Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015
Cha chung, mọi người khóc: Elinor Ostrom và bài toán lạm dụng tài nguyên
07:12
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: Vũ Quý Hạo Nhiên
Giáo sư chính trị học Elinor Ostrom (1933-2012), Nobel Kinh tế 2009. (Hình: Indiana University)
Tiến sĩ Elinor Ostrom, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đoạt giải Nobel Kinh tế, qua đời hôm 12 tháng 3, thọ 78 tuổi.
Bà được giải Nobel Kinh tế năm 2009, sau
cả một đời nghiên cứu cách bảo vệ tài nguyên của chung sao cho không bị
lạm dụng, không bị dùng quá trớn, bào mòn tới nỗi bị mất luôn.
Tuy chiếm giải Nobel kinh tế, nhưng bà Ostrom không phải là một nhà kinh tế học. Bà đậu cử nhân, cao học, và tiến sĩ đại học UCLA không phải trong ngành kinh tế, mà trong ngành chính trị học.
Hầu hết công trình nghiên cứu của bà đều được thực hiện trong thời gian bà dạy tại đại học Indiana University, cũng không phải trong khoa kinh tế, mà trong khoa chính trị.
Điều này thật ra không có gì lạ. Không
lạ, vì kinh tế học không còn là một ngành riêng lẻ dành riêng cho những
người muốn làm kinh tế nữa, mà kinh tế học đã lấn vào hầu hết các ngành
khoa học xã hội. Phương pháp luận của kinh tế là một phương pháp luận
căn bản hầu như bất kỳ một nhà khoa học xã hội nào cũng phải biết. Và
khi một nhà chính trị học, như Tiến sĩ Ostrom, dùng phương pháp của kinh
tế để giải quyết vấn đề tài nguyên dùng chung, thì công trình đó trở
thành một công trình kinh tế học.
.
Bài toán quen thuộc
.
Vấn đề Tiến sĩ Ostrom nghiên cứu là một
vấn đề khá quen thuộc với người Việt Nam. Tại sao phòng vệ sinh ký túc
xá lại rất dơ? Tại sao đường xá Việt Nam xả đầy rác?
Tại sao di tích lịch sử cứ bị phá hỏng
không ai chăm sóc? Tại sao ngành du lịch làm ăn chụp giựt không màng tới
tiếng xấu cho đất nước? V.v. và v.v.
Người Việt Nam mình gọi những vụ này
bằng thành ngữ “cha chung không ai khóc.” Hoặc là “nhiều sãi không ai
đóng cửa chùa.” Đó là những câu miêu tả tình trạng này, nhưng chưa phải
là giải pháp.
Trong kinh tế, tình trạng này mang tên gọi “tragedy of the commons,” tạm dịch là “thảm kịch của tài nguyên dùng chung,” theo tựa của bài nghiên cứu của nhà môi trường học Garrett Hardin, in trong tạp chí Science năm 1968.
(Hiện tượng một bài nghiên cứu môi trường, do một tiến sĩ vi sinh học
viết ra, lại trở thành một bài kinh điển cho giới kinh tế, một lần nữa
cho thấy kinh tế học không phải là một ốc đảo.)
Thế thì “tragedy of the commons” là gì?
Tôi có lần nghe phỏng vấn Tiến sĩ Ostrom trên radio, thì bà tóm tắt công
trình nghiên cứu cả đời của bà, là biến “tragedy of the commons”-thảm
kịch của tài nguyên dùng chung, thành “problem of the commons” – một bài
toán, một vấn đề, có giải pháp, chứ không phải là thảm kịch để ngồi
khóc lóc than thở với nhau.
Thí dụ tiêu biểu của “tragedy of the
commons” (mỗi vấn đề trong kinh tế học thường có một thí dụ tiêu biểu)
là một đồng cỏ chăn bò.
.
Thảm kịch đồng cỏ tàn phế
.
Hardin miêu tả một cánh đồng cỏ không
thuộc chủ nào hết, bên ngoài một ngôi làng. Một nhà nông đem 2-3 con bò
ra ăn cỏ, thì không sao, vì cỏ sẽ mọc lại. Cả làng mỗi nhà mang 2-3 con,
cũng chưa sao. Trong đó có một nhà mang 10 con, cũng vẫn chưa sao, cỏ
vẫn còn mọc lại được.
Bò thả trong đồng cỏ chung, ở Anh. (Hình: Sharon Loxton/Wikipedia/Creative Commons)
Nhưng nếu ai ai cũng mang 10, 20, 30 con
thả ra đồng cho nó tự ăn tự lớn rồi mình bán lấy tiền làm giàu, nếu ai
ai cũng lùa thật nhiều bò vào ăn trong cánh đồng đấy, rồi ra cỏ sẽ chết
hết, chết cả gốc rễ luôn.
Và thế là hết cỏ. Mà hết cỏ thì cũng hết cả chăn bò.
Cái tối ưu của mỗi người, khi cộng lại,
sẽ không còn là mức tối ưu của chung. (Người quen thuộc với toán sẽ nhận
ra là điểm cân bằng Nash của trò chơi này là điểm không tối ưu.)
Đó là thảm kịch.
Thảm kịch này đã xảy ra thật trong đời sống. Cụ thể nhất là trong ngành đánh cá.
Có những nguồn cá bị đánh cạn kiệt, chỉ vì mỗi người đều cố gắng đánh
cho được càng nhiều cá càng tốt, không cần biết có quá mức sinh đẻ của
cá hay không. Nếu lỡ vùng biển nào bị cạn nguồn cá thì, không sao, ta đi
qua vùng biển khác, tiếp tục vắt cho hết!
Vậy phải làm sao? Các nhà kinh tế đưa ra hai giải pháp.
Một giải pháp, có thể xem như là giải
pháp của “cánh tả,” là một chính quyền nào đó đứng ra đánh thuế, hoặc
quản lý đồng cỏ này, định giới hạn số bò được vào. Có giới hạn, đồng cỏ
sẽ không bị gặm tới chết.
Giải pháp thứ nhì, có thể xem như giải
pháp “cánh hữu,” là đem chia lô bán đấu giá đồng cỏ đó. Tư nhân mỗi
người được một miếng, rồi tự lo mà giới hạn để năm sau mình còn cỏ mà
cho bò ăn. (Ron Coase, Nobel Kinh tế 1991, là người cổ động giải pháp này.)
Cả hai giải pháp đều có vấn đề. Giải pháp “tả khuynh” kiểu Pigou
có vấn đề là tin tưởng vào một nhà nước anh minh sẽ đưa ra đáp số tối
ưu – trong khi nhà nước tự nó cũng có sự ích kỷ của nó, lo cho quyền lợi
riêng của nhà nước thay vì quyền lợi chung. Có cả một ngành kinh tế,
gọi là public choice theory, để phân tích sự ích kỷ của nhà
nước dẫn đến những giải pháp dưới tối ưu như thế nào. (Tiến sĩ Ostrom
cũng đóng góp đáng kể trong public choice theory.)
(Tôi cũng nhận xét thêm là ở mặt này
người Việt Nam mình rất tả khuynh. Mỗi khi có vấn đề gì, là báo lề phải
sẽ có những bài viết hay thư độc giả “mong sao nhà nước sẽ có giải pháp
X, Y, Z,” và các blog lề trái thế nào cũng có người chỉ trích nhà nước
là không chịu áp đặt giải pháp X, Y, Z.)
Giải pháp hữu khuynh cũng yếu. Chính
Coase cũng nhận ra rằng chia một mảng tài nguyên lớn thành nhiều mảng
nhỏ tăng chi phí giao dịch giữa những lô đất đó với nhau hoặc giữa người
có đất và người ngoài. Ngoài ra, có khi mảng tài nguyên đó không phân
lô được, hoặc phân lô không được công bằng.
.
Giải pháp thứ ba
.
Tiến sĩ Ostrom đưa ra thí dụ một đồng cỏ
không phân chia được. Có cái làng kia ở miền núi châu Âu, người ta canh
tác ở chân núi còn phần đồng cỏ trên cao, không phải của riêng ai, thì
người ta thả bò ở đó.
Cỏ ở đó, mọc không đều. Cỏ mọc nhiều ít
trong mùa xuân, là tùy tuyết mùa đông thế nào. Trên núi đó, tuyết rơi
không đều, nên vào mùa xuân cỏ mọc cũng không đều. Có năm thì phía bên
này cỏ xanh rậm rạp phía bên kia thưa thớt. Có năm thì ngược lại.
Vì vậy giải pháp của cánh hữu chia lô
mỏm núi không thực hiện được. Chia lô ra sẽ dẫn đến tình trạng cóbên bò
no và dư cỏ, có bên bò thiếu cỏ bị đói.
Cái làng đó chính là nguồn cho giải pháp của Tiến sĩ Ostrom. Cái làng đó có thật, có tên: Làng Törbel, ở Thụy Sĩ.
Ở đây, họ có luật của làng, là không cho
phép thả bỏ ăn cỏ nhiều hơn số bò có thể nuôi được (trong chuồng) vào
mua đông. Bỏ qua lý do tại sao luật này tối ưu (và nó đã tối ưu từ năm
1517 tới nay!) sáng kiến của bà Ostrom là nhận ra chân lý này:
Làng Törbel, nhìn từ mỏm núi đối diện. (Hình: Wandervogel/Wikipedia/Creative Common)
Vấn đề của tài nguyên dùng chung có thể giải quyết được qua sự thỏa thuận giữa những người dùng tài nguyên đó với nhau!
Ngoài ngôi làng Törbel ở Thụy Sĩ ra, bà
Ostrom còn tìm ra hàng trăm thí dụ khác khắp thế giới, khi người sử dụng
tài nguyên, tại địa phương, tự tìm ra giải pháp.
Tức là, trong khi giới kinh tế từng
tưởng rằng chỉ có hai giải pháp ở hai cực tả và hữu – hoặc là nhà nước
phải nhúng tay vào điều khiển từ xa, hoặc là tài nguyên đó phải xé ra
cho tư nhân – thì có một giải pháp thứ ba: Giải quyết tại địa phương.
Cái làng Törbel ấy, họ tự giải quyết với nhau, không cần chi tới nhà
nước ở Bern xía vào.
.
Tự xài tự xử
.
Tự giải quyết với nhau à? Dễ nhỉ. Dễ thế mà cũng Nobel sao?
À. Nếu nghĩ thêm một bước nữa, mới thấy
phát hiện này không phải là tầm thường đâu. Vì bình thường, nếu bảo, ai
xài người đó tự giải quyết với nhau, thì rất nhiều người trong chúng ta
sẽ giẫy nảy lên vì cho đó là vô lý, là vừa đá bóng vừa thổi còi.
Chính điều đó là phát hiện của Ostrom:
Những kẻ đá bóng này không thể thổi còi bậy được, vì họ còn phải tiếp
tục đá với nhau nữa, hết trận này qua trận khác. Khác với hai đội chuyên
nghiệp cần có trọng tài, trẻ em trong xóm khi đá với nhau toàn tự thổi
còi đấy thôi!
Phát hiện của Ostrom cũng chứng minh
thành ngữ của Việt Nam là sai. “Cha chung không ai khóc” ư? Có ai đã
từng đi đám ma của ông nào đông con mà không con nào khóc đâu? Thực tế
là càng đông con càng nhiều đứa khóc và càng dễ làm đám ma to. “Nhiều
sãi không ai đóng cửa chùa”? Cũng sai nốt. Nhiều sãi thì cứ phân công
đóng cửa chùa thôi!
Trong công trình “Governing the Commons” in năm 1990,
Tiến sĩ Ostrom trình bày kết quả khảo sát thực địa ở khắp năm châu, và
rút ra danh sách 8 điểm cần có để giải pháp địa phương thực hiện được.
(Xem thêm tóm tắt ở đây, ở đây, và ở đây.)
Nhìn vào danh sách này, người quen thuộc với phương pháp kinh tế học sẽ
nhận ra nhiều khó khăn được giải quyết, như property rights,
externalities, free-rider, one-shot game, transaction cost, …
1. Tài nguyên dùng chung phải được phân vùng rõ rệt, để loại bỏ người ngoài nhào vô mà không tuân thủ luật của nhóm.
2. Luật của nhóm phải cân bằng giữa tài nguyên rút ra và cống hiến bỏ vào, như bỏ tiền, bỏ công…
3. Người bị ép tuân thủ luật của nhóm, phải có tiếng nói trong việc lập ra và thay đổi luật này.
4. Phải có người theo dõi sự tuân thủ để tránh gian lận.
5. Phải có luật phạt vi phạm, và mức
phạt phải tăng dần. Và ở đây, Tiến sĩ Ostrom chỉ ra điều cơ bản của vấn
đề, là không cần một nhà nước ở xa mà chính những người sử dụng tài
nguyên tự bảo đảm sự tuân thủ bằng những mức phạt này.
6. Tranh chấp phải giải quyết được ở mức
địa phương, với phí tổn thấp về tiền bạc, nhân sự, thời gian. Điều này
giảm thiểu chi phí giao dịch.
7. Chính quyền bên ngoài phải tôn trọng
quyền tự quyết của địa phương. Cái này tiếng Việt gọi là phép vua thua
lệ làng. Không chỉ để tránh những giải pháp dưới tối ưu do “xuân từ
trong Huế đưa ra,” mà điều này còn tránh cho những kẻ muốn lách luật của
nhóm không thể chạy ra trung ương kiếm ông nào ô kê cho mình làm bậy.
8. “Nested enterprises” – phải có nhiều
tầng quy tắc cho từng tầng tài nguyên. Ostrom lấy thí dụ ở Philippines:
Kênh đào có nhiều cấp, có kênh chính, kênh nhỏ tách ra từ kênh chính, và
trên đó thì có hệ thống chung của tất cả các công trình thủy lợi. Thì
luật ở kênh nhỏ, là kênh cuối cùng đổ vào ruộng, phải khác luật ỏ kênh
chính – đổ vào các kênh nhỏ. Và cả hai cùng phải khác luật của cả hệ
thống dẫn thủy nhập điền.
Và nhìn vào danh sách này, một người
không cần quen thuộc với phương pháp kinh tế cũng nhận ra là nó có dáng
dấp của cái gì đó rất là thượng tôn pháp luật, rất là bảo vệ quyền tư
hữu, rất là tư pháp độc lập, rất là địa phương tự trị, rất là tôn trọng
cử tri.
Nói chung là rất là dân chủ.
VŨ QUÝ HẠO NHIÊN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét