ánh sáng hoàn toàn khác. Vì hiện nay
không thể nói sự xuất hiện của Hiến chương 77, sự tồn tại của nó, và
công việc nó làm trong không gian ngầm đã tạo được ảnh hưởng gì, và lúc
đó người ta quan tâm tới những cố gắng của Hiến chương nhằm nhen nhóm
lại ý thức công dân và sự tự tin với mức độ như thế nào. Cuối cùng,
khoản đầu tư này có tạo được cổ tức theo nghĩa những thay đổi chính trị
cụ thể hay không, tạo ra vào lúc nào và như thế nào lại càng khó dự đoán
hơn nữa. Nhưng dĩ nhiên, đấy tất cả là sống trong sự thật. Như một giải
pháp hiện sinh, nó đưa cá nhân trở về với nền tảng vững chắc của bản
sắc của họ; còn về chính trị, nó ném họ vào một canh bạc được ăn cả, ngã
về không. Chính vì lí do đó, chỉ những người sẵn sàng mất trắng hay
được tất hoặc những người đã rút ra kết luận rằng hiện nay ở Tiệp Khắc,
chẳng còn cách làm chính trị thực sự nào khác, mới chơi canh bạc này mà
thôi. Nhưng hai mà chỉ là một: chỉ những người không muốn hi sinh bản
sắc của mình vì chính trị, hay những người không tin vào một nền chính
trị đòi hỏi sự hi sinh như thế, mới có thể đi tới kết luận này.
Hệ
thống hậu toàn trị càng tìm cách vô hiệu hóa những lựa chọn có tính
cạnh tranh với nó trên bình diện quyền lực thực tế cũng như nó càng tìm
cách vô hiệu hóa những hình thức hoạt động chính trị không phụ thuộc vào
qui luật vận hành của cỗ máy tự động của nó thì trọng tâm của lực hấp
dẫn của bất kì mối đe dọa chính trị tiềm tàng nào cũng sẽ càng dịch
chuyển sang địa hạt của hiện sinh và tiền-chính trị: chẳng cần một cố
gắng hữu thức nào, bình thường, sống trong sự thật đã trở thành xuất
phát điểm tự nhiên của tất cả những hoạt động nhằm chống lại cỗ máy tự
động của hệ thống. Và thậm chí, nếu như cuối cùng những hoạt động như
vậy có vượt qua được lãnh địa của việc sống trong sự thật (có nghĩa là
chúng đã chuyển thành vô số các phong trào, tổ chức, định chế song hành,
tồn tại song song với những phong trào, tổ chức và định chế của nhà
nước và nếu người ta bắt đầu coi đấy là hoạt động chính trị, tạo ra sức
ép thực tế lên các cơ cấu của nhà nước, và trên thực tế bắt đầu có ảnh
hưởng trên bình diện quyền lực thực tế) thì chúng vẫn luôn mang trong
mình những dấu vết đặc thù về cội nguồn của chúng. Vì vậy, tôi có cảm
tưởng rằng không thể có nhận thức đúng đắn về cái gọi là phong trào bất
đồng chính kiến nếu không thường xuyên suy nghĩ về cái khung cảnh đặc
biệt vốn là xuất phát điểm của nó.
IX.
Sống
trong dối trá đã làm cho bản sắc của con người lâm vào một cuộc khủng
hoảng sâu sắc, đến lượt mình, cuộc khủng hoảng vốn làm cho cuộc sống như
vậy trở nên khả dĩ, chắc chắn phải tạo ra hậu quả đạo đức: hậu quả xuất
hiện - bên cạnh những đặc điểm khác - như là một cuộc khủng hoảng đạo đức sâu sắc trong xã hội.
Người bị hệ thống giá trị tiêu dùng cám dỗ, người mà bản sắc bị hòa tan
trong những bộ trang phục lòe loẹt của nền văn minh bày đàn, người
không có cảm nhận trách nhiệm về bất kì cái gì cao xa hơn sự tồn tại của
bản thân, là một người đã mất đạo đức. Hệ thống sống dựa vào sự đồi bại
này và làm cho nó trở thành trầm trọng thêm, trên thực tế là sự phóng chiếu sự suy đồi đạo đức trên bình diện toàn xã hội.
Ngược
lại, sống trong sự thật là cuộc nổi dậy của con người nhằm chống lại sự
sắp đặt cưỡng bức, là một cố gắng nhằm giành lại quyền kiểm soát cảm
nhận của cá nhân về trách nhiệm. Nói cách khác, đấy rõ ràng là một hành
vi mang tính đạo đức, không chỉ vì người ta phải trả giá đắt cho nó, mà
vì đấy là nguyên tắc bất vụ lợi: sự mạo hiểm có thể được đền đáp, tức là
tình hình được cải thiện, mà cũng có thể không. Về mặt này, như tôi đã
nói bên trên, đây là một canh bạc được ăn cả ngã về không, và thật khó
mà tưởng tượng được một con người duy lý lại bước lên con đường ấy chỉ
vì anh ta nghĩ rằng hi sinh hôm nay sẽ được đền đáp vào ngày mai – mà
đền đáp lại chỉ là lòng biết ơn của công chúng. (Nhân tiện, xin nói rằng
những người đang nắm quyền luôn luôn vu khống những người sống trong sự
thật bằng cách lúc nào cũng bảo rằng họ vị lợi – thèm khát quyền lực,
danh vọng, hay tiền tài – và do đó, chúng cố gắng, ít nhất là tìm cách
đưa những người sống trong sự thật vào thế giới của chúng, thế giới phi
đạo đức một cách toàn diện).
Nếu
sống trong sự thật trong hệ thống hậu toàn trị trở thành mảnh đất chính
nuôi dưỡng những ý tưởng chính trị độc lập, có thể được lựa chọn, thì
tất cả những mối quan tâm đến bản chất và viễn cảnh của những ý tưởng đó
nhất thiết phải coi khía cạnh đạo đức này như là một hiện tượng chính
trị. (Và nếu niềm tin cách mạng Mác-xít cho rằng đạo đức là một sản phẩm
của thượng tầng kiến trúc làm cho một số bạn bè của chúng ta không nhận
thức được đầy đủ ý nghĩa của khía cạnh này, và bằng cách này hay cách
khác đã không đưa nó vào thế giới quan của họ, thì chính họ là người bị
thiệt: lòng trung thành với nhựng định đề của thế giới quan đó ngăn cản,
làm cho họ không có những hiểu biết đúng đắn về những cơ chế ảnh hưởng
chính trị của họ, vì thế, mà ngược đời là nó lại làm cho họ, với tư cách
là những người Mác-xít, trở thành cái mà họ thường luôn nghi ngờ những
người khác: trở thành các nạn nhân của “nhận thức sai lầm”). Tầm quan
trọng chính trị đặc biệt của đạo đức trong hệ thống hậu toàn trị là hiện
tượng cực kì hiếm có trong lịch sử chính trị hiện đại, một hiện tượng
rất có thể có những hậu quả sâu xa – như tôi cố gắng chỉ ra ngay sau
đây.
X.
Hiến
chương 77 là sự kiện chính trị quan trọng nhất ở Tiệp Khắc sau khi
Husák lên cầm quyền vào năm1969, đấy là điều không thể phủ nhận được.
Nhưng không khí trí thức và tinh thần xung quanh sự xuất hiện của nó lại
không phải là sản phẩm của bất kì sự kiện chính trị trực tiếp nào. Bầu
không khí ấy là do bởi phiên tòa xử một số nhạc sĩ trẻ có quan hệ với
một nhóm nhạc rock gọi là “Những người bằng chất dẻo của vũ trụ”. Phiên
tòa xét xử không phải là cuộc đối đầu của hai lực lượng hay hai quan
niệm chính trị khác nhau, mà là cuộc đối giữa hai quan niệm sống khác
nhau. Một bên là chủ nghĩa khổ hạnh đã bị tước hết sinh khí của quyền uy
hậu toàn trị, còn bên kia là những thanh niên vô danh, những người chỉ
muốn được “sống trong sự thật”, được chơi thứ nhạc mà họ thích, được hát
những bài ca liên quan tới cuộc sống của họ, và được sống tự do cùng
với phẩm giá và tình bằng hữu. Những thanh niên này không có quá khứ
hoạt động chính trị. Họ không phải là những thành viên tích cực, có tham
vọng chính trị, của phe đối lập, họ cũng không phải là những cựu chính
khách bị gạt ra khỏi cơ cấu quyền lực. Họ có đủ cơ hội để thích nghi với
hiện trạng, để chấp nhận những nguyên tắc của sống trong dối trá và
hưởng thụ cuộc đời không bị chính quyền quấy nhiễu. Nhưng họ lại quyết
định đi theo hướng khác. Mặc dù vậy, hay chính xác hơn, chính vì thế mà
phiên tòa có một tác động vô cùng đặc biệt đối với tất cả những người
còn chưa từ bỏ hi vọng. Hơn thế nữa, khi phiên tòa diễn ra, một cảm xúc
mới bắt đầu dâng lên sau nhiều năm chờ đợi, sau nhiều năm lãnh đạm và
nghi ngờ đối với mọi hình thức phản kháng. Người ta đã “mệt mỏi vì mệt
mỏi”, họ đã chán ngấy tình trạng tù đọng, tình trạng bất động, chán ngấy
cảnh chờ đợi với hi vọng rằng cuối cùng rồi mọi thứ sẽ được cải thiện.
Có thể nói phiên tòa là giọt nước làm tràn li. Nhiều nhóm thuộc nhiều
khuynh hướng khác nhau, cho đến lúc đó vẫn biệt lập với nhau, vẫn ngại
hợp tác với nhau, hay những nhóm đã cam kết với những hình thức hành
động làm cho việc hợp tác trở thành khó khăn, bất ngờ nhận thức được
rằng tự do là không thể phân chia. Mọi người đều hiểu rằng tấn công hoạt
động âm nhạc “chui” ở Tiệp là tấn công vào một cái gì đó có tính chất
nền tảng và quan trọng nhất, tức là tấn công vào cái mà trên thực tế đã
liên kết mọi người với nhau: nó là cuộc tấn công vào chính khái niệm
“sống trong sự thật”, tấn công vào mục đích đích thực của đời sống. Tự
do chơi nhạc rock được hiểu như là quyền tự do của con người, và do đó
cũng giống như là quyền tự do suy nghĩ về chính trị và triết học, tự do
viết lách, tự do thể hiện và bảo vệ những lợi ích chính trị và xã hội
khác nhau của xã hội. Mọi người đã cảm thấy ý nghĩa thực sự của tình
đoàn kết với những nhạc sĩ trẻ, và họ hiểu ra rằng không đứng lên bảo tự
do của người khác - dù những phương tiện sáng tác hay thái độ sống của
họ có cách xa mình đến đâu - cũng
có nghĩa là đánh mất quyền tự do của chính mình. (Không thể có tự do
nếu không có bình đẳng trước pháp luật, và không thể có bình đẳng trước
pháp luật nếu không có tự do; Hiến chương 77 đã cung cấp cho khái niệm
lâu đời này một nhân tố đặc trưng và mới, nhân tố này có ý nghĩa to lớn
đối với lịch sử Tiệp hiện đại. Tại căn để của tất cả những sự khốn nạn
về đạo đức và chính trị của chúng ta hiện nay đã được ông Slábecek - tác
giả cuốn Năm sáu mươi tám (Sixty-eight) – trong
một bài phân tích rất sáng suốt gọi là “nguyên tắc loại trừ”. Nguyên
tắc này ra đời vào cuối Thế chiến II trong một vụ câu kết lạ lùng giữa
những người cộng sản và những người dân chủ, và sau đó tiếp tục phát
triển mãi lên cho đến khi đạt đến cái kết cục cay đắng hiện nay. Trong
suốt mấy thập kỉ, đây là lần đầu tiên nguyên tắc này đã bị Hiến chương
77 hạ gục: đây là lần đầu tiên, tất cả những người tập hợp dưới ngọn cờ
của Hiến chương 77 đều là những đối tác ngang hàng. Hiến chương 77 không
chỉ đơn thuần là một liên minh của những người cộng sản và không cộng
sản – đấy không phải là mới về mặt lịch sử và nếu xét từ góc độ đạo đức
và chính trị thì không có gì là cách mạng hết – đấy là một cộng đồng mà
ngay từ đầu (a priori)
đã là cộng đồng mở cho tất cả mọi người, và không ai bị coi là thua kém
ngay từ đầu). Hiến chương 77 hình thành trong bầu không khí như thế. Ai
có thể ngờ được rằng buộc tội một hai nhóm nhạc rock vô danh lại có
những hậu quả sâu xa đến như thế?
Tôi
cho rằng nguồn gốc của Hiến chương 77 minh họa rất rõ điều tôi đã đề
xuất ở trên: trong hệ thống hậu toàn trị, bối cảnh thực sự cho các phong
trào đang dần dần giành được ý nghĩa chính trị thường không phải là
những sự kiện chính trị nổi bật hoặc những cuộc đối đầu giữa các lực
lượng hay quan điểm mang tính chính trị một cách công khai. Những phong
trào này chủ yếu bắt nguồn từ một chỗ khác, bắt nguồn trong lãnh địa của
tiền-chính trị rộng lớn hơn rất nhiều, đấy là nơi mà “sống trong dối
trá” đối đầu với “sống trong sự thật”, tức là, bắt nguồn ở nơi mà đòi
hỏi của hệ thống hậu toàn trị mâu thuẫn với mục đích đích thực của đời
sống. Tự nhiên là những mục đích này có thể xuất hiện dưới rất nhiều
hình thức khác nhau. Có lúc đấy là những quan tâm về mặt vật chất hoặc
xã hội của một nhóm người hay một cá nhân; lúc khác, đấy có thể là những
mối quan tâm về mặt trí tuệ hay tinh thần; rồi có lúc, đấy có thể là
những đòi hỏi hiện sinh cơ bản nhất, thí dụ như ước muốn đơn giản của
con người là được tôn trọng. Cuộc xung đột này có tính chất chính trị
không phải vì bản chất chính trị sơ đẳng của những mục tiêu đòi hỏi
người ta phải lắng nghe, mà đơn giản là: chế độ hậu toàn trị được xây
dựng trên và phụ thuộc vào một hệ thống thao túng phức tạp, vì vậy mà
bất kì hành vi hay biểu hiện tự do nào của con người, bất kì cố gắng
sống trong sự thật nào cũng là mối đe dọa đối với hệ thống, và vì thế mà
rất có ý nghĩa chính trị. Biểu hiện chính trị của những phong trào lớn
lên trên nền đất tiền-chính trị ấy chỉ là hiệu ứng phụ. Nó là kết quả
của cuộc đối đầu tiếp theo với hệ thống, chứ không phải ngay từ đầu đấy
đã là một cương lĩnh, một dự án hay sung lực chính trị.
Những
sự kiện năm 1968 một lần nữa khẳng định điều đó. Những chính trị gia
cộng sản muốn cải cách hệ thống, đã đưa ra cương lĩnh cải cách không
phải vì đột nhiên họ được giác ngộ một cách bí ẩn, mà bởi vì họ bị ép
buộc phải làm như vậy do những sức ép liên tục và ngày càng tăng từ
nhiều lĩnh vực của đời sống không hề liên quan gì với chính trị theo
nghĩa truyền thống của từ này. Trên thực tế, họ đã cố gắng sử dụng những
biện pháp chính trị để giải quyết những xung đột xã hội (mà trên thực
tế là xung đột giữa những mục tiêu của hệ thống và những mục tiêu của
đời sống) đang hàng ngày diễn ra hầu như trên mọi bình diện của xã hội,
và đã được người ta nghĩ tới trong suốt nhiều năm với sự cởi mở đang
ngày càng gia tăng. Được sự cộng hưởng sống động của cả xã hội hậu
thuẫn, các học giả và nghệ sĩ đã xác định vấn đề theo vô vàn cách và
sinh viên thì đòi hỏi giải pháp.
Sự
ra đời của Hiến chương 77 cũng cho thấy ý nghĩa chính trị đặc biệt của
khía cạnh đạo đức của những vấn đề mà tôi vừa đề cập. Không thể tưởng
tượng được Hiến chương 77 mà không có tình đoàn kết giữa các nhóm rất
khác nhau, và mọi người không bất ngờ nhận ra rằng không thể chờ đợi
thêm được nữa, phải cùng nhau nói ra sự thật, mặc dù chắc chắn sẽ bị
trừng phạt, còn kết quả trong tương lai gần thì hoàn toàn không lấy gì
làm chắc chắn. “Có cái gì đó đáng để hi sinh”, Jan Patočka đã viết như
thế trước khi chết[6].
Tôi cho rằng những người tham gia phong trào Hiến chương hiểu đây không
chỉ là di sản của Patočka, mà còn là lời giải thích tốt nhất vì sao họ
lại làm những việc như thế.
Nhìn
từ bên ngoài và từ góc nhìn của hệ thống và cơ cấu quyền lực của nó thì
Hiến chương 77 là tiếng sét giữa trời quang. Dĩ nhiên là nó không phải
là tiếng sét giữa trời quang, nhưng có thể hiểu được ấn tượng ấy, bởi vì
quá trình lên men đưa tới sự ra đời của Hiến chương đã diễn ra trong
khu vực bị che dấu, trong vùng tranh tối tranh sáng, khó phân biệt và
khó xem xét kĩ được các sự vật. Khả năng dự báo sự xuất hiện của Hiến
chương 77 cũng mong manh như khả năng dự đoán, vào lúc này, hướng đi của
nó vậy. Nó quả là một cú sốc, một cú sốc rất điển hình cho những thời
khắc khi mà một cái gì đó từ khu vực bị che khuất bất ngờ xuyên thủng bề
mặt tù hãm của sống trong dối trá. Người càng bị mắc bẫy trong thế giới
của ảo tưởng thì càng bị bất ngờ khi xảy ra một cái gì đó tương tự như
thế.
Nguồn: Václav Havel et al., The Power of the Powerless: Citizens against the State in Central Eastern Europe, trans. Paul Wilson, M.E. Sharpe, Inc. Armonk, New York, pp 23-96.
Nguồn: Power of Powerless.
Có tham khảo bản dịch của Khải Minh tại địa chỉ talawas.org
và bản dịch tiếng Nga tại địa chỉ: http://www.inliberty.ru/library/classic/3492/
[1]
Phản Hiến chương: ý nói bản tuyên bố do nhà cầm quyền Tiệp Khắc dựng
lên nhằm bác bỏ Hiến chương 77. (Hiến chương 77 là một tuyên ngôn công
bố vào tháng 1 năm 1977, lên án nhà nước Tiệp Khắc vi phạm các quyền tự
do của con người, do 243 trí thức và công dân Tiệp Khắc kí tên. Theo
nghĩa rộng, đây là một phong trào dân sự phi cộng sản đã góp phần quan
trọng đưa đến sự sụp đổ của nhà nước toàn trị ở Tiệp Khắc).
[2]
Faust: nhân vật thần thoại trong văn học nghệ thuật châu Âu, người bán
linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy tuổi trẻ, tri thức và sức mạnh. Lần đầu
tiên chính thức xuất hiện là trong vở kịch của Christopher Marlowe ở
những năm 1590, sau đó trong một vở kinh điển của Johann Wolfgang von
Goethe ở thế kỷ 19.
Mephistopheles, Quỷ vương, chính là nhân vật tiến hành mua bán với Faust. Cái tên này được dùng thay cho Satan hay Quỷ sứ, nhưng không có từ ban đầu trong Kinh thánh mà chỉ được hư cấu kể từ thời Phục hưng. Từ thế kỷ thứ 17, nhiều huyền thoại Thiên chúa giáo bắt đầu nói đến Mephistopheles cùng với Lucifer – Ma vương/ Diêm vương – như những thiên thần nổi loạn chống lại Thượng đế vào lúc khởi thủy, bị đuổi khỏi Thiên đàng
Mephistopheles, Quỷ vương, chính là nhân vật tiến hành mua bán với Faust. Cái tên này được dùng thay cho Satan hay Quỷ sứ, nhưng không có từ ban đầu trong Kinh thánh mà chỉ được hư cấu kể từ thời Phục hưng. Từ thế kỷ thứ 17, nhiều huyền thoại Thiên chúa giáo bắt đầu nói đến Mephistopheles cùng với Lucifer – Ma vương/ Diêm vương – như những thiên thần nổi loạn chống lại Thượng đế vào lúc khởi thủy, bị đuổi khỏi Thiên đàng
[3] Dịch thoát ý ngạn ngữ: when the proverbial last straw will fall - PNT
[4]
Alexander I. Solzhenitsyn: nhà văn bất đồng chính kiến Liên Xô, các
tiểu thuyết của ông tố cáo sự tàn bạo trong các trại lao động Xô viết
[5]
Hiến chương 77: một sáng kiến công dân không chính thức ở Tiệp Khắc
những năm 1977-1992, đóng vai trò quan trọng trong khoảng thời gian cuối
những năm 1980, khi chủ nghĩa cộng sản đi đến sụp đổ tại nước này.
Trong số các thành viên sáng lập hàng đầu của Hiến chương 77 có Václav
Havel. Lần đầu tiên Hiến chương xuất hiện như một cương lĩnh vào tháng
Giêng năm 1977, trên một tờ báo ở Tây Đức, với chữ ký của 243 công dân
Czechoslovakia thuộc những ngành nghề, chính kiến và tôn giáo khác nhau.
Đến giữa những năm 1980, số chữ ký lên đến 1200. Hiến chương phê phán
nhà nước Tiệp Khắc thất bại trong việc thực thi các điều khoản về nhân
quyền như đã được ghi trong các văn kiện mà nhà nước này đã ký kết,
trong đó có cả chính Hiến pháp Tiệp Khắc, Hiệp ước An ninh và Hợp tác
châu Âu, các điều khoản của Liên hợp quốc về các quyền chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa… Nó mô tả những người tham gia ký Hiến chương như
một liên hiệp không cố kết, không chính thức và để mở, thống nhất với
nhau do cùng chung ý chí phấn đấu, về mặt cá nhân và tập thể, cho sự tôn
trọng nhân quyền và dân quyền trên đất nước Tiệp Khắc và khắp thế giới.
Nó cũng nhấn mạnh đây không phải là một tổ chức, một quy chế hay một cơ
chế vĩnh viễn, và không phải là hình thức làm cơ sở cho hành động đối
lập chính trị. Phản ứng của nhà nước Tiệp là bôi nhọ và đàn áp. Họ dùng
truyền thông chính quyền, kể cả trong truyền thông đối ngoại, để mô tả
Hiến chương là “chống nhà nước”, “chống chủ nghĩa xã hội”, là “mị dân”
và “phần xỉ nhục của viết lách”. Họ gọi những người ký vào Hiến chương
là “những kẻ phản bội và nổi loạn”, là “đầy tớ trung thành và gián điệp
của chủ nghĩa đế quốc”, những kẻ “phá sản về chính trị” và “phiêu lưu
quốc tế”… Tháng Mười năm 1979, sáu nhà lãnh đạo của nhóm, trong đó có
Václav Havel bị đưa ra xử vì tội lật đổ và bị kết án với những mức tù
đến năm năm (talawas).
[6]
Jan Patocka là một triết gia có ảnh hưởng lớn và là môn đồ của Edmund
Husserl. Ông cũng là một trong những phát ngôn viên đã sáng lập ra Hiến
chương 77. Ông bị cảnh sát quấy rối nghiêm trọng, bị gọi thẩm vấn triền
miên, và theo đúng nghĩa, đã bị cảnh sát săn lùng cho đến tận giường
bệnh viện nơi ông trút hơi thở cuối cùng. Trích đoạn trên được lấy từ
diễn văn cuối cùng của ông, được dịch ra tiếng Anh là “Political
testament” (Di chúc chính trị), Telos, 31 (mùa xuân 1977), trang 151-2.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét