Lữ
Phương
Nhiều người đã nói đến ba nguồn tư duy tạo thành học thuyết Marx: kinh
tế Anh, triết học Đức, chủ nghĩa xã hội Pháp. Mục đích của bài viết này
là làm sáng tỏ nguồn đầu tiên, tập trung vào một chủ đề cụ thể: đó là lý luận giá trị-lao động (théorie de la valeur-travail) hoặc
lý luận lao động về giá trị (labour theory of value), đặc biệt qua
sự diễn giải của Adam Smith và David Ricardo của trường kinh tế cổ điển
mà Marx đã tiếp thu những khái niệm, những tiền đề, đồng thời phê phán,
điều chỉnh để phác hoạ ra luận đề chính trị-triết học đặc trưng macxit
gọi là giải phóng lao động với cuộc cách mạng vô sản của ông.
Phương pháp biện luận nào đã dẫn đến sự chuyển hoá những khái niệm căn
bản của trường kinh tế cổ điển thành những trung giới logic tạo nên cuộc
cách mạng đó? Tư bản trong kinh tế cổ điển đã trở nên khác đi so với
“tư bản” trong tư duy của Marx như thế nào? Dựa trên nền tảng giá trị
nào Marx tiến hành công việc mà ông đeo đẳng suốt đời là phê phán kinh
tế chính trị? Những giá trị ấy thực chất có bao hàm nội dung đi ngược
lại những nguyên lý pháp quyền tư sản? Lý luận lao động của Marx có thật
sự đoạn tuyệt hay chỉ là một cách giải thích về lý luận giá
trị-lao động của trường kinh tế cổ điển? Tác dụng thực sự của những
khái
niệm “sức lao động”, “giá trị thặng dư”, “lợi nhuận” trong biện luận
của
Marx có ý nghĩa gì trong sự phê phán kinh tế tư sản? Những kết luận
của
Marx về cuộc cách mạng giải phóng lao động là sự vận động sinh thành
tất
yếu của những mầm móng tồn tại trong bản thân hiện thực hay chỉ là
những va chạm tư biện của những khái niệm triết học? Nhiều câu hỏi như
vậy đã được đặt ra trong bài viết cùng với những câu trả lời có thể
gây
bất ngờ, nhưng tất cả đều dựa vào chính các luận cứ mà Marx đã trình
bày
minh bạch qua hai bản thảo ngày càng được giới nghiên cứu cho là cực
kỳ quan trọng của ông: Grundrisse (1857-1858) và Các học
thuyết về giá trị thặng dư (1861-1863).
Bài viết gồm có 8 phần như sau:
1.
A. Smith và lý luận giá trị-lao động
2.
Sự phê phán của David Ricardo
3.
Mấy ý kiến của K. Marx
4.
Một số điều chỉnh về lý luận
5.
Sự hình thành một khái niệm
6. Sự bành trướng và sức cản
7.
Những tín hiệu của tương lai
8.
Vài nhận xét
1
Adam Smith và lý luận giá trị-lao động
Adam Smith mở đầu cuốn The Wealth of Nations (1776) [Bản tiếng
Việt: Đỗ Trọng Hợp, Của cải của các dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1997 ] của mình bằng câu:
“Lao động hàng năm của mỗi dân tộc là cái quỹ vốn cung cấp ban đầu cho
dân tộc đó mọi thứ cần dùng và tiện nghi của đời sống mà nó tiêu thụ
hàng năm, quỹ vốn ấy cốt yếu bao giờ cũng là kết quả trực tiếp của lao
động đó, hoặc là các thứ mua được từ những dân tộc khác với kết quả đó”.
(“Lời giới thiệu”, Bản tiếng Việt (BTV): tr 47, có sửa).
Cần chú ý đến từ “quỹ vốn” được sử dụng ở đây như là sở
hữu thuộc về
một dân tộc với ý nghĩa khái quát của nó: sản phẩm của một quá trình
tạo ra của cải cho toàn xã hội, điều mà bây giờ chúng ta gọi là sự
tăng
trưởng kinh tế. Vấn đề Smith đặt ra như vậy chủ yếu là tìm hiểu nguồn
gốc có tính chất xã hội của của cải một cách vĩ mô, tổng thể. Để triển
khai việc tìm hiểu nói trên, Smith cho rằng cần phải xác định cái nhân
tố chủ thể hướng về mục tiêu đó, coi nhân tố đó như động lực thúc đẩy
sự
phát triển mà cũng là tiêu chuẩn đo lường mức độ của sự phát triển ấy.
Với Smith, động lực ấy và thước đo ấy chính là lao động của con người –
lao động nói chung, không phân biệt chi tiết – mà hiệu quả của nó là
tạo
ra những giá trị đại biểu cho những vật thể, có thể sờ mó, định lượng,
tái tạo, nhân lên được và diễn ra thường xuyên trong không gian và thời
gian một cách khách quan . Những thứ sản phẩm quá cá biệt, độc đáo,
thuộc lĩnh vực thẩm mỹ, cá nhân, thuần tuý tinh thần, tuy là hiện thực
nhưng không nằm trong phạm trù kinh tế gọi được là “sản xuất” và có
thể
“tái sản xuất”.
Quan niệm lấy lao động làm thước đo sản phẩm trên đây, Smith đã thừa kế
một cách tự nhiên từ rất nhiều người đi trước ông, trong đó John Locke,
William Petty… là những phát ngôn minh bạch nhất. Với những tác giả này,
khởi đầu, mọi thứ vật thể trên trái đất đều là quà tặng của tự nhiên,
chỉ nhờ có lao động mà những thứ có nguồn gốc tự nhiên mới trở thành có
giá trị với con người, do con người tạo ra làm cho con người không còn
phụ thuộc vào tự nhiên nữa. Nói cách khác lao động tạo ra thế giới văn
hoá cho con người, xét về mặt nhu cầu lẫn mối quan hệ xã hội. Những giá
trị của những vật thể tạo ra ấy, William Petty cho đó là sự kết hợp giữa
đất đai và lao động, như một câu nói thường hay được nhắc lại của ông:
“Lao động là Cha, nguyên lý năng động của Của cải, cũng như Đất là Mẹ”.
Khái niệm về tư bản với Petty do đó đã mang nội dung của một thứ lao
động đã được vật thể hoá và thuộc về quá khứ, gọi là “lao động quá khứ”
sau này được John Locke chuyển thành nội dung chính trị về quyền tư
hữu cho trường kinh tế chính trị cổ điển: đất đai nguyên liệu là của
trời đất, ai bỏ lao động ra khai thác được thì sẽ là chủ sở hữu một
cách tự nhiên.
Từ
những tiền đề mặc nhiên nói trên, Smith đã đưa lý luận giá trị-lao
động
vào những giới thuyết cụ thể hơn, đặc biệt trong lĩnh vực trao đổi
trong
thời kỳ sự phân công lao động đem đến hiệu quả mở rộng cho sản xuất.
Trong sự trao đổi này, Smith có nói đến khái niệm “giá trị sử dụng” để
chỉ tính chất “có ích” của sản phẩm làm ra đối với người tiêu dùng, và
đưa ra nghịch lý bỏ ngỏ mà về sau người ta thường nhắc lại và gọi là
nghịch lý kim cương/nước [“không có gì có ích hơn nước, nhưng hầu như
không thể dùng nước để mua được bất cứ cái gì khác” (tr. 83)] .
Thật
sự thì trong những tình huống nước trở thành khan hiếm, nhận xét này
không còn đúng nữa, nhưng Smith không thảo luận thêm vì ông muốn tập
trung làm sáng tỏ khái niệm đi song hành với “giá trị sử dụng” là “giá
trị trao đổi”: giá trị này được ông định nghĩa một cách cô đọng ngay
từ
đầu để về sau luôn được nhắc lại: đó là cái “khả năng mua” một
vật thể khác khi ta có sẵn trong tay một sản phẩm “có ích” mà mình muốn
nhường lại. Và cũng qua cách diễn đạt này, chúng ta có thể hiểu được ý
nghĩa tiềm ẩn của giá trị sử dụng trong mối quan hệ của nó với giá trị
trao đổi: giá trị sử dụng chứa đựng trong những vật thể có ích, theo
cách nói của Marx sau này, là cái giá đỡ đưa những vật thể ấy
vào lĩnh vực trao đổi, để chúng có thể mang được ý nghĩa của những vật
thể có giá trị trao đổi. Nôm na là: chỉ có những vật có ích thì mới có
thể đem đi trao đổi.
Và
như chúng ta đã ta biết, với Smith, cũng như với tất cả những nhà lý
luận theo trường phái kinh tế cổ điển, thước đo của những sản phẩm đem
trao đổi là số lượng lao động hàm chứa trong sản phẩm ấy, số lượng lao
động này chỉ có thể trao đổi lấy một sản phẩm khác cùng chứa một lượng
lao động tương đương. Sự ngang giá trong trao đổi ở đây đã trở thành
nguyên lý để một nền kinh tế dựa trên trao đổi có thể vận hành có lợi
cho toàn xã hội: một người trong khi chỉ có thể sản xuất ra một số mặt
hàng đặc biệt thì vẫn có thể hưởng được thành quả của những người sản
xuất khác trên khắp thế giới, một cách sòng phẳng, công bằng. Sự bình
đẳng đã trở thành tiền đề của nền kinh tế dựa trên trao đổi, điều này
cũng đã trở thành nguyên lý của lý luận kinh tế trao đổi.
Tuy vậy điều rất đáng chú ý qua những nguyên lý chung ấy, Smith đã mang
đến cho nội dung của lao động một ý nghĩa rất đặc biệt,: đó là điều ông
gọi là “cái giá” mà người lao động phải bỏ ra để hoàn tất số lượng lao
động đem trao đổi ấy. Cái giá ấy phảng phất ý tứ câu trong Kinh thánh về
việc Adam và Eva, vì cãi lời Chúa nên đã phải “đổ mồ hôi trán” để có
thức ăn: theo lời lẽ của Smith thì đó là “sự nhọc nhằn, phiền muộn” của
người lao động , là sự “hy sinh” mà họ buộc phải chấp nhận để “gác lại”
mọi “sự thoải mái, tự do và hạnh phúc” khi tạo ra của cải cho xã hội.
“Các đại lượng ngang nhau của lao động vào bất cứ thời nào, lúc nào,
cũng được coi như có giá trị ngang nhau đối với người lao động. Trong
tình trạng bình thường về sức khoẻ, thể lực và tinh thần; trong mức độ
bình thường về kỹ năng và tài khéo,
anh ta luôn phải gác lại (hy sinh) cái phần giống nhau của sự thoải mái,
sự tự do và hạnh phúc của bản thân. Cái giá mà anh ta trả phải luôn
như nhau, bất kể số lượng hàng hoá mà anh ta nhận được để bù đắp cho sự
hy sinh ấy.” (Smith, Ch. V, BTV: tr. 89, có sửa)
“Equal quantities of labour, at all times and places, may be said to be
of equal value to the labourer. In his ordinary state of health,
strength and spirits; in the ordinary degree of his skill and dexterity,
he
must always laydown the same portion of his ease, his liberty, and his
happiness. The price which he pays must always be the same, whatever
may be the quantity of goods which he receives in return for it”.
Vấn đề giá trị trao đổi trong quan niệm của Smith cũng đã dựa hoàn toàn
vào quan niệm “hy sinh” trên đây để triển khai thêm từ định nghĩa cô
đọng nói trên về cái “khả năng mua được” những gì mình không có, khi
bằng cách nào đó chúng ta chiếm hữu được những lượng lao động nói trên
như những giá trị tiềm ẩn, có thể dự trữ và tích luỹ thành một thứ
“quyền lực” có thể “đặt mua” [“chỉ huy”] được các hình thái lao động của
người khác trên thị trường, hoặc là dưới hình thái hàng hoá vật thể hoặc
là dưới hình thái lao động sống. Tính chất hai mặt trong quan niệm về
lao động của Smith đã bộc lộ rõ trong khái niệm mà sau này người ta đã
đặt cho cái tên là lao động đặt mua (commanded labor) toát ra
từ
sự trình bày của Smith – một mặt nếu lao động là nguyên nhân đem lại
sự giàu sang và tiến bộ cho xã hội, thì mặt khác nó lại mang ý nghĩa của
cái đi ngược lại với bản thân nó: nó là phản đề của sự “thoải mái, tự
do
và hạnh phúc” của con người. Phản đề này chứa đựng thật nhiều ý nghĩa
hàm chứa trong quan niệm lao động nói trên: nếu sỡ hữu được loại giá
trị này, chúng ta sẽ thoát khỏi được tình cảnh khổ nhọc vì lao động.
Quan niệm đó về sau sẽ bị K. Marx cho là “tiêu cực” xét theo một chuẩn
mực khác về triết học nhưng với Smith, đứng về sản xuất thì với cái giá
của sự hy sinh vì “nhọc nhằn và phiền muộn” đó, sự công bằng cho những
người lao động phải được coi như là hậu quả tất yếu của nền kinh tế lấy
sự trao đổi ngang giá làm nguyên tắc. Ý tưởng này, Smith đã viết nơi
dòng đầu Chương 8 của tác phẩm của mình: “Kết quả của lao động là
phần thưởng tự nhiên hoặc tiền công của lao động”. Và điều này có
nghĩa là : những người lao động phải được hưởng toàn bộ sản phẩm do mình
làm ra như một “sự đền bù tự nhiên”, còn nếu phải nhận lãnh sự đền bù ấy
dưới hình thức tiền công thì tiền công ấy phải là tiền công thực tế
quy ra ngang bằng với giá trị của sản phẩm. Như vậy, lượng tương đương
của lao động phải là tiêu chuẩn của trao đổi, sản phẩm lao động phải
trả hết về cho người lao động, rõ ràng những mệnh đề đó phải được xem
như những tiền đề trong lý luận lao động về giá trị của Smith.
Tuy vậy, xét về mặt thực tế và lịch sử thì vấn đề lại không hoàn toàn
đơn giản: Smith cho rằng nguyên tắc đó không lúc nào cũng áp dụng giống
nhau. Ông giả định một thời kỳ sơ khai, ở đó “trước khi có tích luỹ
tư bản và chiếm hữu đất đai”, đương nhiên toàn bộ sản phẩm phải là
“phần thưởng” của người lao động. Nhưng Smith cho rằng tình hình không
còn như cũ nữa khi trong lịch sử đã có sự hiện hữu của những chủ tư bản
và ngay khi “tư bản đã tích luỹ trong tay những người cá biệt”
thì
“…
một số những người này tự nhiên sẽ dùng vốn đó để thúc đẩy những người
dân cần cù làm việc, cung cấp vật liệu và phương tiện sinh sống cho họ,
mục đích kiếm lời bằng việc bán sản phẩm của họ, hoặc bằng [việc hưởng]
cái phần mà lao động của họ thêm vào giá trị của những vật liệu. Khi đem
trao đổi toàn bộ sản phẩm để lấy tiền, lấy lao động, hoặc những hàng hoá
khác, vượt khỏi và cao hơn phần đủ để chi trả cho vật liệu, tiền công
của công nhân, thì một cái gì đó phải dành ra cho lợi nhuận của người
đem vốn liếng chấp nhận rủi ro trong cuộc phiêu lưu. Giá trị mà công
nhân đem thêm vào vật liệu , như vậy, trong trường hợp này, giải quyết
thành hai phần, một phần trả cho tiền công của công nhân, phần kia là
lợi nhuận dành cho ông chủ mà toàn bộ vốn vật tư và tiền công đã ứng
trước cho họ”.
(Smith, Ch. VI, BTV: tr. 108, có sửa)
Đoạn văn trên đây của Smith đã đặt ra nhiều vấn đề tranh cãi có liên hệ
đến lý luận giá trị - lao động. Quan trọng nhất là câu hỏi sau đây: nếu
cho rằng lý luận này là đúng cho trường hợp thứ nhất (thời sơ khai) thì
với Smith, trong trường hợp thứ hai (thời đã có tư bản), nó có còn duy
trì được không hay đã bị từ bỏ, không thể áp dụng nữa? Nói cách khác:
lao động bây giờ có còn là thước đo duy nhất của giá trị hàng hoá và
kết quả toàn bộ sản phẩm có còn là phần thưởng duy nhất cho người lao
động?
Đã
có nhiều câu trả lời, nhưng trước hết chúng ta cần bám sát văn bản của
Smith và thử nhớ lại hai trường hợp do Smith đặt ra. Trong trường hợp
thứ nhất (không có địa tô và tư bản), hãy giả định người lao động đi
săn với công cụ (được gọi là tư bản theo nghĩa vật thể) sau đó bỏ qua
phần vật liệu + bảo trì, thì hiển nhiên giá trị sản phẩm thu hoạch
được sẽ bằng (=) tiền công cộng với (+) “lợi nhuận”của tư bản công cụ
và do lúc đó chưa xuất hiện giai cấp chủ tư bản, nên cả hai thành phần
này tất nhiên đều thuộc về người lao động vốn vừa là chủ tư liệu vừa là
công nhân. Bây giờ qua trường hợp thứ hai (đã có địa tô và tư bản),
không tính đến vật liệu + bảo trì, chúng ta thấy kết quả sản phẩm làm ra
cũng nằm trong cùng một công thức: giá trị sản phẩm bằng (=) tiền công cho lao động cộng với (+) lợi nhuận của tư bản. Chỉ có
điều khác là trong trường hợp thứ hai này, toàn bộ sản phẩm của người
công nhân đã bị khấu trừ – chữ của Smith – một phần để nhường cho
lợi nhuận tư bản, và thứ tư bản này bây giờ thuộc về người khác, không
phải công nhân, do đó thứ “tiền công” định nghĩa như phần thưởng cho
lao động làm chủ của thời nguyên thuỷ trong tình thế này đã trở
thành cái giá mua lao động làm thuê trong thời kinh tế tư bản tư
nhân.
Sự
so sánh cho chúng ta thấy tuy có sự khác biệt về phân chia nhưng luận
cứ của Smith về lượng lao động dùng làm thước đo giá trị hàng hoá vẫn
không thay đổi, sự trao đổi công bằng giữa lao động và tư bản vẫn được
duy trì; logic trước sau vẫn nhất quán : công nhân không còn là chủ tư
liệu nữa nên phải san sẻ kết quả lao động của mình cho người chủ
mới của nó, coi như sự trả công cho cuộc đầu tư có thể gặp bất trắc.
Cũng chính vì vậy mà lý luận giá trị- lao động vẫn còn nguyên: lợi nhuận
tư bản nhận được từ công nhân vẫn là cái giá của sự nhọc nhằn mà người
lao động đã bỏ ra và do đó vẫn được xem như một thứ gíá trị dự trữ để
chủ tư bản có thể đặt mua bất cứ hàng hoá nào, cũng như chi
phối, điều khiển lao động đang tồn tại trên thị trường. Quan trọng
hơn: để tích luỹ vốn, cải tiến tư liệu, mở rộng sản xuất. Vì thế sẽ
hoàn toàn thuận lý khi theo quan điểm của mình, Smith căn cứ vào đó nói
về “Các cấu phần hợp thành giá cả của hàng hoá” trong chương VI của
tác
phẩm của ông như sau:
“Giá
trị thực của tất cả mọi bộ phận cấu thành của giá cả, quan sát cho thấy,
được đo lường bằng lượng lao động mà những thành phần ấy có thể mua hay
chỉ huy. Lao động đo lường giá trị không phải chỉ cái phần giá cả
chuyển cho lao động, mà còn cho phần địa tô, và cho cả phần lợi nhuận
nữa”. ” (Smith, Ch. VI, BTV: tr. 111).
Khái niệm lao động đặt mua, lao động chỉ huy (commanded labor) ở
đây vẫn nhất quán với khái niệm lao động bao hàm, lao động hiện thân
(embodied labor) chứa đựng trong sản phẩm, hợp thành các nhịp vận hành
tất yếu của quá trình tạo ra của cải biểu hiện trong quỹ vốn của một
dân tộc như Smith đã nói từ đầu: phần do lao động tạo ra cộng với
phần lao động đặt mua của người khác. Và cũng từ nguyên tắc cấu
tạo giá trị sản phẩm và sản xuất nói chung đó, theo logic của Smith,
lợi nhuận tư bản nhận được từ sự chia sẻ của lao động vẫn được coi như
là giá trị thu nhập được từ tư bản, cũng giống như tiền công là thu
nhập của lao động, tất cả có thể cùng với địa tô hợp thành những yếu
tố sản xuất trong điều kiện xuất hiện quyền tư hữu về tư liệu sản
xuất. Sự khác biệt giữa lao động nói chung và tiền
công của lao động cụ thể trong trường hợp này cũng là tất
yếu: khái niệm lao động xét như phần thưởng, do toàn bộ
sản phẩm mang lại bây giờ không còn đồng nhất với khái niệm lao động
xét như tiền công trong quy trình sản xuất có tư bản (và địa
tô), nhưng cả hai vẫn nằm trong phạm trù giá trị của hàng hoá dùng lượng
lao động làm thước đo, sự khác nhau chỉ là những hình thức cấu
tạo và phân bố trong những điều kiện khác nhau.
Vấn đề rốt ráo trong sự trình bày của Smith vì vậy không phải là từ bỏ
lý luận lao động về giá trị mà là sự khẳng định tác động có tính chất
lịch sử của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đến quy trình sản
xuất mới trong đó vai trò của người chủ lao động đã chuyển thành vai
trò
của người làm thuê cho chủ tư bản. Chính sự tồn tại thực tế của từng
lớp tư hữu mới này đã trở thành tiền đề trên đó tồn tại toàn bộ cơ cấu
sản xuất hiện đại. Smith coi những định chế phân chia giai cấp ấy là
đương nhiên, cho nên sự phân chia thu nhập theo kiểu lợi nhuận và
tiền công cũng mang ý nghĩa đương nhiên, không cần xem xét gốc gác của
nó. Hơn nữa với Smith, sự phân chia đó lại chỉ là sự nhân nhượng hợp lý:
nó biểu hiện tinh thần hợp tác giữa lao động và tư bản trong việc tạo
ra sự giàu sang cho xã hội. Vấn đề giá trị thặng dư – về sau này
được Marx đưa lên thành chủ đề số 1 trong học thuyết của mình – cũng
đã được Smith đặt ra với một nguồn gốc khá minh bạch: ngoài tiền công
được thuê mướn, công nhân đã phải tạo ra thêm giá trị lao động để chia
cho chủ tư bản với tư cách là lợi nhuận của công cụ sản xuất. Nhưng với
Smith thì điều đó cũng là chuyện đương nhiên trong một định chế tư hữu
về tư liệu sản xuất được bảo vệ một cách tự nhiên về mặt pháp lý
theo lý luận của John Locke, giả định được đặt trên nguyên lý ngang giá
của nền kinh tế trao đổi phổ biến.
2
Sự
phê phán của David Ricardo
Lý
luận giá trị của Adam Smith 41 năm sau đã được David Ricardo, trong cuốn
On the Principles of Political Economy and Taxation
(1817), [ bản tiếng Việt: Nguyễn Đức Thành &Nguyễn Hoàng Long: Những
nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khoá, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002] thừa kế có kèm theo những phê phán điều chỉnh.
Sau khi cho rằng Smith đã “định nghĩa thật đúng đắn nguồn gốc ban
đầu của giá trị trao đổi, và buộc phải giữ trước sau như một, rằng mọi
vật sẽ trở nên có giá hay ít giá trị hơn phụ thuộc vào lượng lao động
dành cho sự sản xuất ra chúng tăng lên hay giảm đi”(Ricardo, Ch.
1, Tiết 1, BTV: tr. 70, có sửa ), Ricardo đã trách Smith không nhất
quán với mình khi “dựng nên” hàng loạt những tiêu chuẩn khác về đo
lường giá trị sản phẩm, như một số hàng hoá khác, ngũ cốc, vàng bạc
v.v… vốn là những thứ rất hay thay đổi. Chắc hẳn là Ricardo đã dựa vào
câu sau đây của Smith để phê phán:
“Dù lao động là thước đo thực sự của giá trị trao đổi
của mọi hàng hoá, nhưng giá trị của hàng hoá lại thường không được đánh
giá bằng lao
động”.
(Smith, Ch V, BTV: tr. 86)
Tuy vậy khi theo dõi sự phát triển của câu chủ đề này của Smith, chúng
ta thấy đây chỉ là sự than phiền của ông về sự không phù hợp hoàn
toàn giữa nguyên lý với những gì diễn ra trong thực tế. Những thứ
tiêu chuẩn mà Ricardo cho rằng Smith đã “dựng nên” chỉ là những dẫn
chứng cho sự than phiền đó, và điều này đã được Smith giải thích bằng sự
“trừu tượng” của khái niệm (ở đây là lượng lao động dùng làm thước đo),
khái niệm này theo Smith, mặc dù có thể làm cho hiểu được nhưng lại
“không phải là một điều tự nhiên và rõ ràng” (Smith, Ch.V, tr. 87).
Cách lý giải này chắc hẳn không thoả đáng trước sự phê phán vì vẫn không
làm rõ được tại sao có sự sai biệt giữa cái “trừu tượng” của nguyên lý
với những cái cụ thể của thực tế. Nhưng dù vậy những phê phán của
Ricardo vẫn chưa đủ sức nặng phá vỡ hoàn toàn cái mạch logic của Smith:
sau khi than phiền về sự không phù hợp giữa nguyên lý và thực tế, cuối
cùng Smith vẫn quay về nhắc lại nguyên lý đã nêu ra và bảo vệ nó đến
cùng :
“Vào bất kỳ thời nào và nơi nào, cái đắt thì khó đạt tới, hoặc phải
trả nhiều lao động để có được; và cái rẻ thì có được dễ dàng, hoặc với
rất ít lao động. Vì vậy, chỉ có lao động, do không bao giờ thay đổi giá
trị riêng của nó, mới là chuẩn mực duy nhất và tối hậu căn cứ vào đó
đánh giá và so sánh giá trị của mọi hàng hoá vào bất cứ nơi nào và thời
nào. Lao động chính là giá cả thực sự của hàng hoá; tiền đơn thuần chỉ
là giá cả danh nghĩa” (Smith, Ch. V, BTV: tr. 89, có sửa).
Sự
phê phán quan trọng hơn của Ricardo với Smith xoay quanh vấn đề mà chúng
ta có nhắc qua, thường được những nhà nghiên cứu nêu ra để thảo luận: đó
là vấn đề lao động hiện thân, lao động bao hàm (embodied labor)
và lao động đặt mua, lao động chỉ huy (commanded labor). Ricardo
cho rằng khi một lượt thừa nhận hai quan niệm lao động trên đây, Smith
đã không giữ được sự nhất quán cho lý luận lao động về giá trị:
“Khi thì ông ta coi ngũ cốc, lúc khác lao động, là thước đo tiêu chuẩn;
không phải là lượng lao động dành cho việc sản xuất bất cứ một vật phẩm
nào mà là lượng lao động có thể đặt mua trên thị trường; như thể đó là
hai biểu hiện tương tự và cũng như thể nếu lao động của một người có thể
trở nên hiệu quả gấp đôi nên anh ta có thể sản xuất gấp đôi số lượng của
một hàng hoá, do đó tất yếu khi đem đi trao đổi anh ta có thể nhận được
gấp đôi số lượng lao động hàm chứa trong hàng hoá đã được sản xuất trước
đó.
Nếu điều này là đúng thực sự, nếu phần thưởng cho người lao động luôn
tương ứng với những gì anh ta đã sản xuất thì lượng lao động dành cho
(hàm chứa trong) một hàng hoá và lượng lao động mà hàng hoá ấy mua được
sẽ bằng nhau và cũng là thước đo chính xác cho những thay đổi của các
hàng hoá khác. Nhưng những đại lượng ấy không bằng nhau…”
(Ricardo , Ch. 1, Tiết 1, BTV: tr. 70-71, có sửa).
Qua đoạn trình bày trên, ta thấy Ricardo muốn giữ cho sự nhất quán của
lý luận giá trị lao động bằng cách cho rằng chỉ nên duy trì khái niệm đã
được Smith nêu ra mà Ricardo tán thành – đó là thứ lao động đã được kết
tinh trong hàng hoá để đem trao đổi với một hàng hoá chứa đựng lượng lao
động tương đương trên thị trường. Ricardo cho đó mới là nội dung đích
thực của khái niệm giá trị trao đổi. Đọc thêm những gì Ricardo dẫn giải
về sau chúng ta nhận thấy rõ hơn nội dung ấy: giá trị của hàng hoá
đem trao đổi = tư bản + tiền công lao động, trong đó tư bản qua cái
logic của Ricardo chủ yếu là loại lao động đã vật hoá thành “lao động
quá khứ” của Petty (sau được Smith gọi là tư bản cố định). Như vậy tính
luôn vật liệu và những chi phí linh tinh thì giá trị lao động chứa
đựng trong sản phẩm sẽ bằng (=) lao động quá khứ cộng (+) vật tư cộng
(+) lao động hiện tại (lương trả cho công nhân quy ra lượng lao
động tương đương) để tạo thành chi phí lao động của hàng hoá.
Hiển nhiên dựa vào giá trị của hàng hoá đã được tạo nên bằng các yếu tố
đó (trừ đi khấu hao công cụ và vật tư), đi đặt mua một lượng lao động
tồn tại thực sự trên thị trường thì lượng lao động này không thể tìm
thấy ở đâu ngoài lượng lao động do những người công nhân cung cấp, mà
như vậy thì cũng hiển nhiên là lượng lao động đó chỉ là một bộ phận
cấu thành chi phí sản xuất ra sản phẩm, giá cả không bao giờ ổn định vì
tuỳ thuộc rất nhiều yếu tố thay đổi thực tế. Một thành phần thì không
thể tương đương với một toàn thể. Một yếu tố hay thay đổi thì không thể
tạo ra thước đo có một chuẩn mực ổn định. Cũng chính vì vậy nếu duy trì
khái niệm lao động đặt mua của Smith sẽ không giữ được sự thuần
nhất cho lý luận, không giữ được tính chất bất biến của lượng lao động
được xem như thước đo sự thay đổi của các hàng hoá, hơn nữa lại làm lẫn
lộn giữa các khái niệm lao động hiện hữu trong những tình thế khác nhau:
một bên là lao động-thước đo bao hàm trong sản phẩm đem trao đổi
và một bên là lao động-tiền công chi phí cho việc thuê mướn lao
động để hoàn tất sản phẩm ấy.
Chúng ta sẽ nói đến hậu quả của lập luận đó của Ricardo trong việc hình
thành một quan niệm mới cho lý luận giá trị-lao động của trường cổ điển,
nhưng bây giờ xét xem sự phê phán của Ricardo với Smith trong vấn đề
này, chúng ta thấy không hoàn toàn xác đáng. Smith không hề lẫn lộn giữa
lượng lao động tạo ra chi phí cho sản phẩm với lượng lao động mà công
nhân được hưởng trong thực tế vì ông đã nói rõ rằng lượng lao động mà
công nhân hưởng được trong điều kiện đã xuất hiện chủ tư bản là bằng (=
) giá trị cấu thành sản phẩm trừ đi (–) lượng lao động mà công nhân phải
bị khấu trừ để chia cho lợi nhuận của tư bản. Smith cũng lưu ý đế tính
chất bất ổn của tiền công lao động trong thực tế, xét từ quan điểm của
người đi thuê lao động:
“Mặc dù đối với người lao động, các lượng lao động bằng nhau luôn luôn
có giá trị bằng nhau, song với đối với người thuê lao động thì các lượng
lao động này hình như khi thì có giá trị lớn hơn khi thì nhỏ hơn. Người
thuê lao động khi thuê bằng một số lượng hàng hoá nhiều hơn khi thì ít
hơn , và đối với người này giá lao động hình như cũng thay đổi như giá
của tất cả các thứ khác”
[Smith, Ch. V, BTV: tr. 90-91].
Cơ
sở của sự thay đổi, Smith cho rằng khi xuất hiện trên thị trường, là do
lao động cũng là một hàng hoá như bao hàng hoá khác, vì thế nó cũng vừa
mang hình thức giá thực và giá danh nghĩa. Hiển nhiên với tiền công
được thuê mướn theo giá trên thị trường như vậy thì người công nhân
không thể đặt mua được một cái gì đó vượt khỏi giá trị thực của nó, ở đó
cái tổng số lao động mà anh ta làm ra đã bị khấu trừ một phần để chia
cho chủ tư bản. Như chúng đã biết, Smith không hề lẫn lộn giữa chi phí
lao động dành cho việc tạo ra sản phẩm với tiền công lao động thuê mướn
để tạo ra sản phẩm đó. Và cũng thật là không thoả đáng khi muốn loại trừ
khái niệm lao động đặt mua, lao động chỉ huy khỏi cái hệ phương pháp của
Smith: chính khái niệm này đã dẫn tới sự phân biệt triệt để giữa khả
năng đặt mua của người công nhân với khả năng đặt mua của người chủ tư
bản. Với công nhân nếu đó là cái giá trả cho “sự nhọc nhằn, phiền toái”
chỉ đủ để công nhân, với tư cách là một giai cấp, “tồn tại và duy trì
nòi giống mà không gây nên bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào”
(Ricardo, Ch. V, BTV tr. 137) thì với chủ tư bản đó lại là cái khả năng
tích luỹ của cải do người khác chia cho, không cần phải lao động, nhưng
lại có thể nhân lên, qua đó thu hút ngày càng nhiều giá trị thặng dư của
những người sản xuất trực tiếp, để mở rộng “quyền lực” cho tư bản bành
trướng sức mạnh của nó đối với toàn xã hội.
Người ta có thể cho rằng sự suy luận trên đây là của K. Marx, nhưng
không phải: đó chính là cái logic của Smith về lao động chỉ huy với cái
hậu quả tất yếu của nó về hai phương diện liên hệ đến sự tích luỹ của tư
bản và nguồn gốc giá trị thặng dư trong quá trình hình thành nên sự tích
luỹ đó. Phủ nhận khái niệm lao động đặt mua và chỉ muốn duy trì khái
niệm lao động bao hàm khi phê phán Smith, Ricardo chỉ căn cứ vào thực
tế để chứng minh tính chất không còn tồn tại cái logic về lao động mà
Smith giả định: công nhân không còn có thể một mình tạo ra toàn bộ giá
trị sản phẩm rồi đem một phần chia sẻ cho tư bản, mà ngay từ đầu lao
động của công nhân đã bị quy định một cách cụ thể trong quy trình sản
xuất hàng hoá, với tư cách là giá trị của lao động được thuê mướn
để tạo ra hàng hoá đó, dưới danh nghĩa cụ thể là tiền công. Sự
tranh cãi tưởng chừng như xoay quanh chữ nghĩa ấy với Ricardo thật sự là
rất quan trọng: căn cứ vào tình thế mới của sản xuất, Ricardo đã muốn
đưa lý luận giá trị-lao động sang một viễn cảnh mới so với khởi nguyên
của nó: lao động trực tiếp từ nay trở đi không còn là nguồn gốc
tạo ra của cải nữa, nó phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản, hơn nữa là một
thành phần của phương thức sản xuất đặt nền trên tư bản, cho nên trong
tình huống đó khái niệm lao động nói chung chỉ còn giữ vai trò thước đo
của sản phẩm do tư bản tạo ra. Đoạn dẫn sau đây có thể tóm tắt toàn bộ
lý luận của Ricardo về mối quan hệ của hai hình thái lao động kết hợp
thành lượng lao động tổng thể tạo ra giá trị hàng hoá:
“Tất cả các công cụ cần thiết để săn hải ly và nai có thể thuộc về một
giai cấp và lao động được sử dụng cho việc săn bắt được một giai cấp
khác cung cấp; dù vậy
giá cả so sánh của chúng [của công cụ và lao động] sẽ phụ
thuộc vào mối tương quan giữa lượng lao động thực tế dành ra
để làm nên dụng cụ săn bắn và lượng lao động thực hiện việc đi
săn bắn. Tuỳ theo các tình trạng dư thừa hay khan hiếm khác nhau của
tư bản so với lao động, tuỳ theo sự phong phú hay hiếm hoi của thức ăn
và các nhu yếu phẩm cần thiết nuôi sống con người, những kẻ cung cấp
cùng một giá trị tư bản cho một công việc này hay một công
việc khác sẽ nhận được một nửa, một phần tư hay một phần tám số sản phẩm
đạt được, số còn lại sẽ được trả dưới dạng tiền công cho những
người đã cung cấp lao động; tuy vậy sự phân chia này không ảnh
hưởng đến giá trị tương đối của các hàng hoá đó [của tư bản và tiền
công lao động], vì dù cho lợi nhuận của tư bản có nhiều hay ít, dù
cho chúng có là 50, 20 hay 10%, hoặc dù cho tiền công của lao động có
thấp hay cao thì chúng đều tác động giống nhau vào hai công việc khác
nhau” (Ricardo, Ch. 1, tiết 3, BTV: tr. 81, có sửa).
Trong đoạn văn này, Ricardo khi thì dùng mấy chữ “giá cả so sánh” (their
comparative prices)
khi thì dùng mấy chữ “giá trị tương đối” (the
relative value of these commodities)
nhưng tất cả đều để nói về hai loại lượng lao động khác nhau kết hợp
lại thành giá trị của sản phẩm được đem ra trao đổi trên thị trường:
lượng lao động dành cho việc tạo ra công cụ làm phương tiện sản xuất sản
phẩm và lượng lao động bỏ ra trực tiếp để sản xuất sản phẩm ấy – sự kết
hợp giữa hai lượng lao động này nếu được diễn tả như là bài toán cộng
của lao động quá khứ với lao động sống hoặc của tư bản
với tiền công thì nội dung cũng hoàn toàn như nhau. Vấn đề cần
làm rõ ở đây là mối tương quan của hai hình thái lao động tạo nên giá
trị tổng thể cho sản phẩm: để giải quyết, Ricardo đã giả định trường hợp
một lượng tư bản nhất định nào đó được đầu tư thuê mướn lao động thực
hiện hai công việc khác nhau và cho rằng dù tỷ phần phân chia giữa lợi
nhuận cho tư bản và tiền công cho lao động trong hai trường hợp khác
nhau ấy có sai biệt nhau như thế nào thì chúng vẫn chỉ giằng co với nhau
trong phạm vi tổng giá trị không thay đổi của sản phẩm đã được tạo ra
như trên. Với lập luận này, rõ rệt vấn đề lao động với tư cách là
thước đo giá trị đã được đưa lên hàng chính diện như một tiêu chuẩn
bất biến để trao đổi hàng hoá, trong khi đó vấn đề nguồn gốc lao động
tạo ra giá trị tổng thể cho sản phẩm cùng với vấn đề nguồn gốc giá trị
thặng dư tạo ra lợi nhuận cho tư bản mà Smith đã gợi ra đã bị bỏ qua
hoàn toàn. Nội dung khái niêm lao động-thước đo từ đây trở đi
trong lý luận của Ricardo cũng hoàn toàn được phân biệt rạch ròi với
khái niệm lao động-tiền công (cũng thường được các nhà lý luận
gọi là giá trị của lao động) – tuy vậy, sự phân biệt này không có
tác dụng nào khác là tạo ra sự phụ thuộc của lao động vào tư bản khi
chúng ta biết rằng trong phương thức sản xuất đặt trên tư bản, lao
động-tiền công dù có thuộc về người lao động, thì đó cũng chỉ là thứ
tư bản ứng trước không khác gì các thứ công cụ và vật tư được tư bản
ứng trước để sản xuất.
Như vậy, trong lý luận lao động của Ricardo về giá trị, vai trò của tư
bản, ngược với Smith, đã trở thành chủ thể của toàn bộ quy trình
sản xuất. Tư bản đã được Ricardo định nghĩa đúng như vậy khi ông viết:
“Tư bản là
phần của cải của một quốc gia được sử dụng trong sản xuất, bao gồm lương
thực, thực phẩm, quần áo, công cụ, nguyên liệu thô, máy móc v.v… cần
thiết để tạo điều kiện cho người lao động làm việc”
(Ricardo, Ch 5, BTV: tr. 139). Định nghĩa đó phải được lĩnh hội là tư
bản đã tạo điều kiện để lao động hoạt động, đúng hơn cũng phải hiểu
thêm rằng trong điều kiện đó, lao động cũng chính là cái nguồn vốn do tư
bản đầu tư để thực hiện quy trình sản xuất theo sự chỉ huy của nó.
Ricardo đã giải thích rõ điều đó khi đề cập nguyên nhân quyết định sự
tăng/giảm giá trị hàng hoá được sản xuất đem ra trao đổi: lao động tiền
công bây giờ không còn giữ vai trò quan trọng để tạo ra sự thay đổi giá
trị của sản phẩm như trong quan niệm của những người theo Smith nữa mà
ngược lại chính sự tăng/ giảm của tư bản trong việc đầu tư mới tạo ra sự
thay đổi đó (Ricardo, Ch. 1, tiết 3, BTV tr. 75).
Việc sử dụng lao động để tăng năng suất cũng được đặt ra trên cơ sở thay
đổi hiệu năng sản xuất cho tư bản cố định mà bí quyết không thể
tìm thấy ở đâu ngoài việc làm giảm lượng lao động cần thiết (chủ
yếu nhờ máy móc) để sản xuất ra hàng hoá, từ đó làm cho hàng hoá được
sản xuất nhiều hơn, giá rẻ hơn. Nói tóm lại, sự góp phần của lao động
trực tiếp trong quy trình sản xuất này do đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào tư
bản: lao động không còn là chủ thể, là nhân tố tạo ra giá trị của sản
phẩm như trong lý luận của Smith mà đã bị cuốn hút hoàn toàn vào guồng
máy tư bản. Đây chính là điều rất mới mà Ricardo đã đưa vào lý luận lao
động về giá trị, đặc biệt tập trung làm rõ vai trò của tư bản cố định
đối với quy trình sản xuất:
“Mọi tiến bộ máy móc, công cụ, nhà xưởng, nâng cao nguyên liệu, đều
tiết kiệm lao động, cho phép chúng ta sản xuất ra hàng hoá áp dụng được
dễ dàng hơn những cải tiến, và kết quả là giá trị của nó thay đổi .
Như vậy, khi đánh giá nguyên nhân của những biến đổi giá trị của hàng
hoá, dù cho sẽ sai lầm hoàn toàn khi bỏ qua tác động của sự tăng hay
giảm do lao động gây ra, nhưng cũng sẽ không đúng khi coi tác động
ấy quá quan trọng. (Ricardo, Ch.1, tiết 4, BTV: tr 94, có sửa).
Vấn đề phân phối lợi nhuận của tư bản và tiền công lao động đã được
giải quyết trên cơ sở không thay đổi của giá trị tương đối của sản phẩm
theo nội dung của các luận cứ nói trên. “Toàn bộ giá trị của hàng hoá
chỉ được chia thành hai thành phần: một phần tạo nên lợi nhuận của vốn,
phần còn lại dùng để trả tiền công của lao động” (Ricardo, Ch. VI,
tr. 157). Nói cách khác, tư bản và lao động sẽ chia nhau giá trị sản
phẩm làm ra theo một tỷ phần tương đối giữa hai bên: “lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiền công trả thấp hay cao”
(tr. 84). Sự khác nhau giữa Ricardo với Smith về mối quan hệ giữa lao
động với tư bản cũng rõ rệt: lợi nhuận tư bản không còn là sự san sẻ tự
nguyện đến từ phía người lao động trực tiếp nữa mà lại tuỳ thuộc hoàn
toàn vào mức độ căng kéo giữa lợi nhuận với tiền công.
3
Mấy ý kiến của Marx
Trong số rất đông các tác giả mà Marx đề cập, Adam Smith và Ricardo
được ông quan tâm rất kỹ vì cho rằng đây là những tác giả tiêu biểu của
trường phái kinh tế cổ điển, có nhiều đóng góp tích cực mang ý nghĩa
khoa học cho công cuộc nghiên cứu khoa kinh tế chính trị, khác hẳn
với một số tác giả mà ông cho là “phản động tầm thường” hoặc
sùng bái “nịnh bợ một cách hèn hạ”. Trong Grundrisse
(1857-58) rồi sau đó là Theories of Surplus-Value (1861-1863),
Marx đã để rất nhiều trang và nhiều chương đi khá sâu vào hai tác giả
này.
Marx cho rằng khái niệm lao động được Smith sử dụng như tiền đề quan
trọng cho lý luận giá trị-lao động, tuy bắt nguồn từ chủ nghĩa trọng
nông, nhưng đã được nâng lên thành một thuộc tính trừu tượng, khái
quát, cần thiết cho việc đánh giá, quan niệm và đo đạc trình độ phát
triển mới của sản xuất. Tuy vậy về một mặt khác, Marx cũng cho rằng
trong khi cố ý gạt sang bên giá trị sử dụng chỉ để tập trung nói
đến giá trị trao đổi thì Smith lại mặc nhiên trình bày lao động
như một sức mạnh xã hội tự nhiên, mang ý nghĩa một bản thể
(substance) có nội dung như một giá trị sử dụng, mà không đi
sâu vào phân biệt cho được những hình thái và những tính chất đặc
trưng của lao động trong các phương thức sản xuất riêng rẽ, đặc
biệt tính chất đặc trưng về giá trị trao đổi mà nó hàm chứa trong
trong xã hội tư sản.
Đối với việc này, Marx đã bày tỏ nhiều lần sự đồng ý với Ricardo, phê
phán sự “lẫn lộn” [tính từ này thật ra không hoàn toàn thoả đáng
như đã trình bày bên trên] của Smith giữa lao động thước đo, lao
động bao hàm (đại lượng lao động cần thiết để tạo ra hàng hoá) với
giá trị của lao động được thuê mướn làm ra hàng hoá đó (tức tiền
công của lao động), để chỉ ra nhiều luận điểm thiếu nhất quán của Smith
trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản. Rất đáng quan tâm là khi
nhắc đến cái khả năng của những người đã tích tụ được giá trị để đặt
mua, chỉ huy các hình thái lao động, hoặc lao động sống hoặc
lao động vật hoá, Marx cho rằng Smith cũng đã “lẫn lộn” [tính từ
cũng không hoàn toàn thoả đáng] thêm giữa hai khái niệm này
(trong ngôn ngữ của Smith là “lao động” và “sản phẩm của lao động”),
chung quy lại cho rằng Smith đã không hiểu hết tính chất của lao động
trong xã hội tư sản, với tư cách là lao động làm thuê khi sản
xuất ra sản phẩm mang danh hàng hoá để những chủ tư bản đem đi
trao đổi trên thị trường.
“…
tư bản, với ông ta, – vì, dù ông ta có định nghĩa lao động như sản xuất
ra giá trị, ông quan niệm đó như là
giá trị sử dụng, như sự sản xuất-vì nó, như là sức mạnh tự
nhiên của con người nói chung (điều này làm cho ông ta khác với những
nhà trọng nông), nhưng không phải là lao động tiền công, lao
động làm thuê (wage labour/salariat), không phải trong tính chất
riêng biệt của nó như hình thức đối lập với tư bản – không phải là
cái chứa đựng tiền lương lao động như sự mâu thuẫn nội tại từ nguồn gốc,
nhưng là trong hình thức phát sinh từ lưu thông, với tư cách là tiền, và
như vậy tạo ra ở bên ngoài lưu thông, với tư cách là sự tiết kiệm.
Tư bản như thế từ nguồn gốc không tự thực hiện [làm tăng] giá trị –
vì sự chiếm hữu lao động của người khác không bao hàm trong khái niệm
của nó. Tư bản chỉ xuất hiện
sau đó, sau khi đã được giả định trước như tư bản – một vòng
lẩn quẩn – với tư cách là chỉ huy đối với lao động của người khác”
(Grundrisse BTA, Notebook III, Chapter on Capital;
Fondements Vol I, tr.278-279).
Tính chất phản logic của Smith trong lý luận về “các yếu tố sản xuất”
đã được phân tích theo hướng trên. Theo Marx, Smith đã đúng khi cho rằng
giá trị trao đổi của hàng hoá bao gồm một số đại lượng lao động nhất
định. Giá trị của đại lượng lao động nằm trong giá trị trao đổi đó, sau
khi trừ đi vật liệu, khấu hao máy móc… thì sẽ dành một phần trả cho lao
động-tiền công của công nhân, một phần khác chi cho tư bản với tư cách
là lợi nhuận (sẽ phân ra thêm thành địa tô và lợi tức). Nhưng khi đã
xác định như vậy rồi, đáng lẽ một cách thuận lý, phải coi đại lượng giá
trị lao động còn lại trong tổng giá trị trao đổi nói trên là nguồn gốc
phân giải thành tiền công, địa tô, lợi nhuận thì Smith lại biến tiền
công, địa tô và lợi nhuận thành những thứ giá trị riêng biệt, độc lập,
sau đó đem cộng tất cả lại để tạo thành giá trị trao đổi của hàng hoá và
từ đó cũng coi ba thực thể độc lập đó là ba nguồn gốc ban đầu
của mọi giá trị, có thể phân bổ thành các nguồn thu nhập khác
nhau dẫn xuất từ đó. Marx cho rằng làm như vậy Smith đã lộn ngược lại
cái tiền đề ban đầu do ông đặt ra: thay vì coi giá trị là nguồn gốc của
tiền công, lợi nhuận và địa tô thì tiền công, lợi nhuận, địa tô lại trở
thành nguồn gốc tạo ra giá trị.
Tuy thế điều chúng ta cần ghi nhận trong biện luận của Marx về giá trị
trao đổi của hàng hoá ở đây là ông đã cố gắng bảo vệ cho được tiền đề
của Smith về lao động tạo ra giá trị hàng hoá và tất cả giá trị này đều
do công nhân làm ra, qua đó cũng bảo vệ ý kiến ban đầu của Smith giải
thích rằng trong phương thức sản xuất đặt trên tư bản, thành quả lao
động ấy công nhân không hưởng một mình mà phải san sẻ cho chủ tư bản.
Chính cái đại lượng giá trị không công này được Marx ghi nhận
đặc biệt để giải thích sự vận hành nội tại của phương thức sản
xuất dựa trên tư bản: đó mới chính là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận, địa
tô và theo quan niệm này thì lợi nhuận và địa tô chính là giá trị
thặng dư không công do công nhân làm ra chia cho nhà tư bản và chủ
đất. Phương pháp nhận thức của Smith gồm hai cách trình bày không nhất
quán đã được Marx nêu ra:
“… trong đó một cách thì đi sâu vào mối liên hệ nội tại của hệ thống tư
sản, có thể nói là đi sâu vào hiện tượng sinh lý của nó, còn một cách
thì chỉ mô tả, phân loại, kể lại và đem những cái thể hiện ra bên ngoài
trong quá trình của cuộc sống, dưới cái hình thái mà nó đã thể hiện ra
và bộc lộ ra bên ngoài, xếp thành những định nghĩa công thức hoá của các
khái niệm, – cả hai cách nhận thức ấy ở Smith không những cùng chung
sống với nhau một cách rất yên tĩnh, mà lại còn quyện chặt với nhau và
thường xuyên mâu thuẫn với nhau” (Theoríes of Surplus-Value,
Ch. X & Bản tiếng Việt).
Những khái niệm giá trị tự nhiên, chi phí sản xuất, giá
trị thị trường mà Smith sử dụng trong phân tích và trình bày đã
được Marx đưa ra để dẫn chứng với những vấn nạn tương tự. Nếu căn cứ
cái yếu tính nội tại của tư bản để cho rằng lợi nhuận và địa tô là do
giá trị lao động thặng dư của công nhân tạo ra thì, cũng như trong biện
luận về “các yếu tố sản xuất”, Smith đã biến lợi nhuận, địa tô thành
những giá trị biệt lập rồi đem cộng với tiền công để làm nên giá trị
hàng hoá và gọi đó là giá trị tự nhiên. Marx cho rằng, ở
đây Smith cũng vấp lại khuyết điểm không thống nhất được yếu tính bên
trong của giá trị với biểu hiện bên ngoài của nó: cái gọi là giá trị
tự nhiên đó thật sự không phải cái gì khác hơn là giá cả chi phí,
kết quả của sự cạnh tranh thị trường, thứ giá trị biểu hiện trên thị
trường này không thể đồng nhất hoá với giá trị của hàng hoá xuất
phát từ nguyên lý lao động tạo ra giá trị do chính Smith đề xuất từ đầu.
(Theoríes of Surplus-Value, Ch. X). Để hiểu được sự phê phán này
của Marx đối với Smith cần nhớ lại rằng điều mà Marx đánh giá cao nhất ở
Smith và cũng dựa vào đó để phê phán những bất nhất của chính Smith là
luận điểm của ông ta về nguồn gốc lao động của giá trị hàng hoá
và cũng là nguồn gốc lao động thặng dư của lợi nhuận và
địa tô.
Đó là về Smith. Còn về Ricardo, khi so sánh với
Smith về vấn đề đang bàn luận, Marx cho rằng lý luận của Smith tỏ
ra kém hẳn Ricardo về tính chất thực tế do lẽ vào thời kỳ của Ricardo
mối quan hệ tư bản/lao động đã bộc lộ hết tính chất mâu thuẫn gay gắt
của nó. Giả định của Smith về cái tình thế ở đó người lao động có thể
tạo được toàn bộ giá trị cho sản phẩm rồi đem chia một phần cho tư bản
gọi là lợi nhuận, giả định ấy hoàn toàn không còn cơ sở thực tế nào
để thuyết minh nữa. Giá trị của lao động đã trở thành một hình
thái tư bản (Marx gọi là “tư bản khả biến”) do chủ tư bản đặt mua, mệnh
danh là
tiền công của lao động (ta có thể nói gọn là lao động-tiền công
để phân biệt với lao động-thước đo trong lý luận của Ricardo),
kết cấu như một bộ phận của tư bản ứng trước, hoàn toàn bị khống
chế bởi quyền lực sản xuất dựa trên tư bản. Vì thế tuy vẫn còn giữ
danh nghĩa “lao động” cho lý luận về giá trị, hơn nữa vẫn được tôn vinh
như thước đo trao đổi giữa các hàng hoá, nội dung khái niệm lao động
trong biện luận của Ricardo hoàn toàn chỉ có ý nghĩa hình thức, thụ
động.
Có
một số nhà nghiên cứu cho rằng khi dựa vào Ricardo để phê phán Smith và
sau đó phát triển lý thuyết của mình, Marx hầu như trở thành một
“môn đệ” của Ricardo. Điều này không đúng hoàn toàn vì Marx cho rằng
dù Ricardo phê phán Smith một cách xác đáng (thật sự không xác đáng
hoàn toàn), để sau đó đưa ra luận điểm “giá trị trao đổi của sản phẩm
là kết tinh của lượng lao động ”, Ricardo vẫn vấp phải hàng loạt
những mơ hồ, nhầm lẫn, mâu thuẫn trong biện luận. Việc Ricardo phê
phán Smith như trên, xét cho cùng, chỉ đơn giản là sự xác nhận
“ tình hình là như thế” chứ không đẩy được vấn đề đi xa hơn những biểu kiến của sự vật. Tuy
không nói gì đến giá trị thặng dư, nhưng trong công thức cấu thành
giá trị của sản phẩm (sau khi trừ vật liệu và linh tinh) = lợi
nhuận + tiền công thì cái gọi là “lợi nhuận” ở đây không có gì
khác hơn chính là giá trị thặng dư, và với nội dung đó thứ giá
trị thặng dư này đã bị đồng hoá một cách tự nhiên với lợi nhuận, như
vậy không thoả đáng vì lẽ, một cách chính danh, trong khi lợi
nhuận phải đặt để mối quan hệ của nó với toàn bộ tư bản ứng trước (m/
c+v ) [ m: giá trị thặng dư, c: tư bản, v:
tiền công) thì giá trị lao động thặng dư lại phải đặt để với
giá trị lao động cần thiết (m/v), phân tích một cách có
so sánh hai khái niệm này, m/c+ v (tỷ suất lợi nhuận) bao giờ cũng nhỏ hơn m/v (tỷ suất giá trị thặng dư):
m/c+v<m/v.
Như vậy xét về mặt này, theo Marx, Ricardo lại kém xa Smith: Ricardo
đã không quan tâm một chút gì đến cái thực tế nằm ngay trong những câu
chữ mà ông biện luận: đó là sự tồn tại của cái phạm trù lao động
không công mà tư bản chiếm hữu được của những người lao động
trực tiếp (Marx gọi là “lao động của người khác”), sự tồn tại
này Smith đã nhận ra, tuy không lý giải được một cách đến nơi đế chốn,
trong khi đó Ricardo, một cách không tự giác, lại che giấu nó
dưới hình thức lợi nhuận, nghĩa là dưới tác động trực tiếp
của tư bản. Mà với Ricardo trong khi tư bản là "lao động đã được
tích lũy" không được minh định về nguồn gốc – đối diện với "lao
động trực tiếp" (lao động sống của công nhân) trong vận hành – và
được coi như là một cái gì chỉ có tính chất vật thể, “giản đơn chỉ là
một nhân tố trong quá trình lao động”, thì cũng chính vậy mà “từ
cái đó không thể nào rút ra được mối quan hệ giữa lao động và tư bản,
giữa tiền công và lợi nhuận”.
“Theo đúng toàn bộ tính chất của công trình nghiên cứu của mình, ông ta
chỉ hạn chế trong việc chứng minh rằng giá trị biến đổi của lao động –
nói tóm lại, là tiền công – không bác bỏ luận điểm cho rằng
giá trị các hàng hoá, khác với bản thân lao động, được quy định
bởi lượng lao động tương đối chứa đựng trong các hàng hoá đó. “Chúng
không bằng nhau”, cụ thể là “lượng lao động đã chi phí để làm ra một
hàng hoá nào đó, và lượng lao động mà người ta có thể mua được
với hàng hoá đó”. Ricardo tự thoả mãn với việc nêu sự kiện đó. Nhưng
hàng hoá - lao động khác với các hàng hoá khác như thế nào? Trong trường
hợp thứ nhất, đó là lao động sống, trong trường hợp thứ hai – là lao động đã vật thể hóa. Do vậy, đó chỉ là hai hình thái
khác nhau của lao động mà thôi. Nếu như sự khác nhau ở đây chỉ là hình
thức mà thôi thì tại sao một quy luật có hiệu lực đối với hình thái này
lại không có tác dụng đối với hình thái kia? Ricardo không giải đáp được
vấn đề đó, thậm chí cũng không đặt vấn đề đó nữa”(Theories of
Surplus-Value, Bản tiếng Việt, Chương XV, “Học thuyết Ricardo và giá
trị thặng dư”).
Từ những mâu thuẫn trên đây, Marx phê phán Ricardo về phương
pháp, cho rằng về mặt này, Ricardo không khác gì bao nhiêu với
Smith. Ông ta vẫn đứng trên bề mặt của các sự kiện để mô tả
sự vận động của chúng, không đi sâu được vào cái cốt tuỷ của
lao động trong phương thức sản xuất tư bản. Sự biện luận của
Ricardo vẫn nặng về trừu tượng. Tiên quyết ông ta đưa ra một thước
đo bằng lao động cho hàng hoá như là nguyên lý, sau đó đem ướm
với thực tế rồi căn cứ vào đó mà phán xét xem chúng có phù
hợp hay không. Coi giá trị là điểm khởi hành để đi tới nhưng
ông ta bằng lòng dừng lại ở mức độ của khái niệm, chứ không
nghiên cứu giá trị dưới cái hình thái cụ thể mà lao động mang lấy
với tính chất là thực thể của giá trị. Một mặt khác, ông ta cũng
chỉ chú tâm “nghiên cứu các đại lượng của giá trị, tức là những
lượng này hay lượng kia của thứ lao động trừu tượng chung đó, và dưới
hình thái đó, là những lượng này hay lượng kia của lao động xã hội, –
những lượng này quyết định sự khác nhau trong các đại lượng giá trị của
hàng hoá”. Cách thao tác khái niệm đó của Ricardo, theo
Marx, là cách biện luận trực tiếp, không đi qua những phác đồ
trung gian, vì thế trong rất nhiều trường hợp không giải thích
được tính chất phức tạp trong vận động của sự vật.
Mặc dù vậy, Marx vẫn coi cái tinh thần nghiên cứu khách quan
của Ricardo là mẫu mực, một tinh thần nghiên cứu khoa học như
vậy, dẫu có dẫn tới kết quả bất lợi cho bất cứ giai cấp xã
hội nào thì cũng là đương nhiên, tất yếu. Những ý kiến của
Ricardo về sự căng kéo trong việc phân chia giữa lợi nhuận và
tiền công, biểu lộ mâu thuẫn công khai giữa tư bản và lao động,
– “lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiền công trả thấp hay cao”, như ta đã biết – còn xu hướng giảm sút lợi
nhuận của tư bản bị quy về lý do địa chủ tăng tô, trong khi
được Marx coi là sự phát hiện được “bản thân cái gốc rễ của cuộc đấu
tranh lịch sử và quá trình phát triển lịch sử” thì lại bị một nhà
nghiên cứu người Mỹ tên Carey tố cáo là luận điệu của một tổ
sư … cộng sản, kẻ đi gieo rắc “bất hoà giữa các giai cấp và
các dân tộc”, cẩm nang của những tên mị dân tìm kiếm quyền lực
bằng chiến tranh, cải cách ruộng đất và tước đoạt ...! (Marx
dẫn trong
Theories of Surplus Value,
Ch. X ].
4
Một số điều chỉnh về lý luận
Trước khi đi sâu hơn vào những điều chỉnh này, cần khẳng định
điểm cốt yếu sau đây để tránh những tranh cãi vô ích: Marx không
hề khai sinh ra lý luận giá trị-lao động, ông chỉ thông qua sự
phê phán lý luận này để tiến hành sự phê phán đối với nền
kinh tế chính trị tư sản thời ông. Tất cả những khái niệm như
giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, tư bản cố định,
tư bản lưu động v.v… đều dẫn xuất từ lý luận nói trên. Ngay cả
khái niệm đặc trưng macxit là “giá trị thặng dư”, tuy không được
các tác giả cổ điển sử dụng minh bạch, cũng đã bao hàm trong
sự mô tả của Smith và cả của Ricardo. Tuy vậy để lĩnh hội vấn đề
trên tổng quát thiết nghĩ chúng ta cần quan tâm đến hai tiền
đề sau đây mà Marx tiếp nhận trong kinh tế cổ điển để đi sâu vào
yếu tính của phương thức sản xuất tư bản, qua đó thăm dò một số
khả năng chuyển hoá xuất phát từ chính bản thân cái phương thức
sản xuất đó. Hai tiền đề ấy là: 1) nhất quán trước sau phải xem
lao động là nguồn gốc giá trị tạo ra của cải xã hội, 2)
nguyên tắc ngang giá phải được tuân thủ triệt để làm cơ sở cho
việc trao đổi các loại hàng hoá khác nhau. Theo dõi sự phát triển
các tiền đề trên, chúng ta thấy Marx đã đưa kinh tế cổ điển vào một số
chiều hướng mới hoàn toàn và tất cả những luận cứ này đã được Marx trình
bày đầy đủ trong các bản thảo Grundrisse và Theories of
Surplus-Value.
Về câu trả lời có liên quan đến tính chất sản xuất hay
phi sản xuất của lao động Marx lấy lại hoàn toàn quan niệm
của những nhà kinh tế cổ điển mà qua sự trình bày của Smith được gọi là “lao động sản xuất” những sản phẩm
“làm tăng thêm giá trị cho các nguyên vật liệu mà họ sử dụng
để họ gia công chế biến lao động đó, lao động đó nuôi sống họ
và mang lại lợi nhuận cho người chủ thuê mướn họ. Trái lại lao
động của người đầy tớ không mang lại giá trị nào cả”
(Smith, Phần II, Ch. III, BTV: tr. 476).
Tiêu chuẩn mà Smith đưa ra để cho rằng sản phẩm nằm được trong
phạm trù “sản xuất” là nó có thể cất giữ lại để đổi lấy
một lượng tương đương với lượng lao động đã làm ra mặt hàng
đó. Trái lại lao động của người đầy tớ thường hoàn toàn biến
mất ngay khi công việc đã hoàn thành. Smith cho rằng công việc
của vua chúa , quân đội, thầy tu, bác sĩ, văn sĩ v.v…. không
thể liệt vào hạng lao động “đầy tớ” nhưng xét về kinh tế thì
vẫn thuộc loại “phi sản xuất”. Marx đã căn cứ vào tiêu chuẩn
ấy để xác định không có sự phân biệt giữa các loại lao động mà
người ta gọi là dịch vụ và sản xuất: nếu tác
dụng của những hành vi lao động ấy góp phần làm tăng giá
trị thặng dư cho tư bản thì chúng thuộc loại “sản xuất”,
còn nếu ngược lại thì không. Marx đưa ra thí dụ công việc của
người thợ may khi nhận vá áo cho chủ tư bản tại nhà riêng là
không giống về bản chất với công việc cũng của người thợ may đó khi
đi làm công nhân trong xưởng may cũng của người chủ tư bản đó.
Marx cũng dẫn thí dụ về một nhà văn trong trường hợp tự ấn hành tác phẩm
và trường hợp đưa tác phẩm cho một công ty tư bản xuất bản. Qua các thí
dụ này chúng ta có thể thể lĩnh hội được ý nghĩa về “tính sản xuất”
hay không của tình trạng nhiều hình thái sản xuất đan xen nhau
(phong kiến, thủ công, phường hội…) trong thời kỳ kinh tế tư bản đã
phát triển bao trùm lên toàn bộ xã hội mà tính chất quyết định ở đây là
mối quan hệ của chúng có trực tiếp phục vụ cho tư bản thực hiện giá trị
hay không chứ không phải là cái gi khác.
Tính chất xã hội, tổng thể của sản xuất trong kinh tế cổ
điển (Smith: “quỹ vốn cung cấp ban đầu cho một dân tộc”) cũng đã
được Marx phát triển nhất quán hơn. Cái quỹ vốn đó chính là
thành tích sản xuất của toàn thể một xã hội trong một tình
trạng chung về trình độ phát triển, diễn ra trong một giai đoạn
nào đó. Trong tình trạng ấy, tất cả mọi hình thái lao động cá
biệt, riêng rẽ, chất lượng khác nhau đều được hoà tan, trung
bình hoá thành một trạng thái đơn giản, đồng nhất, trừu tượng
nhưng có thể đo lường được qua một vật thể trung gian, đại
biểu [với Marx, đó chính là tiền, biểu hiện phổ quát
của giá trị lao động hàm chứa trong hàng hoá]. Cách đặt vấn
đề phổ quát mang ý nghĩa xã hội về của cải trên phạm vi quốc gia
như
vậy, rõ rệt đã trừu xuất mọi hiện tượng hiện thực nhưng
thuộc lĩnh vực tâm lý cá nhân riêng biệt, độc đáo, khan hiếm,
hoặc xuất phát từ những chọn lựa chủ quan về mặt giá trị
(như của trường phái cận biên). Trong kinh tế cổ điển cách đặt vấn
đề
này đã được Ricardo nêu ra và giải quyết rồi; ngày nay người ta có
thể nêu ra theo một chiều hướng khác để bổ sung hoặc thay thế về
nội
dung chứ không thể phủ nhận sự cần thiết của bản thân cách đặt vấn
đề
.
Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi trong hàng hoá mà Smith nêu ra cũng được Marx đẩy đến
tận cùng logic của nó. Trong lý luận của Smith, như chúng ta đã
biết, giá trị sử dụng biểu hiện cho tính chất cụ thể, có
ích của hàng hoá đối với người tiêu dùng. Marx gọi đó là cái
giá đỡ mang chở giá trị trao đổi, làm cho giá trị sử dụng ấy
mang ý nghĩa giá trị sử dụng cho người khác, cho rằng đây
là lĩnh vực thương phẩm học chưa được nhiều người quan tâm vào
thời ông. Tuy vậy trong quy trình thực hiện giá trị (làm tăng
giá trị tư bản), giá trị sử dụng đã bị gạt sang một bên, bị
đình chỉ, để cho giá trị trao đổi vượt lên, tự biến thành một
chủ thể độc lập, theo một lộ trình riêng biệt, thoát ly mọi
ràng buộc cụ thể của thực tế. Nhưng Marx cho rằng đó mới
chính là mục tiêu của phương thức sản xuất đặt nền trên tư
bản: phương thức sản xuất đó không bao giờ màng đến việc thực
hiện giá trị sử dụng, phục vụ nhu cầu tiêu thụ cụ thể của con
người mà chỉ hướng tới giá trị trao đổi như mục tiêu tối hậu
và duy nhất, coi đó như lẽ sống của bản thân, xa rời là mất lý
do tồn tại. Nói rằng mục đích sản xuất của tư bản chỉ vì
tiền thì dễ hiểu hơn nhưng vẫn hoàn toàn phù hợp với lý luận
về tiền của Marx. Nguồn gốc nguyên sơ của tiền là phương tiện trao
đổi và cũng là đại biểu của giá trị trao đổi, nhưng trong sự vận hành
của phương thức sản xuất tư bản, tiền đã mang một thuộc tính hình thức
thuần tuý, một thứ hình thức ý niệm, vận động tự thân. Với Marx, cuộc
hoá thân của giá trị trao đổi khi tách biệt khỏi cái nền đất giá trị sử
dụng của nó đã diễn ra từ cái tiền đề thứ nhất là như vậy.
Về
tiền đề thứ hai thì Marx lại đi theo cách suy luận khác hẳn: căn cứ vào
chính những nguyên lý của kinh tế cổ điển, ông đã chứng minh khi đi vào
vận dụng, những nguyên lý ấy đã bị đảo ngược lại hoàn toàn. Với Smith
điều này là rất rõ ràng, nó hiện ra ngay ở cái tình thế ở đó ông này cho
rằng khi bước sang thời kỳ có tư hữu tài sản thì toàn bộ kết quả do
người lao động làm ra phải đem san sẻ một phần cho tư bản với tư cách là
lợi nhuận, nhưng bởi vì xét đến cùng lợi nhuận không dính dáng một chút
gì đến lao động , dù là lao động quản lý hay chỉ huy, cho nên thực chất
đó chỉ là sự chiếm hữu lao động không công của người khác nhân danh sở
hữu tài sản. Nguyên lý trao đổi bình đẳng, ngang giá bị lật ngược cũng
đã diễn lại với Ricardo, khi xuyên qua công thức
gọi là “lượng lao động chi phí để làm ra một hàng hoá”, ông ta muốn
giải quyết mối quan hệ giữa lao động vật hoá và lao động sống
và đã giải quyết không thoả đáng. Theo nguyên lý thì hai thứ lao động
này chỉ khác nhau về hình thức, nhưng tại sao những thứ lao động vật hoá
(hàng hoá) trao đổi với nhau lại theo nguyên tắc ngang giá, trong khi đó
những thứ lao động vật hoá đó khi trao đổi với lao động sống thì lại
theo “nguyên tắc khác hoàn toàn” như Smith thừa nhận và được Marx nêu
lại dưới hình thức một vấn nạn: “ Nếu như sự khác nhau ở đây chỉ là hình
thức mà thôi thì tại sao một quy luật có hiệu lực đối với hình thái này
lại không có tác dụng đối với hình thái kia?” Tại sao giá trị sản phẩm
trao đổi với nhau phải lấy lượng lao động vật hoá làm tiêu chuẩn đo
lường nhưng khi những sản phẩm ấy đem trao đổi với chính chủ thể lao
động tạo ra sản phẩm ấy thì lại không được áp dụng đồng bộ?
Từ
những thực tế đó, Marx đã nói đến biện chứng của điều mà ông gọi là “sự
phóng chiếu lộn ngược” (inverted projection) trong kinh tế tư sản để trả
lời những nhà “xã hội chủ nghĩa”, hiển nhiên không thuộc hàng “những
kẻ tán dương hèn hạ” nhưng vẫn chưa dứt khỏi giấc mơ bình đẳng tự do tư
sản. Với những người “có thiện chí” này, Marx đã nói với họ như sau:
“Thật là đạo đức giả cũng như đần độn khi mong mỏi rằng
giá trị trao đổi sẽ không biến thành tư bản, lao động tạo
ra giá trị trao đổi không biến thành lao động tiền công. Cái
chia rẽ các vị ấy với những nhà tán tụng tư sản , một mặt là sự nhạy
cảm của các vị ấy trước những mâu thuẫn nằm trong hệ thống; mặt khác
là sự bất lực không tưởng để nắm bắt được sự khác biệt tất yếu giữa cái
hình thái thực tế và lý tưởng của xã hội tư sản, điều này là nguyên
nhân của sự ham muốn đảm nhận công việc thừa thãi thực hiện một lần nữa
cái biểu hiện lý tưởng mà thực tế chỉ là sự phóng chiếu lộn ngược
của cái hiện thực ấy” (Grundrisse BTA, Notebook II, Chương về tư
bản).
“Một nguyên lý khác”, bắt nguồn từ cảm hứng của Smith được Marx hình
thành và được đặt cho một cái tên đặc biệt: đó là cái “biện chứng tất
yếu về sự ly dị tuyệt đối của lao động với quyền tư hữu tài sản”, có
cùng nội dung với “quy luật trao đổi bị trực tiếp chuyển sang cực đối
lập của nó”. Ai cũng biết rằng cái quyền này rất thiêng liêng trong
luật pháp tư sản, nó thể hiện ngay trên những trang viết của Smith:
toàn bộ lao động kết tinh trong sản phẩm phải là phần thưởng của lao
động tạo ra sản phẩm. Nhưng trong thực tế thì hoàn toàn ngược lại: khi
ký hợp đồng làm thuê cho tư bản người lao động không sở hữu gì ngoài
hai bàn tay trắng, và tất yếu chỉ có hai bàn tay trắng, nghĩa là không
có chút sở hữu nào về tư liệu sản xuất thì mới gia nhập hàng ngũ những
công nhân làm thuê. Tất nhiên người ta hoàn toàn tự do khi ký hợp đồng
đó. Nhưng ngay từ đầu sự đối tác đó chỉ bình đẳng trên danh nghĩa; về
thực chất nó là một cưỡng bức bị che giấu: hoàn toàn không thể gọi được
là tự do khi anh chỉ được tự do đi làm thuê để khỏi phải tự do chết đói.
Marx đã nói thật rõ về ý nghĩa của sự trao đổi gọi là “ngang giá” này:
“Sự trao đổi của những cái ngang giá, có vẻ như quyền sở hữu sản phẩm
lao động được xem là tiên quyết – như vậy có vẻ mặc nhiên thừa nhận là
đồng nhất sự
chiếm hữu qua lao động, quá trình kinh tế thực sự biến một cái gì đó
thành cái của riêng với quyền sở hữu của lao động đã vật hoá.
Điều này – xuất hiện trước đây như là một quá trình thực tế thì bây giờ
được thừa nhận như là một quan hệ pháp lý, nghĩa là một điều kiện tổng
quát của sản xuất và như thế được thừa nhận bởi luật pháp, đặt định như
biểu hiện của ý chí chung. Nhưng trong thực tế, điều được thừa nhận đó đã bị lật ngược, tự thân bộc lộ qua cái biện chứng tất yếu như là sự
ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản, và sự chiếm hữu lao động xa
lạ mà không hề có trao đổi, không hề có sự tương đương” (Grundrisse
BTA, Notebook V, Chương về Tư bản &Fondements Vol I, tr.
480).
Chúng ta đang được Marx dẫn đến một tình thế ở đó cái biện chứng về “sự
ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản” đã diễn ra một cách
thật ly kỳ. Như thông thường, tất cả vẫn là bình đẳng và tự do về danh
nghĩa nhưng trên thực tế tất cả đều ngược lại – chỉ có điều khác và mới
thêm vào, đó cái biện chứng ngược đầu đó đã được thực hiện bằng một thứ
thủ đoạn lén lút và phi pháp rất mực vô tư, rất mực “tự nhiên”.
Trên thị trường, lao động được rao bán theo giá trị trao đổi dưới
danh nghĩa sự ngang giá của một hàng hoá mệnh danh “vốn người”, một yếu
tố trong những yếu tố sản xuất, không ai có thể phàn nàn. Nhưng khi đã
rơi vào tay các ông chủ tư bản rồi thì Marx cho rằng lao động lại được
đem ra “xài” theo cái giá trị sử dụng chứa đựng tiềm ẩn trong
bản thân nó, không đúng với giá trị đã trao đổi: hoặc là bằng cách trực
tiếp buộc lao động phải tăng thêm một số lượng thời gian dôi ra (“giá
trị thặng dư tuyệt đối”) hoặc là dùng kỹ thuật tăng năng suất cho công
cụ (tư bản cố định) làm giảm số lượng thời gian lao động cần thiết
buộc lao động cố gắng tăng số lượng thặng dư nhiều hơn để tiếp tục thực
hiện giá trị cho tư bản (“giá trị thặng dư tương đối”). Marx cho rằng
qua việc chủ tư bản sử dụng lao động như vậy, nguyên tắc ngang giá trong
trao đổi đã bị huỷ bỏ hoàn toàn: tư bản thực chất không mua lao động
mà chính là mua sức lao động của người khác để khai thác giá trị
vượt khỏi và cao hơn cái mà sức lao động ấy phải cung cấp theo thoả
thuận. Tất cả những thứ gọi là bình đẳng, tự do trong các hợp đồng nhân
danh “thuê mướn lao động” đều chỉ là bịp bợm, dối trá. Người ta không
thể không nghĩ đến cuốn sách mới của Daniel Bensaid tựa là Marx,
“Mode d’emploi” (Zones, France, 2009) để hình dung tư bản như một
cái xưởng chế tạo giá trị thặng dư bí hiểm (không khác gì xưởng chế tạo
ma tuý của các thế lực xã hội đen)!
Sức
lao động, đó chính là khái niệm chìa khoá mà Marx đã tìm ra để lý
giải mối quan hệ giữa tư bản và lao động trong phương thức sản xuất đặt
nền trên tư bản. Nó thay thế cho khái niệm lao động trống trơn và
huyễn hoặc mà các tác giả cổ điển hay dùng. Và để có được khái niệm
này, Marx đã không làm gì hơn là dựa vào chính những tiền đề mà các tác
giả kinh tế cổ điển (như Smith và Ricardo) đã diễn giải, không làm gì
hơn là nhân danh chính nội dung của những tiền đề ấy để tháo gỡ những
mâu thuẫn và phục hồi sự nhất quán về logic cho lý luận về giá trị-lao
động mà kinh tế cổ điển dựa vào để xây dựng cơ sở. Với thao tác lý luận
đó, Marx đã làm một cuộc cách mạng cho chính trường phái kinh tế cổ
điển, nhưng đồng thời cũng lại mang đến cho nó những điều chỉnh kinh
hoàng về lý luận. Những luận điểm mới của Marx đã phá tan cái huyền
thoại về tư bản mà người theo trường phái kinh tế ấy thường quan niệm
như các thứ vốn vật thể (công cụ sản xuất, vật tư, tư bản ứng trước …)
để tạo điều kiện cho công nhân “sản xuất”: tư bản không phải như vậy,
với Marx đó chỉ là cái phần bộc lộ biểu kiến của yếu tính, chúng chỉ có
thể tồn tại được trên cái nền xã hội đã nâng đỡ chúng, trên đó những thứ
gọi là “vốn tư bản” đã được sử dụng như những miếng mồi để thu hút lao
động sống; định chế xã hội ấy đã tước đoạt ngay từ đầu quyền tư hữu tài
sản của người lao động, biến họ thành những kẻ vô sản trắng tay, qua đó
buộc họ chấp nhận số phận làm thuê cho chủ tư bản – những người này vốn
cũng không có gì trong tay như họ, nhưng được nuôi dưỡng bởi một định
chế giúp họ thao túng được quyền lực chính trị, chi phối được toàn
bộ của cải của quốc dân theo lợi ích của mình, nên đã nhân danh sự tăng
trưởng kinh tế phổ quát, nhân danh quyền làm chủ công cụ sản xuất, nhân
danh những bất trắc trong đầu tư, để khai thác sức lao động của người
khác theo phương thức, không phải san sẻ, thoả hiệp (như Smith đã cho
là vậy), mà là thống trị, tước đoạt. Tư bản, tồn tại trong một nền
pháp quyền tư sản, trong điều kiện lao động bị đối xử như một hình thức
lệ thuộc, ở đây không chỉ là vấn đề kinh tế, vấn đề làm ra của
cải vật chất mà từ chiều sâu của nó, và cũng là bản chất của nó, chính
là vấn đề xã hội, vấn đề quan hệ đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân.
5
Sự
hình thành một khái niệm
Chúng ta đã bước vào một bước ngoặt quan trọng của sự chuyển hoá lý
luận đối với kinh tế cổ điển theo quan điểm macxit: từ chỗ là một vật
thể quan hệ với lao động để sản xuất, tư bản bây giờ đã mang một nội
dung khác hẳn: một quan hệ phi vật thể, một quan hệ xã hội về sản
xuất, một quan hệ giữa người và người. Dưới nhiều hình thức
Marx đã trình bày nội dung này của tư bản với cái nghĩa lịch sử cần
phải truy tầm cho nó. Ông cho rằng xét về mặt kinh tế thì bất cứ hình
thái sản xuất nào cũng cần “tư bản”, định nghĩa như công cụ lao động,
để vận hành [ngay như khi ta dùng tay để nhặt thóc thì bàn tay ta đã là
công cụ rồi]. Tư bản ở đây chính là một trong những yếu tố vật chất
của toàn bộ quy trình lao động. Khi sản phẩm hoàn thành, muốn đem trao
đổi với người khác thì cần thiết phải đưa nó ra thị trường đồng thời với
việc sử dụng tiền tệ để tính toán, thanh toán, lưu trữ giá trị, v.v…
Nói cách khác trước khi có sản xuất tư bản thì đã có nhu cầu sản xuất
nói chung, và tuỳ theo từng thời kỳ mà ra đời những điều kiện sản
xuất riêng biệt. Nhìn vấn đề theo quá trình phát triển của xã hội,
Marx cho rằng phương thức sản xuất tư bản chỉ là một hình thái mang tính
lịch sử, nếu đã dựa trên những tiền đề nào đó để ra đời thì đến lượt nó,
nó cũng tạo ra cho chính nó những tiền đề dẫn tới giai đoạn chấm dứt cái
vòng sinh tồn của bản thân. Những tính chất độc đáo của tư bản mà Marx
tìm ta được chính là kết quả của sự suy lý biện chứng về lịch sử đó
của ông.
Để
lĩnh hội được tính chất độc đáo này, chúng ta cần ghi nhớ rằng, đối với
Marx, hình thái sản xuất dựa trên tư bản được xem là giai đoạn phát
triển cao nhất có thể dẫn đến một chuyển hoá cao hơn của quá trình xã
hội con người trên đường chinh phục tự nhiên để cải tạo cuộc sống của
mình, về phương diện của cải vật chất lẫn phương diện văn hoá, khoa học.
Phải căn cứ vào đỉnh cao của cái xã hội mà ta đang sống đó để hiểu những
hình thái đã dọn đường cho nó, giống như, theo cách diễn tả nhiều lần
của Marx, phải dựa vào giải phẫu học về cơ thể con người để hiểu giải
phẫu học về vượn-người. Trong sản xuất, hình ảnh đó giả định một quá
trình tiến hoá từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của xã hội con
người, vấn đề đặt ra là phải tìm ra những bước quá độ về phẩm mà xã hội
tư sản đã tự nhào nặn, tự hoá thân để vươn tới những tính chất đặc
trưng tiêu biểu của nó.
Một cách khái quát, Marx đã mệnh danh cho cả cái giai đoạn quá độ ấy là
giai đoạn sản xuất đơn giản mà đặc tính bao trùm là sự đứt
đoạn trong cả quy trình. Một người bỏ tiền ra mua công cụ, vật
liệu, tự sản xuất, cùng gia đình hoặc có thể thuê mướn một số nhân công,
sau đó đem ra tiêu thụ để thu hồi lại vốn liếng và công sức, cũng có thể
kiếm được một số giá trị thặng dư, tất cả dưới hình thức tiền, nhưng rồi
tất cả cũng sẽ dừng nơi đó để chấm dứt một quy trình. Marx gọi cái quy
trình trao đổi ấy là một quy trình trao đổi đơn giản ở đó sự sản
xuất chia ra từng đoạn riêng rẽ , rời rạc. Động cơ của quy trình này
cũng có cùng một tính chất: người ta sản xuất cốt yếu chỉ để phục vụ nhu
cầu tiêu dùng; trong những cộng đồng còn chưa phát triển, của cải làm
ra còn ít ỏi, khan hiếm, cho đến những cộng đồng có trình độ cao hơn,
sản phẩm dồi dào hơn nhưng nếu trong quan hệ chỉ giới hạn ở việc trao
đổi những sản phẩm thừa, chưa cấp thiết dùng đến, thì vấn đề sản xuất
cũng chỉ như vậy mà thôi: ở đây giá trị sử dụng trong sản phẩm
được xem là đích ngắm chủ yếu.
Cũng cần ghi nhận rằng trong hình thái sản xuất này,
tất cả những yếu tố
cấu tạo thành quy trình sản xuất tổng quát đều có đủ (phân công lao
động, kiến thức, kỹ thuật sản xuất, thị trường, tiền tệ v.v….) , tất
nhiên không thể không kể đến những quan hệ xã hội tổ chức và phân phối
(từ công xã, gia đình, thủ công, phường hội, hợp tác…đến những hình
thái
tiếp giáp với tư bản hiện đại như tư bản thương mại, tư bản cho vay
…), tuy vậy theo Marx có một điều quan trọng ở đây là tất cả đều không
có
hoặc chưa có: sự sản xuất xét trên tổng thể chủ yếu chưa hướng về
việc kiếm lời, việc buôn bán không phải vì mục đích đơn thuần
đuổi theo giá trị trao đổi. Có nghĩa là lúc ấy người ta chưa có nhu cầu
để coi trao đổi theo nghĩa hiện đại như một thiên hướng “tự nhiên” theo
cách nói của Smith.
Từ
phương thức sản xuất đơn giản nói trên, khi chuyển qua phương thức sản
xuất tư bản theo lý giải của Marx, thiết nghĩ cần phải ghi nhận cái ý
tưởng quan trọng mà Marx đã phát biểu nhiều lần: từ trong nội tại của
nó, phương thức sản xuất tư bản không chứa đựng điều gì có thực chất để
hiện thể ra ngoài một cách quá “hoành tráng” như những người ta thường
nghĩ về nó. Với Marx, tất cả những gì mà tư bản có được đều chỉ là
những cái mà nó thu nhặt, thừa hưởng, lợi dụng hoặc chiếm đoạt từ bên
ngoài hoặc của người khác. Lao động thặng dư của công nhân hiển nhiên
là điều được Marx nói đến nhiều nhất, chúng ta đã nói qua và chắc chắn
sẽ còn phải nhắc lại. Nhưng không phải chỉ như thế mà là tất cả: từ sự
hợp lý hoá sản xuất nhờ phân công lao động, những cuộc thám hiểm mở
rộng không gian trao đổi, sự tăng trưởng về dân số, sự phát triển của
khoa học, những phát minh công nghiệp, kỹ thuật chế tạo máy móc v.v…
Marx cho rằng tất cả đều được tư bản khai thác lợi dụng không tốn một
đồng xu nào. Vốn là kết quả của một sự chuyển động phát triển của lịch
sử, tư bản đã thừa hưởng được tất cả những thành quả mọi mặt mà loài
người tích tụ được. Không thể hiểu được ý nghĩa của nhận xét trên đây
của Marx nếu không nắm rõ nội dung cái “bộ công cụ” thao tác mà tư bản
đã tạo ra trong những điều kiện đó để sử dụng như bí quyết mở rộng tầm
chinh phục rộng khắp của nó.
Marx đã viết rất nhiều về tiền và cái mà ông gọi là tiền-tư bản
(money-capital/argent-capital) như công cụ vạn năng đó. Chúng ta đều
biết với Smith, tiền chỉ là biểu hiện giá trị danh nghĩa của cái
gọi là giá trị thật của hàng hoá, tức là số lượng lao động tích
chứa trong sản phẩm, cho phép người sở hữu nó có thể căn cứ vào đó “đặt
mua” một lượng lao động tương đương bao hàm trong những hình thái lao
động của người khác mà không cần phải khó nhọc làm ra. Marx cho rằng
với chức năng đó, tiền chỉ là một phương tiện trao đổi trong quy trình
sản xuất đơn giản: sau khi đã trao đổi xong, hàng hoá sẽ bị tiêu huỷ
trong tiêu thụ, còn tiền thu được sau khi hàng hoá bán đi, sẽ trở thành
công cụ lưu trữ, nằm chết một chỗ, nếu không được đưa vào quy trình sản
xuất một lần nữa. Đó là chức năng của thứ tiền mà Marx gọi là tiền
thông thường rất khác với tiền-tư bản với những thuộc tính mới là làm công cụ cho tư bản thực hiện giá trị. Loại tiền này
không đặc biệt gì mà thật sự chỉ là sự chuyển hoá của tiền thông thường
trong quá trình trao đổi đơn giản đến trao đổi tư bản.
Marx cho rằng trong sản xuất đơn giản đã có sự hiện hữu của tiền cùng
với giá trị trao đổi rồi và tiền chính là đại biểu cho giá trị trao
đổi; và ngay trong hình thái sản xuất này, khi giá trị trao đổi đã hiện
thân thành tiền thì tiền đã tách biệt khỏi hàng hoá để đi vào thế giới
trừu tượng của những ý niệm, và trở thành đại biểu cho của cải tổng
thể. Một vật thể riêng biệt nhưng cũng là một biểu tượng phổ quát.
“Tiền như như vậy tồn tại như là giá trị trao đổi của tất cả hàng hoá
đứng bên cạnh và bên ngoài hàng hoá. Đó là một vật thể phổ quát mà hàng
hoá phải nhúng vào, mạ vàng, tráng bạc để trở thành độc lập với tư cách
là những giá trị trao đổi. Hàng hoá chuyển dịch thành tiền, biểu hiện
trong tiền. Tiền trở thành sự thống trị phổ quát của những giá trị trao
đổi, của những hàng hoá với tư cách là những giá trị trao đổi”
(Grundrisse BTA: Notebook 1, Chapter on Money, part II) .
Việc giá trị trao đổi tách khỏi hàng hoá, rồi đến lượt nó, giá trị trao
đổi chuyển thành tiền, đó chính là bước đầu giá trị trao đổi thoát ly
khỏi giá trị sử dụng để đi vào một cuộc hành trình độc lập. Tách
khỏi hàng hoá, tiền thực hiện trao đổi hàng hoá nhanh hơn, dễ dàng hơn,
nhưng cũng vì vậy mà từ chỗ là phương tiện trao đổi, tiền trở thành mục
đích tự thân trong sản xuất và cũng là “quyền lực” trong xã hội, như
Smith đã nói. Tiền-thông thường bây giờ đã có điều kiện để trở
thành tiền-tư bản với cái chức năng riêng biệt trong quy trình
trao đổi đặc trưng tư bản là làm cho giá trị tư bản tự nhân lên,
tự phình ra một cách tự động và liên tục, khác hẳn với vai
trò nó từng giữ một cách đứt đoạn trong quy trình trao đổi và lưu thông
trước đó. Marx đã dùng cách diễn đạt sau đây để biểu hiện hai quy trình
(mà cũng là hai giai đoạn) sản xuất khác nhau:
1) H–T–H . Hàng–Tiền–Hàng trong lưu thông và quan hệ trao đổi
giản đơn: hàng đổi hàng thông qua tiền (dưới nhiều hình thức); mục đích
chính là tiêu thụ, tiền chỉ là phương tiện trao đổi. Trường hợp này vẫn
có công cụ, có tiền, có trao đổi, có quyền tư hữu nhưng chưa có tư bản
đúng nghĩa. Mọi thứ đều chấm dứt trong tiêu thụ, chấm dứt lưu thông, sau
đó tái diễn một cách gián đoạn.
2)
T – H… H’– T’. H (vốn ban đầu) = tiền công lao động + công cụ,
vật tư. H’(sản phẩm hoàn thành) = tiền công lao động + lao động thặng
dư + công cụ, vật tư. T’ > T vì trong T’ đã có giá trị thặng dư. Đây là
trường hợp sự vận động của tiền diễn ra trong quy trình sản xuất tư
bản: tư bản đã tăng giá trị trong quá trình sản xuất, có nghĩa là
H đã trở thành H’ rồi mới chuyển lại thành tiền có giá trị T’ trong
lưu thông. Marx cho rằng theo quy luật trao đổi ngang giá, xét
trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất, giữa bán và mua không thể có sai lệch
về giá trị để tạo ra lợi nhuận cho tư bản.
Ngoài việc làm cho tư bản tăng thêm giá trị, tiền-tư bản
trong
giai đoạn này còn có chức năng làm cho giá trị ấy tăng lên một cách
không đứt đoạn trong một dòng lưu thông liên tục. Tính chất hai mặt
của tiền ở đây đã mang ý nghĩa chức năng: từ chỗ tách rời hàng hoá để
trở
thành giá trị trao đổi, sau đó thành đại biểu cho của cải phổ
quát, tiền vẫn biểu hiện sự tồn tại của mình như một hàng hoá
riêng biệt (có thể mua qua bán lại) và chính từ sự hiện diện này, nó
đã giao tiếp với lao động sống với tư cách tiền công, rồi hoà
mình và nhập thân vào quy trình sản xuất, hút từ quá trình này phần giá
trị thặng dư do lao động sống tạo ra, cuối cùng nhẩy ra khỏi lưu thông
với tư cách là tiền đại biểu giá trị trao đổi, mang theo một đại lượng
giá trị mới cao hơn giá trị ban đầu. Điều đặc biệt là với tính chất hai
mặt của nó, tiền có thể lúc là mặt này lúc mặt khác, ra vào lưu thông
một cách liên tục, lúc đưa giá trị thặng dư (dưới danh nghĩa lợi nhuận
và thu nhập) về cho chủ tư bản để tiếp tục đầu tư, tăng cường tư bản cố
định, lúc tiếp cận với lao động sống để điều chỉnh hoặc thúc đẩy sản
xuất và thu hút giá trị thặng dư, làm cho các thành tố cấu tạo trong
quy trình lưu thông của tư bản, luôn luôn được nhen nhúm, khởi động
lại và vận hành như một chuyển động vĩnh cửu (perpetuum
mobile).
Khái niệm này đã được Marx sử dụng nhiều lần, có lẽ đã lấy cảm hứng từ
vai trò tự động của hệ thống máy móc mà ông cho là thích hợp nhất
với quy trình sản xuất dựa trên tư bản, qua đó cũng được sử dụng như một
công cụ thống trị lao động. Cũng như Ricardo, Marx cho rằng tính chất
quan trọng của máy móc là nó rút ngắn được thời gian lao động cần
thiết, làm giảm bớt sự nhọc nhằn và đem cho công nhân thời gian rỗi
rảnh hơn. Nhưng điều này chỉ đúng trong điều kiện nội dung hoạt động của
máy móc đồng nghĩa với công cụ lao động, do áp dụng khoa học, kỹ thuật
mà tăng thêm giá trị sử dụng áp dụng cho việc tăng sức sản xuất.
Còn trong điều kiện sản xuất theo phương thức tư bản, mà mục đích duy
nhất là tăng thêm giá trị trao đổi, Marx cho rằng máy móc đã được
tư bản sử dụng ngược hẳn lại: nó không “thay thế lao động hoặc thực hiện
những gì mà bản thân lao động không thể tự lực thực hiện được” như ý
kiến của những người như Lauderdale mà chỉ nhân đó “làm tăng tỷ lệ
của lao động thặng dư so với lao động cần thiết, tạo cho lao động khả
năng trong một thời gian ngắn, sản xuất ra được nhiều sản phẩm cần
thiết cho việc duy trì sức lao động sống hơn hẳn bằng cách tăng sức
sản xuất của nó”. Nói cách khác:
“tư bản chỉ sử dụng máy móc trong chừng mực máy móc tạo khả năng cho
người công nhân dùng một phần thời gian của mình nhiều hơn để làm việc
cho tư bản, coi phần lớn thời gian của mình là không thuộc về mình,
làm việc lâu hơn cho người khác. Thật vậy, thông qua quá trình ấy, số
lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm nào đó được rút
xuống con số tối thiểu, nhưng chỉ để một lượng lao động thặng dư tối đa
được thực hiện trong một lượng tối đa những vật phẩm như thế” (Fondements ,
Vol II, tr. 217 & Bản tiếng Việt).
Với logic của sự chuyển hoá, công cụ sản xuất trở thành
tư bản cố định được sử dụng như hình thức lao động vật hoá để
thống trị lại lao động sống trong điều kiện công cụ sản xuất đã
trở thành máy móc, việc tìm kiếm lao động thặng dư để thực hiện giá trị
cho tư bản cũng mang tính chất thích hợp : sức người phải được giả định
như một sức ngựa cơ giới đứng ngoài mọi quy chiếu về nhân tính để
khai thác tối đa . Với thuộc tính đó, tư bản đứng lên trên các giai đoạn
khác nhau của quá trình vận động, điều động mọi chuyển hoá diễn ra trong
cuộc tuần hoàn sản xuất, dưới hình thức của một vòng xoáy trôn ốc phát
sinh từ một vòng tròn mở rộng.
“Sự phát triển tư liệu lao động thành hệ thống máy móc không phải là
điều ngẫu nhiên đối với tư bản, mà là một sự cải tạo lịch sử những tư
liệu lao động truyền thống được kế thừa, sự chuyển hóa của chúng thành
những tư liệu lao động thích hợp với tư bản. Do vậy, sự tích lũy kiến
thức và kỹ năng, sự tích lũy những lực lượng sản xuất phổ biến của khối
óc xã hội được tư bản thu hút,
đối lập với lao động và do đó biểu hiện ra là thuộc tính của tư bản,
và biểu hiện ra một cách rõ ràng hơn nữa là thuộc tính của tư bản cố
định một khi nó bước vào quá trình sản xuất với tính cách là tư liệu sản
xuất thực thụ” (Fondements Vol II, tr. 213 & Bản tiếng Việt).
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy phê bình Smith, Ricardo chỉ nhắm mục
đich xoá bỏ nguồn gốc lao động thặng dư tạo nên tư bản (ở đây là tư
bản cố định, tư bản quá khứ) và giao cho tư bản bất biến
(công cụ và vật tư) chức năng tạo ra giá trị (ngược với lý luận về lao
động), biến luôn cả lao động sống thành tư bản dưới hình thức
tư bản ứng trước cho tiền công, nói tóm lại chuyển hoá tư bản vốn là
kết quả của lao động thành tư bản chủ thể của toàn bộ quy trình sản xuất
mà mục tiêu duy nhất là thống trị và chiếm hữu lao động không công của
người khác để tự mở rộng về trương độ lẫn không gian.
6
Sự bành trướng và sức cản
Qua những gì đã trình bày, chúng ta thấy với Marx, tư
bản không phải
chỉ là một quan hệ xã hội, một quá trình tự nhân lên giá trị mà còn là
một quan niệm về phát triển của cải vật chất khác hẳn với những cách
đã
từng xảy ra: hạ vị thế con người xuống hàng vật thể để khai thác tối
đa
lao động thặng dư của họ với tư cách là một giá trị trừu tượng, phổ
quát. Để đạt tới những kết luận ấy, như chúng ta đã biết, Marx đã kết
hợp việc bảo vệ một số khái niệm và tiền đề của kinh tế cổ điển với
những suy lý của riêng ông về thế giới trong đó tính lịch sử của mối
quan hệ giữa điều kiện lao động và lao động là then chốt. Với Marx
trong phương thức sản xuất dựa trên tư bản, tư bản chỉ là tư bản theo
nghĩa thống trị lao động, còn lao động chỉ là lao động làm thuê cho tư
bản. Vì thế tư bản chỉ có thể tồn tại trong vị thế đối lập với lao động
và lao động chỉ là lao động đối lập với tư bản. Marx cho rằng những tác
giả theo trường phái kinh tế cổ điển là những nhà “khoa học” theo nghĩa
là họ đặt ra được vấn đề đó, nhưng do vẫn bị cầm tù bởi quan điểm tư sản
nên cách lý giải của họ vẫn không thoát khỏi những phần huyễn hoặc, sai
lầm. Cũng vì vậy khi phê phán, Marx vẫn giữ lại những đóng góp của
kinh tế cổ điển, vẫn coi lý luận giá trị-lao động là nền tảng để đẩy
vấn đề đi tới một lý giải thoả đáng cho mối quan hệ nói trên, trong điều
kiện nền văn minh nhân loại bước vào một khúc quanh mới về chất. Những
suy tưởng xa hơn của Marx về vai trò lịch sử của tư bản trong việc hình
thành những viễn cảnh mới cho một hình thái kinh tế-xã hội có thể có
trong tương lai đã được hình dung ra từ công việc dọn đường đó.
Trước khi đi sâu hơn vào vấn đề này, chúng ta cần nhớ lại điều quan
trọng mà Marx đã từng nói đến: không có sự đồng nhất giữa điều kiện sản
xuất của tư bản với điều kiện sản xuất nói chung của con người qua các
thời đại, và điều đó có nghĩa là ngay trong phương thức sản xuất tư bản
đã có hai sức sản xuất khác nhau, có thể gặp nhau trong biểu hiện nhưng không đồng nhất với nhau về bản chất. Một là sức sản xuất xã hội
do bản thân lịch sử tạo ra, có nguồn gốc từ những nỗ lực chinh phục của
nhân loại trong quá khứ (Marx thường nói đến sự phân công lao động và
sự phát triển của khoa học) . Hai là sức sản xuất mà tư bản đã thừa kế
được từ cái đã qua để tạo ra phần riêng cho nó, phần riêng này Marx cho
rằng không có thực chất mà toàn bộ chỉ là thành quả chiếm hữu của người
khác.
“…
tư bản không tạo ra thế giới lại từ đầu, nhưng sản xuất và sản phẩm đã
có sẵn trước khi tư bản bắt sản xuất và sản phẩm phải tuân theo quá
trình của nó. Khi tư bản đã hoạt động rồi, khi nó xuất phát từ chính nó,
thì nó thường xuyên tự đặt để dưới những hình thái khác nhau của mình
với tư cách là sản phẩm tiêu dùng cá nhân, nguyên liệu và công cụ lao
động, để thường xuyên tái sản xuất ra bản thân dưới các hình thức ấy”
(Fondements
Vol II, tr.190-191&
Bản tiếng Việt).
Là một quan hệ xã hội, tư bản thực sự không bao giờ đặt mục đích
tạo ra giá trị sử dụng để phục vụ nhu cầu tiêu thụ của con
người, và như nhận xét của Marx: nếu có quan hệ thì nó chỉ giả định là
cái giá đỡ cho giá trị trao đổi, tức chỉ là phương tiện gián
tiếp để tư bản làm tăng giá trị cho bản thân – mà tiền là biểu
hiện. Máy móc được gọi là tư bản cố định nhưng thực chất chỉ là
lao động vật hoá, tích tụ được từ chính lao động thặng dư “nhọc
nhằn, phiền muộn” của hàng hàng lớp lớp các thế hệ công nhân. Tư bản như
vậy không chỉ không liên hệ gì đến bất cứ một hành vi lao động nào để
được trả công (như Smith đã khẳng định) mà còn đối lập với lao động, và
trong vị thế đối lập trở thành thống trị, nó thâu tóm được tất cả thành
quả lao động của người khác, để sau đó được những nhà lý luận sùng bái
tư bản gây ngộ nhận về vai trò “sáng tạo ra giá trị” mà nó không hề có.
Từ nhận xét trên đây, chúng ta có thể hình dung ra tính đặc trưng có một
không hai của tư bản: tư bản đã đem đến cho quá trình tạo ra của cải của
loài người một quan niệm về sự giàu có chưa từng có – một sự giàu có phổ
biến, trừu tượng, tự động bành trướng, tự phình ra, tự nhân lên cùng
nhịp với sự lạnh lùng, vô cảm của các loại máy móc thời hiện đại và
như ta đã biết, thứ của cải đó chính là đồng tiền ý niệm. Và cái phương
pháp được đem ra thực hiện để chiếm hữu thứ của cải ấy cũng không kém
phần đặc biệt: dựa trên bề mặt của một định chế kinh tế trao đổi dưới
danh nghĩa ngang giá, một nền pháp chế dân chủ và bình đẳng về hình
thức, nó đã tìm được cách qua mặt mọi thứ để phá vỡ mọi quy ước và cam
kết, sau đó tạo nên những tiền đề ảo để con người dựa vào đó sản
xuất ra những sản phẩm thật mà hiệu quả không đưa đến đâu ngoài
sự đối nghịch với bản chất của mình. Lý luận lao động tạo ra giá trị ở
đây đã biến thành lao động bị tước đoạt giá trị, đẩy lao động vào tình
trạng bị vong thân, điều mà Marx đã nói trong một bản thảo thời còn trẻ
(1844), 14 năm sau (1857-1858 ) – hẳn là không còn “trẻ” nữa – vẫn tiếp
tục nói lại để mô tả mối quan hệ giữa lao động và tư bản trong phương
thức sản xuất tư bản mà cũng là mối quan hệ nội tại của con người với
nhau trong một tình thế đặc biệt của lịch sử: con người đánh mất bản
thân trong chính sản phẩm của mình làm ra – lao động vật hoá chống
lại lao động sống.
“Giới hạn của tư bản là toàn bộ sự phát triển của nó diễn ra một cách
đối kháng và quá trình tạo ra lực lượng sản xuất, của cải phổ biến, của
khoa học v.v. diễn ra như
sự
tha hoá của người lao động; người lao động xử sự với những
điều kiện do chính họ tạo như đối với thứ của cải của người khác và sự
nghèo túng của chính mình. Nhưng hình thức đối kháng này chỉ nhất thời
và tạo ra những điều kiện thực tế để thủ tiêu chính nó” (Fondements Vol II, tr. 35).
Như vậy theo cái logic của Marx về lịch sử thì tất cả những “thành tích”
của phương thức sản xuất tư bản trên đây không chỉ mang ý nghĩa đơn giản
ở sự biểu hiện của chúng. Trong biện chứng của Marx, tư bản muốn tồn tại
vĩnh viễn như một thực tại tự nhiên, muốn mở rộng vòng hiện diện của nó
đến chỗ vô giới hạn, nhưng trong khi tìm cách vượt qua những rào cản để
tự thực hiện thì cũng chính ở trong công việc này nó đã tạo ra những
rào cản tự chống lại mình: và cái tác nhân đối kháng đó không phải là
cái gì khác hơn là cái thực thể bị nó thống trị, nhưng lại ấn định và
tạo ra cho nó hình hài để tồn tại, đồng thời cũng nội tại trong nó như
một tiềm thể đợi chờ ngày đập vỡ cái hiện hữu huyền thoại của nó để
giành lại tính chủ thể sáng tạo ra giá trị của mình: cái tác nhân ấy
chính là lao động mà trường kinh tế cổ điển đã coi là tiền đề giải thích
nguồn gốc mọi nỗ lực tạo ra của cải xã hội. Marx đã nói khá nhiều về
những dạng mâu thuẫn sinh tử (gián tiếp hoặc trực tiếp) do lao động tạo
ra cho tư bản, chúng ta sẽ chỉ nói đến hiện tượng được xem là quan trọng
gọi là “khuynh hướng giảm sút lợi nhuận của tư bản” được những người
nghiên cứu Marx nói đến rất nhiều từ trước đến nay.
Thật sự thì hiện tượng này là do Smith và Ricardo đưa ra, Marx chỉ lấy
lại chứ không hề dựng nên. Smith cho rằng nguyên nhân là do cạnh tranh,
còn Ricardo thì quy về lý do tăng lên của địa tô, nhưng dù sao tất cả
đều dựa trên mối tương quan căng kéo giữa tư bản và tiền công để lập
luận. Marx đã làm rõ hơn mối quan hệ này theo quan điểm toàn cục của
ông đối với phương thức sản xuất tư bản, và coi đó như tất yếu trong quá
trình bành trướng của nó: để đối phó với xu hướng tiền công ngày càng
tăng, sự cạnh tranh ác liệt giữa các thế lực tư bản với nhau, tư bản đã
áp dụng những thành tựu của khoa học, chế tạo máy móc để cải tiến công
cụ làm tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, lấy số lượng chiếm lĩnh
thị trường để bù lại, và kết quả không tránh khỏi là làm cho cơ cấu của
tư bản tổng thể bị mất cân bằng – quy mô phần tư bản tổng thể (công
cụ+tiền công) vượt khỏi phần tư bản bỏ ra thuê lao động sống (tiền
công). Vấn đề giảm sút tỷ suất lợi nhuận của tư bản cũng bắt nguồn từ
đó. Tức là khi tư bản bành trướng đến tình trạng thích hợp nhất với nó
và trở thành tư bản máy móc,
giá trị thặng dư tương đối tăng lên được vật hoá ngày càng nhiều trong
công cụ, còn máy móc thì ngày càng chiếm vị trí bao trùm trong quá
trình sản xuất, kết quả là làm cho bộ phận lao động trực tiếp sản xuất
nhỏ đi so với bộ phận lao động đã vật hoá, nghĩa là bộ
phận tư bản được dùng để đổi lấy lao động sống càng nhỏ đi so với tư bản
tổng thể,
thì khi ấy hiện tượng tỷ suất lợi nhuận giảm sút cũng là tất yếu.
Nói cách khác: mặc dù tỷ lệ giữa lao động thặng dư với lao
động cần thiết giả định là không thay đổi, lợi nhuận do giá trị
thặng dư tạo ra cứ ngày càng ít đi so với sự phình ra ngày càng lớn của
tư bản cố định vốn là bộ phận cốt yếu tạo thành tư bản bất
biến (gồm thêm vật tư).
Marx cho rằng tư
bản có nhiều phương cách để ngăn chận hiện tượng giảm sút tổng thể đó
mà người ta có thể hình dung như tăng cường độ bóc lột, hạ tiền lương,
sử dụng hoặc nhập khẩu tư bản bất biến giá rẻ, giảm bớt sự thay đổi cơ
cấu tư bản, di chuyển tư bản tới các khu vực có lao động và nguyên liệu
rẻ … nhưng tất cả đều chỉ là tạm thời và giới hạn. Xét từ nền tảng, xu
hướng đó là trầm kha, nó phản ảnh sự mâu thuẫn không lối thoát giữa lao
động vật hoá với lao động sống nằm ngay trong phương thức sản xuất dựa
trên tư bản.
“Vì hiện tượng sút giảm lợi nhuận tương ứng với sự sút giảm tương đối
của lao động trực tiếp so với lượng lao động vật hóa do lao động trực
tiếp tái sản xuất và mới tạo ra, nên tư bản tìm mọi cách ngăn trở sự
giảm đi của lao động sống so với lượng tư bản tổng thể, tức cũng ngăn
trở sự giảm đi của giá trị thặng dư biểu hiện dưới hình thức lợi nhuận
so với tư bản có trước. Nó cũng cố giảm cái phần dành cho lao động cần
thiết và tăng thêm nhiều hơn số lượng lao động thặng dư so với toàn bộ
lao động được sử dụng. Vì vậy, sự phát triển đến tối đa của sức sản xuất
cũng như sự trương nở tối đa của của cải hiện có sẽ trùng khớp với sự
mất giá của tư bản, sự thoái hóa và sự kiệt quệ sinh lực ngày càng tăng
của người công nhân” (Fondements,
Vol. II, p. 277 & Bản tiếng Việt).
Marx coi hiện tượng giảm sút lợi nhuận là quy luật căn bản của tư bản.
Ông cho rằng những mặt tiêu cực nói trên chính là nguồn gốc của những
bùng nổ, những cuộc khủng hoảng làm cho lao động tạm thời bị ngưng lại,
huỷ hoại một bộ phận lớn các loại tư bản riêng biệt, tất cả sẽ kéo tư
bản nói chung tuột xuống cái mức ở đó nó còn có thể tiếp tục hoạt động
mà chưa đến nỗi tự sát. Marx cũng cho rằng những tai hoạ cứ tái diễn đều
đặn, ngày càng với quy mô lớn hơn, có thể có tác dụng điều chỉnh sắp xếp
lại để quy trình sản xuất tư bản gượng dậy và phục hồi, nhưng cuối cùng
sẽ không tránh khỏi rơi vào chỗ sụp đổ dữ dội. Xét về mặt kinh tế
đơn thuần, cuộc khủng hoảng cuối cùng của phương thức sản xuất tư
bản do giảm sút lợi nhuận có xảy ra với kết quả dự đoán của Marx hay
không là điều có thể bàn cãi hoặc phủ định khi đem đối chiếu với những
diễn biến thường nghiệm. Nhưng đây không phải là chỗ để chúng ta nói về
điều đó mà chỉ muốn, trong khi tìm hiểu, làm rõ hơn cái logic biện luận
mà Marx đã vận dụng để giải thích hiện tượng này: đó không có gì khác
hơn là cái logic của sự tác động ngược lại của lao động đối với quy
trình sản xuất của tư bản. Những phần lao động bị tư bản tước đoạt bây
giờ lại chuyển hoá thành những nhân tố chống lại việc tư bản thực hiện
giá trị để bành trướng: giá trị sử dụng của lao động sống đã được
chuyển vào lao động vật hoá, dần dà tích tụ thành sức mạnh đủ để
ngăn cản tư bản với tới mục tiêu của nó là giá trị trao đổi.
7
Những tín hiệu của tương lai
Những tín hiệu này là tích cực và có thể được nhận ra
trong cái đà suy luận của Marx: chúng bao hàm ngay trong những biểu hiện
tiêu cực của tư bản mà qua sự diễn tả của Marx, tính chất hứa hẹn của
chúng có thể gây ra ngạc nhiên với chúng ta: trong những mặt xấu xa
nhất, tệ hại nhất của tư bản đã hàm chứa tất cả những cái ngược lại,
nghĩa là tiến bộ nhất, có ý nghĩa giải phóng con người ở mức độ kỳ diệu
nhất.
Chúng ta hãy nói thêm về hiện tượng máy móc làm giảm thời gian lao động
cần thiết so với thời gian lao động thặng dư đã đề cập ở trên để làm rõ
nhận xét đó. Như chúng ta biết, vấn đề này Ricardo đã nói đến, bây giờ
được Marx khai triển theo một viễn cảnh rộng lớn đụng chạm đến bản chất
của tư bản: qua tất cả những chuyển hoá trung giới quanh co, rút lại sự
tước đoạt của tư bản không có gì khác hơn là chiếm hữu thời gian lao
động của người khác – lượng thời gian mà Smith cho biết là do công
nhân thêm vào sản phẩm để chủ tư bản đem bán và thu về giá trị với tư
cách là lợi nhuận của tư bản – bây giờ người ta gọi là “khoản chi
trả cho tư bản” để chỉ nội dung của nó. Người chủ tư bản như vậy không
thể tự định nghĩa cách nào khác hơn là đại diện nhân hoá
của tư bản – ở một nơi khác Marx gọi đó là một tư bản pour-soi để
đối với tư bản vật thể mà ông gọi là tư bản en-soi – , một hình
thái đại diện của một vật thể chết mà sự tồn tại được bồi đắp
bằng sức lao động của những sinh thể người còn sống. Và cái mà đại diện
nhân hoá ấy chiếm hữu được và gọi đó là “giá trị” theo định nghĩa của
Smith, chính là cái khả năng “đặt mua” được các loại hình lao động bày
bán trên thị trường mà không cần đem “niềm vui, hạnh phúc và tự do”
của bản thân ra trả giá. Thời gian của tư bản vì thế là thời gian
phi lao động, và do đó cũng là thời gian phi sản xuất cũng
theo tiêu chuẩn của Smith. Nhưng khi tư bản dùng quyền lực buộc lao động
“hy sinh” cho mình rồi đem giá trị lao động thặng dư tích tụ dần dà vào
tư bản cố định, tăng cường sức mạnh cho nó (ở đây là máy móc) để tiếp
tục làm phương tiện bòn rút thêm giá trị thặng dư trong lao động sống
thì vô tình nó đã dấn mình vào một cuộc phiêu lưu đầy bất trắc:
nó đã tự làm mình bị giảm giá một cách trầm trọng. Lúc trước
vốn là một công cụ lao động trong quy trình sản xuất đơn giản,
sau khi chuyển hoá thành tư bản cố định trong điều kiện tư bản đã
thống trị được toàn bộ nền sản xuất, bây giờ, trong sự bành trướng để
trở nên hùng mạnh thêm, lại là lúc nó tạo ra những điều kiện để cho cái
mà nó coi là phương tiện trước đây, là giá trị sử dụng, ngoi dần
lên mặt tiền sân khấu, xoay tư bản cố định về hướng hoạt động phục hồi
lại chức năng công cụ ban đầu của sản xuất – là làm vơi đi sự nhọc
nhằn của lao động bằng cách làm giảm thời gian cần thiết cho quá
trình lao động.
“Bản thân tư bản là một mâu thuẫn đang thực hiện quá trình, mâu thuẫn ấy
là ở chỗ tư bản, một mặt, tìm cách giảm thời gian lao động xuống mức tối
thiểu, và mặt khác, làm cho thời gian lao động trở thành thước đo duy
nhất để đo của cải và trở thành nguồn của cải. Vì vậy tư bản giảm thời
gian lao động dưới hình thái thời gian lao động cần thiết, để tăng thời
gian lao động dưới hình thái thời gian lao động dư thừa; vì vậy tư bản
ngày càng biến thời gian lao động dư thừa thành điều kiện – thành vấn đề
sống còn – đối với thời gian lao động cần thiết. Một mặt, tư bản làm nảy
sinh tất cả sức mạnh của khoa học và của giới tự nhiên, cũng như những
sức mạnh của sự kết hợp xã hội và của sự giao tiếp xã hội, – nhằm làm
cho việc tạo ra của cải trở nên độc lập (một cách tương đối) với thời
gian lao động đã chi phí vào sự sáng tạo ấy. Mặt khác, tư bản muốn đo
những sức mạnh xã hội to lớn đã được tạo ra theo cách đó bằng thời gian
lao động và nhét những sức mạnh ấy vào những phạm vi cần thiết để duy
trì giá trị đã được tạo ra với tính cách là giá trị. Lực lượng sản xuất
và quan hệ xã hội – cả hai thứ đó đều là những mặt khác nhau trong sự
phát triển của cá nhân xã hội – đối với tư bản chỉ là phương tiện và chỉ
dùng làm phương tiện cho tư bản để tiến hành sản xuất trên cơ sở hạn hẹp
của nó. Nhưng trên thực tế chúng là những điều kiện vật chất để phá đổ
cơ sở ấy”.
(Fondements
Vol. II, tr. 222-223 & Bản tiếng Việt)
Marx cho rằng tư bản máy móc, khi phát triển sức
sản xuất của nó
đến chỗ có hiệu quả cao nhất, sẽ mở ra ngay trong lòng phương thức sản
xuất tư bản khả năng giải phóng lao động khỏi nội dung của hình thái
lao
động cũ, theo định nghĩa của Smith để mang ý nghĩa tích cực hơn: sự
vượt
qua những trở ngại bên ngoài của con người với tư cách là chủ thể để
hiện thực hoá tiềm năng nội tại của mình; lao động bây giờ không còn
là
khổ dịch mà trở thành một hoạt động tự do của “con người toàn diện”,
mang tính chất sáng tạo của một nghệ sĩ, hấp dẫn và đam mê trong căng
thẳng và nghiêm túc. Tình trạng ấy chỉ có được khi lao động hoàn toàn
làm chủ được máy móc, coi máy móc là giá trị sử dụng đúng nghĩa của
công
cụ giúp những người lao động thoát khỏi những vướng bận lam lũ vì sinh
kế, có nhiều thời giờ nhàn rỗi hơn để tham gia vào đời sống văn hoá,
trước đây vẫn là lĩnh vực độc quyền của những thành phần thiểu số “phi
sản xuất”.
Vấn đề tiết kiệm thời gian lao động vì vậy đã
được Marx đặc biệt
quan tâm. Kinh tế tư bản lấy thời gian của người khác làm phương thức
phát triển của cải, rút đời người thành phương tiện, thành vật dụng do
đó trong sự phát triển của mình đã đi vào một mâu thuẫn không lối
thoát. Một mặt dùng khoa học kỹ thuật rút bớt thời gian lao động cần
thiết trong sản xuất nhưng mặt khác lại tìm mọi cách tước đoạt thời
gian
lao động dôi ra của công nhân để tăng trưởng của cải một cách vô độ,
mâu
thuẫn này biểu hiện ở phương thức tổ chức sản xuất đặt nền trên một
triết lý phủ định tính toàn diện của con người. Nhưng mặt khác, trong
đà
phát triển của nó, với việc chế tạo ra máy móc, tư bản lại mở ra một
viễn cảnh mới: biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực
tiếp thay cho việc khai thác khối lượng thời gian lao động
trực tiếp trong việc tạo ra của cải xã hội; và với chiều hướng đó,
Marx cho rằng tư bản đang đứng trên nấc thang lịch sử cuối cùng của
phương thức sản xuất tước đoạt thời gian lao động của người khác diễn ra
từ lâu, nhưng cũng chính từ nấc thang đó, với tính chất riêng biệt của
một mô thức chuyển tiếp, chiếm hữu được di sản của quá khứ, ngoài ý
muốn của mình, nó đã nhón chân qua cái nấc thang đó với những thể nghiệm tích cực cho tương lai.
“Trong
sự chuyển hóa ấy, cơ sở chủ yếu của sản xuất và của của cải không phải
là lao động trực tiếp do chính con người thực hiện và không phải là thời
gian trong đó anh ta lao động, mà là sự chiếm hữu sức sản xuất phổ
biến của chính con người, là nhận thức của con người về giới tự nhiên
và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn tại của con người với tư cách là
một cơ thể mang tính xã hội, tóm lại – đó là sự phát triển của cá nhân
mang tính xã hội. Sự ăn cướp thời gian lao động của người
khác – sự ăn cướp này là nền tảng mà sự giàu có ngày nay dựa trên đó –
được quan niệm là cái cơ sở thảm hại so với cái cơ sở vừa mới phát
triển lên cách đây không lâu, do chính nền đại công nghiệp tạo ra. Một
khi lao động dưới hình thái trực tiếp của nó không còn là nguồn của
cải vĩ đại nữa thì thời gian lao động không còn là và phải không còn
là thước đo của cải nữa, do đó giá trị trao đổi không còn là thước đo
giá trị sử dụng nữa. Lao động thặng dư của quần chúng công nhân
không còn là điều kiện để phát triển của cải phổ biến, cũng giống như
sự không lao động của một số ít người không còn là điều kiện cho sự
phát triển những sức mạnh phổ biến của đầu óc con người nữa. Do đó,
nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi bị sụp đổ, và hình thái sự
nghèo nàn và sự đối kháng được trút bỏ khỏi chính quá trình sản xuất vật
chất trực tiếp (Fondements, Vol. II, p. 222 & Bản tiếng
Việt).
Câu cuối của đoạn dẫn trên đây của Marx đã đưa chúng ta đến kết luận
chung cuộc cho lý luận giá trị-lao động mà những nhà kinh tế cổ điển đã
dựa vào để lý giải sự vận hành của tư bản: trong khi coi lao động là
nguồn gốc tạo ra của cải ích dụng cho xã hội nhưng lại đẩy sang bên lề
giá trị sử dụng của của cải và coi giá trị trao đổi là mục
đích và phương cách duy nhất để tự bành trướng, tư bản đã đẩy mô thức
phát triển dựa trên giá trị trao đổi ấy đến những kết quả tận cùng của
nó với những mâu thuẫn có tác dụng tự huỷ hoại. Nhưng đây mới là điều
đặc biệt đáng chú ý: đó là những mâu thuẫn huỷ hoại mang tính biện
chứng đặc trưng mácxit: những mâu thuẫn tất yếu phải tạo ra huỷ hoại để
làm sinh thành những giá trị mới cho xã hội mới đang tượng hình. Những
giá trị tích cực này do Marx gợi ra, tuy không bất ngờ vì cách biện luận
logic quen thuộc của ông, nhưng vẫn gây ra cho chúng ta nhiều bỡ ngỡ;
chúng hiện hữu
ngay trong bản thân khái niệm “giá trị trao đổi”, nền tảng lý luận của
sự trao đổi hàng hoá trong xã hội tư sản – đại biểu phổ quát cho hàng
hoá sau đó chuyển hoá thành tiền để trở thành đại biểu phổ quát cho của
cải – như là sự ẩn tàng của bình minh trong đêm đen, của hy vọng trong
tuyệt vọng.
Giá trị trao đổi đó, sự khái quát trừu tượng tột độ về giá trị của cải
vật chất được toàn bộ xã hội theo đuổi như mục đích tự thân, thay thế
cho những quan hệ trực tiếp, làm cho các cá nhân xa lạ với người khác và
bản thân thì ở một mặt khác nó lại có tác dụng tích cực trong sự hình
thành một hình thái giá trị mới: thoát khỏi được những xiềng xích trói
buộc của những thống trị cụ thể thời tiền tư bản, tự đặt để từ tiên
khởi như những bản vị tự trị, độc lập, nhào nặn trong cuộc cạnh tranh
sinh tử lấy tính phổ quát làm chuẩn mực để tồn tại và vươn lên, các cá
nhân nhờ đó hấp thụ được những phẩm chất mới trước đây chưa hề có. Marx
đã đưa ra một so sánh rất đặc biệt để trình bày quan niệm này:
giá trị trao đổi trong sự biểu hiện thành tiền của nó, với tư cách là
một vật thể riêng biệt nhưng đồng thời là hiện thân quyền lực cao nhất
cho giá trị, có thể trao đổi với bất cứ một vật thể thứ ba nào, không
cần phân biệt, Marx cho rằng cái khả năng trao đối phổ quát đặt
nền
trên những mục đích vật chất và vị kỷ đó đã rất giống với tình trạng ở
đó sự suy đồi, tham nhũng đã phát triển đến mức phổ quát , do đó ông
đã đặt cho hiện tượng ấy một cái tên cực kỳ độc đáo là “sự đánh đĩ phổ
biến”, “đánh đĩ mười phương”
(prostitution universelle) cùng với một nhận định cũng cực kỳ độc đáo về
sự chuyển hoá giá trị: sự tiêu cực cùng cực đó chính lại là giai đoạn cần thiết để các cá nhân học được bài học về “sự phát triển tính
cách xã hội, tài năng, năng lực, hoạt động mang tính cách cá nhân”,
thông qua sự thử thách về “mối quan hệ phổ biến của tính hữu dụng và vị
lợi”.
“Khả năng có thể trao đổi với bất cứ sản phẩm nào, hành động và quan hệ
với một vật thể
khác mà đến lượt nó lại có thể trao đổi với bất cứ cái gì, không
phân biệt bất cứ cái gì – nói cách khác là sự phát triển của
các giá trị trao đổi và các mối quan hệ tiền bạc – khả năng đó tương ứng
với tính hám lợi và sự đồi bại nói chung. Tình trạng đánh đĩ
phổ biến – hay nói lễ phép hơn: nguyên lý thực dụng phổ biến
– là một giai đoạn cần thiết cho sự phát triển xã hội của các năng
khiếu, năng lực, hoạt động của con người” (Fondements, Vol I,
p. 100).
Hiện tượng lao động thặng dư mà tư bản dựa trên hình thức giá trị trao
đổi ngang giá để chiếm đoạt sức lao động giúp nó bành trướng với những
kết quả làm tha hoá con người cũng được Marx xét đến ở một số khía cạnh
tích cực mà nó mang lại cho sự phát triển xã hội và cá nhân. Ông nói đến
cái đặc điểm lịch sử lớn lao mà việc khai thác lao động thặng dư theo
phương thức tư bản đã ảnh hưởng đến nhu cầu tạo ra của cải trong viễn
cảnh sung mãn của thời kỳ sẽ đến, thời kỳ mà quan điểm đơn thuần về
giá trị sử dụng hiểu theo nghĩa thuần sinh kế sẽ không còn được coi
là quan trọng nữa. Việc tư bản sử dụng máy móc để khai thác giá trị
thặng dư tương đối, thúc đẩy sản xuất đi về phía trước một cách vũ bão,
cũng gợi ra khả năng sử dụng khoa học như một lực lượng sản xuất trực
tiếp, thay cho việc tập trung khai thác
thời gian lao động để giải
quyết sự tăng trưởng kinh tế như đã từng xảy ra ở các thời kỳ khan hiếm
mà tư bản đã đưa lên hàng đầu. Riêng đối với những người lao động trực
tiếp, Marx chú ý đặc biệt đến vai trò tổ chức và quản lý của tư bản
trong việc hình thành những thói quen kỷ luật khắt khe trong lao động,
nhất là thói quen làm cho sự cần cù trở thành một thái độ sống phổ
biến trong hoạt động, một đức tính mà Marx cho rằng sẽ “tác
động vào các thế hệ kế tiếp theo như là thuộc tính phổ quát của giống
loài mới” trong tương lai.
“Cố gắng không ngừng của tư bản trong khi hướng về hình thái phổ quát
của sự giàu sang đã
thúc đẩy lao động vượt khỏi giới hạn của sự tầm thường của nó, và vì thế
tạo ra những nhân tố vật chất cho
sự
phát triển của tính cách cá nhân phong phú, toàn diện trong
sản xuất lẫn trong tiêu thụ, và lao động của nó vì thế cũng không
còn như lao động mà là sự phát triển đầy đủ của bản thân hành động ở
đó sự tất yếu tự nhiên trong hình thái trực tiếp của nó đã
chấm dứt vì lẽ một nhu cầu
tạo ra một cách lịch sử đã thay chỗ cho nhu cầu tự nhiên” (Grundrisse
BTA, Notebook III, “Chapter
on Money” ).
Một ý quan trọng cần được ghi nhận trong đoạn văn trên
đây của Marx, ý
này đã được ông lặp lại nhiều lần, và phương thức sản xuất tư bản đã
coi
là tiền đề để phát triển của cải, bây giờ được nêu lại theo một hướng
mới hoàn toàn: đó là vị trí của chủ thể sản xuất với tư cách là những
cá
nhân trừu tượng trong giả định của Smith và Ricardo, những cá nhân ấy
trong xã hội lấy giá trị lao động thặng dư làm chuẩn mực thử thách để
tồn tại, theo Marx, vẫn có khả năng nương theo cuộc cạnh tranh khắc
nghiệt đó để vượt qua những thói nhỏ nhen, lợi dụng những yếu tố tích
cực tồn tại trong xã hội tư sản, hình thành cho bản thân những tố chất
của sự phát triển “toàn diện” và “phong phú” chuẩn bị cho một tương
lai
sung mãn, ở đó những cá nhân sẽ trở thành những cá nhân mang tính xã
hội trong một hoàn cảnh lịch sử mới mẻ hoàn toàn: không còn là những
thực thể bị đè bẹp bởi các thứ tôn ti thời tiền tư bản, cũng không còn
là những Robinson tư sản độc lập với nhau một cách hư ảo, mà là những
nhân cách xã hội đã cá biệt hoá trong điều kiện phát triển tổng thể
với những nhân tố tích cực toàn diện về mặt vật chất lẫn văn hoá.
“Mối quan hệ của
sự
phụ thuộc cá nhân (hoàn toàn tự phát khi khởi thuỷ) là hình thức
xã hội đầu tiên ở đó khả năng sản xuất của con người chỉ phát triển
ở mức vừa phải và ở những điểm biệt lập. Sự độc lập cá nhân
đặt trên sự phụ thuộc vật thể khách quan là hình thái lớn thứ
hai ở đó một hệ thống của sự trao đổi chất xã hội, của mối quan hệ
phổ quát, của những nhu cầu về mọi mặt được hình thành lần đầu tiên.
Tính chất độc đáo tự do, dựa trên sự phát triển phổ quát của
những cá nhân và sự phụ thuộc của họ vào cộng đồng của mình đó là
giai đoạn thứ ba. Giai đoạn thứ hai tạo điều kiện cho giai đoạn
thứ ba”. (Grundrisse BTA, Notebook I, October 1857, “Chapter
on Money”, Part II).
Với Marx, cá nhân không hề bị hoà tan vào một cái tổng thể khách quan
nào đó như người ta đã tưởng mà là những thực thể độc đáo có khả năng
tự mình thoát ra khỏi những ảo tưởng về những quy định tất yếu xa lạ
với tính chủ thể đích thực của con người. Kiến tạo ra những môi trường
thuận lợi để cá nhân phát triển toàn diện đó chính là mục đích tối hậu
của cuộc giải phóng lao động mà Marx đã nói đi nói lại rất nhiều lần:
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người. Phương thức sản xuất tư bản trong khi coi
những chủ thể sản xuất như những cá thể tự trị ảo tưởng thì đồng thời
qua hình thái đó cũng đã cung cấp cơ sở vật chất tạo ra tiềm năng để họ
có thể vượt qua và trở thành đích thực. Một khi những cá nhân ý thức
được tình thế hiện thực của cái xã hội đã tước bỏ tự do của mình thì
khi ấy họ sẽ bắt đầu đi tìm viễn cảnh hiện thực cho một xã hội cần phải
có để bảo vệ sự tự do của họ.
8
Vài nhận xét
Qua tất cả những gì đã trình bày, chúng ta thấy tuy tư tưởng Marx đã
được cấu tạo nên từ nhiều nguồn nhưng điểm xuất phát của nó rõ ràng là
từ lý luận giá trị-lao động của trường kinh tế cổ điển. Đó là điểm xuất
phát quan trọng vì tất cả cái hệ thống lý luận mà Marx xây dựng nên đều
đặt trên căn bản của kinh tế cổ điển cho rằng lao động là nguồn gốc tạo
ra giá trị cho sản phẩm. Luận điểm lao động bị tha hoá trong phương thức
sản xuất tư bản – cơ sở để xây dựng học thuyết giải phóng lao động
với cuộc cách mạng gọi là vô sản về sau – chỉ là logic phát triển từ
tiền đề đó. Tuy vậy chỉ với kinh tế cổ điển không thì không đủ. Để có
được luận cứ hình thành học thuyết về lao động nói trên, Marx đã vận
dụng phương pháp biện chứng lịch sử để phê phán những kết quả mà ông cho
rằng mâu thuẫn, sai lầm do chính các nhà kinh tế cổ điển đã suy ra từ
chính cái tiền đề tạo nên học thuyết của họ. Nguồn gốc của phương pháp
phê phán này xuất phát từ Hegel, Marx chỉ ám chỉ đây đó, nhưng được
các nhà nghiên cứu chứng minh rõ rệt, thể hiện trong các tác phẩm của
ông, đặc biệt trong Grundrisse vào thời ông không còn gọi được là
“trẻ” nữa . Người ta có thể kể đến một nguồn tư duy khác trực tiếp tạo
nên học thuyết Marx là tư tưởng xã hội chủ nghĩa của những nhà tư tưởng
Pháp, nhưng thật sự đây chỉ là sự gọi tên cuối cùng cho một cuộc tìm
kiếm mà kết quả đã được nhận ra ngay trong cuộc hành trình.
Khi nhìn lại kết quả tổng hợp trong học thuyết Marx, qua sự vận động của
những khái niệm, những phạm trù mà Marx sử dụng, nhiều tác giả đã có cơ
sở để cho rằng quan điểm phê phán của Marx với kinh tế tư sản chỉ là sự
phê phán triết học về kinh tế – có thể hình dung như một thứ
biện chứng luận macxit về kinh tế – nghĩa là tìm cách khai triển ý
nghĩa triết học trong các sự kiện kinh tế, và việc phê phán ấy chỉ nhắm
mục đích coi kinh tế như điểm xuất phát để suy tưởng về những vấn đề
khái quát thuộc lĩnh vực chính trị, những hình thái xã hội thay nhau
trong lịch sử nhân loại từ khởi thuỷ cho đến ngày nay. Sự kiện hiện thực
bị phóng chiếu qua lăng kính của những phạm trù triết học đã bộc lộ rất
rõ trong biện chứng
về mối quan hệ tư
bản/lao động, đã trình bày ở các phần trên, như là sự thống nhất và đối
nghịch quyện vào nhau trong quá trình đấu tranh, chinh phục, đồng hoá và
triệt tiêu nhau. Tư bản thống trị lao động khi tư bản biến được lao
động vật hoá trong công cụ thành tư bản cố định, lao động
sống thành tư bản đầu tư vào tiền công. Lao động sẽ theo lộ
trình đó mà đảo ngược lại, phục hồi tất cả, lấy lại vai trò chủ thể của
sản xuất để vượt qua tư bản. – “Chỉ
có một mình
lao động mới sản xuất; lao động là thực thể duy nhất của các sản
phẩm với tính cách là những giá trị” (Fondements Vol II, tr. 115)
–.
Chung cuộc thì lao động sẽ thắng vì lao động là cái tầng nền tảng của
thực tại. Còn tư bản sẽ qua đi là do tư bản chỉ là cái váng của lịch
sử, là cái phi lao động xuất hiện nhất thời trên đường đi của
một nhân loại tự thực hiện yếu tính của mình là lao động. Bây giờ chúng ta hiểu tại sao trong khi phê phán lý luận của mọi trường
phái kinh tế tư sản, Marx luôn đối lập giá trị sử dụng với
giá trị trao đổi, sản phẩm với hàng hoá, công cụ
lao động với tư bản cố định, lao động sống với lao
động vật hoá, tiền thông thường với tiền-tư bản v.v…
Tư bản như vậy không còn là tư bản tự thân nữa mà đã trở thành tư bản
của một hệ tư duy. Lao động cũng vậy.
Sự thao tác trừu tượng trong những phân tích đó là quá hiển nhiên: đó
không phải sự mô tả về mối quan hệ hiện thực của những tập hợp người
trong đời sống – ở đây là quan hệ “bóc lột” cụ thể của những chủ tư bản
với những người làm thuê – mà là sự va chạm của những khái niệm trong đó
con người chỉ là những hiện thể nhân cách. Thực sự thì nhiều lần
Marx cũng đã xác nhận như vậy và điều đó đã tiếp sức cho những khái niệm
trong văn bản của ông một cái đà vận động không hề chịu sức cản của thực
tế, cũng không hề bị thuộc tính của thực tế quy định. Lao động và tư bản
phải là hai thực thể sống mái cùng hiện hữu trong một khoảng thời tạm
bợ: nếu lao động được gọi đúng tên của nó là lao động thì tư bản
là phi lao động, nếu có dính dáng gì đến lao động – lao động
vật hoá, lao động quá khứ – thì cũng chỉ là những cái đã mất bản
sắc, là công cụ để tư bản thống trị, nô dịch lao động sống, lao
động đích thực. Khi đã là hai thực thể có được sự tồn tại siêu hiện thực
như vậy thì chúng sẽ được phép tung hoành với tốc độ tối đa để phát
triển bản chất cố hữu của chúng. Tính đặc trưng của tư bản là khai thác
lao động để tự động nhân lên, tự phình ra một cách vô độ cho nên nó phải
dốc hết tiềm năng để bóc lột, rồi cũng vì đó mà tự đào huyệt chôn mình
theo cái biện chứng của sự sinh thành: xuất hiện trong lịch sử như
kết quả của một xu hướng phát triển đã có cơ sở vật chất để trở thành
phổ biến nên tư bản chỉ nương theo đó mà thúc đẩy cho sự phổ biến ấy đi
đến tận cùng hậu quả rồi sau đó sẽ tự tạo ra cho mình những điều kiện tự
diệt bằng cách tạo ra trong bản thân những mầm móng tích cực, để cho lực
lượng đối lập thay thế thừa kế tạo ra một hợp đề phát triển phổ biến hơn
trong tương lai.
Một số khái niệm mà Marx tìm ra được qua sự phê phán trường kinh tế cổ
điển đã chứa đựng những nội dung siêu hiện thực như vậy. Chúng ta hãy
lấy khái niệm sức lao động được coi là chìa khoá mở cửa vào hệ
thống của Marx làm thí dụ. Trước hết đó là một khái niệm không thể kiểm
chứng được một cách cụ thể trên thực tế, những cái mà Marx gọi là “những
sức tự nhiên thuộc về thân thể của con người” (Tư bản, Phần 1,
Quyển 1, Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 230) khi nó được quy vào cái phạm
trù gọi là thời gian lao động xã hội cần thiết, kết quả tổng hợp
của một tình trạng xã hội với một sức sản xuất nhất định nào đó nhưng
lại khá mơ hồ, không thể tìm ra được cột mốc nào để định lượng, tính
toán về phương diện kinh tế. Tính chất “trừu tượng” của khái niệm lao
động khi vận dụng vào thực tế làm “thước đo”, gặp khó khăn như thế nào
trong thực tế đã được Smith đề cập; Ricardo khi sử dụng lại khái niêm
đó cũng không đẩy xa hơn việc xác định như một thứ bản thể nằm sâu trong
sản phẩm, coi là cơ sở để tính toán giá trị nhưng hiện thể trên thị
trường lại không tìm được điểm tựa ở đâu ngoài giá cả tính bằng tiền.
Khi khái niệm lao động nói chung đó được Marx chuyển thành sức lao
động cho rằng có thể lý giải tình trạng làm thuê trong phương thức
sản xuất tư bản một cách xác thực hơn, nhưng ngoài việc duy trì tính
biểu tượng nói chung cho một trường phái coi lao động là nguồn gốc duy
nhất tạo ra của cải, trên thực tế, mặc dù ngược lại với tính chất tư
duy lạnh lùng học được từ Ricardo, Marx đã không mang cho khái niệm
ấy một ý nghĩa cụ thể nào khác hơn là một công cụ tố cáo phẩm chất
đạo đức của tư bản cực kỳ gay gắt mà chúng ta đã biết nội dung: sự
khai thác của tư bản đối với giá trị thặng dư của lao động vừa xảo
quyệt gian dối (mua theo giá trị trao đổi nhưng xài theo giá trị
sử dụng) lại vừa vô độ, phi nhân tính (coi lao động như vật thể
để bóc lột bằng mọi cách). Tính chất tố cáo thật triệt để nhưng xét kỹ
thì nó lại không hề đụng chạm đến những nguyên tắc căn bản của phương
thức sản xuất tư bản, mà trái lại, đã nhân danh sự ngang giá và bình
đẳng trong trao đổi hàng hoá, bao gồm luôn cả tính chất hình thức của
pháp quyền tư sản, để chống lại sự áp dụng sai, áp dụng ngược lại những
nguyên tắc mà phương thức sản xuất tư bản coi là tính chính đáng để tồn
tại.
Sự tố cáo bao hàm trong khái niệm “sức lao động” đó
cũng giống khái niệm
“lợi nhuận” mà Marx lấy lại của Smith để phơi bày tính chất ăn bám của
tư bản – thực chất được ông gọi là là “giá trị thặng dư” –, coi tư bản
như một thứ danh nghĩa không có thực lực nhưng biết lợi dụng và tước
đoạt mọi thành quả lao động của người khác để tự nhân lên giá trị của
bản thân, coi lợi nhuận là mục đích tự thân, tham lam vô độ, bất chấp
tất cả. Chỉ vì đã là một cơ cấu sản xuất vô nhân tính nên những gì mà
tư
bản thực hiện cho nhân loại, được Marx thừa nhận và biểu dương hết mực
–
đặc biệt việc áp dụng khoa học vào sản xuất làm giảm thời gian lao
động
cần thiết, tạo thời gian nhàn rỗi cho công nhân –, có chỗ xưng tụng
đến
phi lý, nhưng xét đến cùng vẫn bị phủ định bằng cách coi đó chỉ là
những kết quả “ngoài ý muốn” của nó, có làm gì đi nữa thì nó cũng hoàn
toàn “xa lạ” với công nhân, hơn nữa chỉ để tạo điều kiện tước đoạt lao
động của công nhân một cách tự động, liên tục. Với tính chất đó, tư
bản
giống như một cái gì đó vượt lên trên xã hội, chi phối vận mệnh con
người như một thế lực siêu hình, phi vật thể như Sísmondi đã viết:
“Tư bản, giá trị thường trực, tự nhân lên, không bao giờ huỷ hoại. Giá
trị đó tự rứt ra khỏi hàng hoá đã tạo ra nó; như một tính chất
siêu hình, phi vật thể, nó luôn khống chế cùng một anh nông dân, đội
lốt cho anh này nhiều hình thức khác nhau” (Dẫn trong Grundrisse
BTA, Notebook V).
Một thứ tư bản được mô tả như vậy chỉ có thể hình dung như một cấu trúc
phi nhân loại, máy móc, lạnh lùng, thủ đoạn biến hoá tài tình, rất đáng
khâm phục nhưng cũng đáng sợ hãi, thù ghét. Chính hai khái niệm “lợi
nhuận” (hoặc “giá trị thặng dư”) và “sức lao động” phối hợp tác động lẫn
nhau trong lập luận của Marx đã tạo ra hiệu quả tố cáo đến mức tối đa về
bộ mặt ghê gớm đó của tư bản. Ở đây tính chất ý thức hệ của sự mô tả
biếm hoạ và cường điệu bộc lộ rất rõ rệt, nó làm cho sự xuất hiện của tư
bản với tư cách là một hiện thực lịch sử trở thành một kết cấu khái niệm
tạo nên thuần bằng logic và suy đoán, khác xa với tư bản tồn tại trong
thực tế: một phương thức tổ chức sản xuất, một mô hình
phát triển thời công nghiệp.
Tính chất tư biện trong lập luận của Marx về mối quan hệ tư bản/lao động
trong lý luận giá trị-lao động đã được nhiều tác giả phân tích như là
thuộc tính đặc trưng của học thuyết Marx nhưng về sau được một số khác
coi đó chỉ là sự biến thể ngược chiều từ một bản chất chung nằm sẵn
trong lý luận về lao động của trường kinh tế cổ điển ra đời vào lúc xã
hội tư sản và nền công nghiệp đang hình thành. Theo nhận định này thì lý
luận về lao động của Marx, mặc
dù dẫn tới những kết luận trái ngược với khởi nguồn của nó, nhưng vẫn là
sự tiếp nối của một truyền thống lấy lao động giải thích giá trị sản
phẩm, vì vậy vẫn chỉ là một sự diễn giải khác về lý luận giá
trị-lao động của trường kinh tế cổ điển. Nói cách khác, tính chất tư
biện trong lập luận của Marx cũng chính là tính chất tư biện trong lập
luận về lao động của trường phái này. Đi sâu vào xuất xứ của lý luận lao
động trước khi Adam Smith tổng kết, nhiều tác giả cho đó là một phản ứng
chống học thuyết trọng thương, không chú ý đến sản xuất mà chỉ lo buôn
bán với bên ngoài, và cũng do nhu cầu nội tại đó, mà lao động đã được đề
cao cổ vũ cho đường lối xây dựng xã hội công nghiệp, hình thành từng lớp
doanh nhân theo đuổi sự nghiệp “sản xuất” theo tiêu chuẩn của Smith
(giúp cho quá trình tích tụ tư bản), cũng trên giá trị đó đả kích những
thói tiêu xài xa xỉ, hoang phí của các tầng lớp “phi sản xuất”, cũng
theo tiêu chuẩn của Smith.
Dù
vậy, từ trọng nông đến kinh tế cổ điển, mỗi trường phái đưa ra những lý
lẽ khác nhau, nhưng do đều coi lao động là nhân tố quan trọng hoặc duy
nhất làm ra của cải, cho nên vẫn bị coi là một thứ ý thức hệ về lao
động; không ít tác giả còn đi xa hơn khi chứng minh thứ triết học
về lao động đó thực chất chỉ là một “huyền thoại”. Bản thân Marx cũng
đã tham gia việc phê phán này bằng cách chỉ ra một cách khá chính xác
những mâu thuẫn, bất nhất trong lập luận của Smith và Ricardo khi hai
tác giả này dựa vào lao động để giải thích mọi vận hành của guồng máy
sản xuất tư bản. Tuy vậy đến lượt mình, do không thoát khỏi cái tiền
đề
của thứ lý luận mà mình đã ra công điều chỉnh, bản thân Marx đã tạo ra
một huyền thoại mới về giải phóng lao động, giải phóng loài người với
những kết luận huyễn hoặc. Nhận xét này trước đây thường rất khó khăn
để
thuyết phục nhưng ngày nay hầu như đã trở thành hiển nhiên và phổ
biến: không ai nghiên cứu tư tưởng Marx đến tận nguồn gốc mà còn đơn
giản coi
những kết luận của ông về sự hình thành và thay nhau của những hình
thái kinh tế-xã hội là “khoa học” nữa. Cũng vì vậy mà rất nhiều
trường phái về sau này trong khi tìm cách làm sáng tỏ tính chất tư
biện
và ảo tưởng trong lý luận lao động của Marx, cũng đã tìm cách bác bỏ
luôn cả lý luận nguồn gốc trong trường kinh tế cổ điển mà Marx lấy cảm
hứng để đẩy xa hơn. Những cố gắng ấy mang hiệu quả đến mức nào, có khả
năng tạo ra một thứ phủ định thay thế tích cực hay không, ở đây không
phải là chỗ bàn luận, nhưng dù sao thì có một điều rất rõ: tất cả đều
không làm gì khác hơn là đặt những phê phán của họ trên cái nền hiện
thực thường nghiệm của các hoạt động kinh tế trong đời sống: ở đây của
cải xã hội là kết quả tổng hợp của cả một mô hình phát triển trong đó
lao động chỉ là một nhân tố trong nhiều nhân tố sản xuất, chứ không
phải là duy nhất, ở đây chỉ cần nói đến giá cả để có thể tính
toán trực tiếp trong việc làm ăn chứ không cần giá trị lao động
để lập thuyết dài dòng về những hình thức chuyển hoá, chỉ cần bàn về
chi phí sản xuất để nói chuyện lời lỗ một cách cụ thể trong kinh
doanh chứ không cần đưa ra khái niệm chi phí lao động về sản xuất
để tranh cãi triền miên về ý thức hệ v.v…
Tuy vậy cũng nên quan tâm đầy đủ rằng trong hàng ngũ những người nghiên
cứu Marx, vấn đề không hoàn toàn đơn giản. Nếu tính chất không tưởng
trong viễn cảnh giải phóng macxit ngày càng hiển nhiên thì không vì thế
mà có thể xoá bỏ luôn những phần phê phán tích cực của Marx đối với
phương thức sản xuất tư bản, chẳng hạn về phương diện xã hội học,
(một ý của Joseph A. Schumpeter trong Capitalísme, socíalísme et
démocratie, Payot, Paris, 1963) qua đó tìm ra được những yếu tố
thiết thực để giải quyết mối quan hệ lao động/tư bản có lợi cho giới cần
lao, mà mấu chốt là vấn đề bảo vệ sự bình đẳng pháp lý cho quyền tư hữu
lao động. Nếu nhớ lại những gì đã trình bày ở các phần trên, thiết nghĩ
đây là điều rất đáng coi là quan trọng vì trong biện luận của mình, Marx
đã nhân danh quyền tư hữu về kết quả của lao động, nhân danh
nguyên lý trao đổi ngang giá, và cả quyền bình đẳng trong pháp quyền
hiện đại để chống lại sự phóng chiếu lộn ngược được ông gọi là
cái “biện chứng ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản” mà ông
cho rằng tư bản đã thực hiện một cách phi pháp như chúng ta đã biết.
Nhận định này phải được coi là quan trọng vì, tuy không được Marx khai
triển đầy đủ, mặt khác “sự phóng chiếu lộn ngược” nói trên cũng cần phải
xác định lại nội dung, nhưng dù vậy ý nghĩa tích cực về mặt giá trị của
nó đã là đương nhiên, tồn tại trong tầng sâu của hiện thực, dựa
vào đó khi đối chiếu, so sánh, đã làm bật ra được ý nghĩa tiêu cực của
tầng biểu hiện với tư cách là sự biểu hiện có nội dung phủ
định,
đối nghịch với cái tiền đề xuất phát của nó. Nhận ra được giá trị tích
cực này trong bản thân đối tượng mà Marx phê phán, chúng ta cũng nhận
ra
được điểm tựa về mặt giá trị mà Marx dựa vào để thực hiện sự phê phán:
sự phê phán ấy vẫn không vượt ra khỏi được cái nền giá trị hàm chứa
trong đối tượng bị phê phán. Kết quả là khi được đặt trên cái nền giá
trị đó sự mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong phương thức sản xuất
tư bản (đối tượng phê phán của Marx) sẽ xuất hiện như một mâu thuẫn
cục
bộ nằm trong những mâu thuẫn tổng thể mang tính cơ cấu, nhiều mặt của
một mô hình phát triển, không duy nhất, bao trùm, giả định rằng giải
quyết được thì cũng thanh toán xong cái hình thức tồn tại của đối
tượng
phê phán. Khả năng giải quyết mâu thuẫn cục bộ đó do vậy cũng bao hàm
khả năng giải quyết mâu thuẫn đó một cách hiện thực và tương đối,
nghĩa
là ở bên ngoài cái logic không rào cản về triết học dẫn tới cuộc cách
mạng chung cuộc về lịch sử của Marx – và cũng do vậy tính chất hiện
thực
trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động theo phương hướng này có thể
được lý giải từ một hình thức lý luận nào đó vẫn còn dính dáng đến
Marx nhưng đã được tẩy trừ đi rất nhiều màu tư biện: lý luận này sẽ
tìm thấy tính chính đáng cho nó trong mối quan hệ pháp lý phổ quát ở đó
phương thức sản xuất tư bản tồn tại, coi đó là cơ sở để ngăn chặn mọi
hình thái vi phạm quyền tư hữu tài sản về lao động với tư
cách là một giá trị mà loài người đã đạt được qua thời gian.
Sự
phân biệt các tầng ý nghĩa trong lý luận của Marx về phương thức sản
xuất tư bản cũng sẽ quyết định chiến lược khác nhau về tranh đấu của các
từng lớp lao động làm thuê cho chủ tư bản. Chấp nhận đưa lên hàng chính
diện hình thức lý giải hiện thực (phi triêt học, phi tư biện) như đã nói
ở trên, phong trào lao động sẽ mang tính chất hoàn toàn thiết thực nhưng
không kém phần quyết liệt: nếu những cuộc đấu tranh trực tiếp của giai
cấp công nhân đương nhiên được xem là thiết thân để bảo vệ quyền lợi của
mình về mặt kinh tế thì, về phương diện ngoài kinh tế như Marx đã
từng đề cập, các cuộc đấu tranh mang nội dung xã hội và chính trị của
giai cấp công nhân, liên hiệp với tất cả mọi thành phần khác trong xã
hội công dân để ngăn chặn mọi độc quyền và thao túng của giai cấp
chủ tư bản trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, nhất là việc chiếm
đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thống trị, những cuộc đấu
tranh mang tính chất “quyền lực chống quyền lực” đó mới có ý
nghĩa quan trọng thật sự để những người lao động và những đồng minh của
họ thoát khỏi sự khống chế khắc nghiệt của tư bản. Định chế hiện đại về
chính trị lẫn xã hội đã quy định tất cả những điều đó trên mặt pháp lý,
các từng lớp đi làm thuê cho tư bản chắc hẳn phải biết khai thác để bảo
vệ quyền tư hữu tài sản của mình đồng thời cũng là quyền tư hữu nhân
thân của con người.
“Muốn chống lại “con rắn gây ra những nỗi thống khổ của họ”, công nhân
phải hợp nhất lại, và với tư cách là một giai cấp, họ buộc nhà nước phải
ban hành một đạo luật để làm một chướng ngại xã hội mạnh mẽ ngăn cản
ngay chính bản thân họ, thông qua một hợp đồng tự nguyện với tư bản, tự
bán mình và bán nòi giống mình vào chỗ chết chóc và nô lệ”
(Tư bản, Quyển I, Tập 1, Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 384).
Trong khi chờ đợi cuộc cách mạng vô sản giải phóng lao động sắp đến,
Marx đã khuyên chúng ta như vậy, và về phần mình, mặc dù không tin cuộc
cách mạng ấy sẽ có cơ sở hiện thực để xảy ra, cũng không coi tư bản
thuộc phạm trù rắn rết, chúng ta vẫn có thể nghe theo những lời khuyên
rất thực tế đó của ông đứng lên tranh đấu, không nhằm cứu vớt ai mà chỉ
để được sống như những người lao động mà cũng là những công dân lương
thiện, bình thường.
Xong ngày 5-9-2010
L.P
Tài liệu sử dụng
DAVID RICARDO:
On The Principles of Political Economy and Taxation
(1817)
http://www.econlib.org/library/Ricardo/ricP.html
– Bản tiếng Việt:Nguyễn Đức Thành &Nguyễn Hoàng Long: Những nguyên lý
của kinh tế chính trị học và thuế khoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002
Bản tiếng Pháp: Roger Dangeville: Fondements de la critique de
l’économie politique (Ébauche de 1857-1858), I&II, Editions
Anthropos, Paris, 1968, 1969;
Bản tiếng Việt: Các bản thảo kinh tế những năm 1857-1858 , Phần
II, “Báo diện tử Đảng Cộng sản Việt Nam” –
Bản tiếng Việt: Các học thuyết về giá trị thặng dư , Phần II,
“Báo diện tử Đảng Cộng sản Việt Nam” –
NHIỀU TÁC GIẢ:
Karl Marx’s Grundrisse– Foundations of the Critique of Political
Economy 150 years later (Edited by Marcello Musto, with a special
foreword by Eric Hobsbawm), Routledge, USA, 2009
NHIỀU TÁC GIẢ:
A Dictionary of Marxist Thought (Edited by Tom Bottomore),
Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts, 1983
BERNARD GUERRIEN, Nguyễn Đôn Phước dịch: Từ điển phân tích kinh tế,
Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007
LESZEK KOLAKOWSKI: Main Currents of Marxism [Translated from
Polish (1976) by P.S. Falla (1978)], W.W. Norton & Company, New York–
London, 2005
ANTONIO NEGRI:
Marx au-delà de Marx – Cahíer de travail sur le “Grundrisse”
(Traduit de l’italien par Rosane Silberman), Editions L’Harmattan,
Paris, 1979
DANIEL BENSAID: Marx – Mode d’emploi, Zones, France, 2009
TRẦN HẢI HẠC: Relire “Le Capital” – Marx, critique de l’économie
politique et objet de la critique de l’économie politique, Tome I,
Cahiers libres – Éditions Pages Deux, France, 2003
PAUL TREJO: “Summary
of Hegel's Philosophy of Mind”, 1993
Posted in: Chính Trị,Kinh Tế,Lữ Phương,Marx- Lenin
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét