Chỉ ba tháng sau khi bí thư riêng của mình, ông Matthews, bộ trưởng Hải quân Mỹ, đã kêu gọi Hoa Kỳ nên bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại Nga Bolshevik, Giáo hoàng Pius XII đã được chính Mẹ Đồng Trinh đến thăm riêng tại Vatican một cách lặng lẻ. Việc đó đã xảy ra trong tháng mười cùng năm ấy, 1950. Giáo hoàng Pius XII đã giữ kín trong một thời gian ngắn việc thăm viếng từ trời này. Sau đó sự việc đã được tiết lộ cho một vài thân cận trong Vatican, rồi tiếp đến, vốn là một chiến lược gia khéo léo, ông liền khởi động bộ máy tôn giáo với chủ đích giúp đở cho sách lược “cuộc chiến phòng ngừa” của ông Matthews.
Mục tiêu của Pius quả là một loại lô-gic. Một khi ông đã chắc chắn rằng hạt mầm chiến tranh của ông Matthews đã được chôn sâu vào trong tâm khảm của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự rồi, ông ta tự cho mình một nhiệm vụ là cấy chúng vào trong tâm khảm của hàng triệu giáo dân Ca-tô với hiệu quả không kém, không phải thông qua chính trị hay tuyên truyền, mà trực tiếp thông qua tôn giáo. Để đạt được điều đó, sau khi Mẹ Đồng Trinh đến thăm ông tại Vatican ông ra lệnh lễ hội Fatima, Bồ Đào Nha, sắp đến phải được dàn dựng vô cùng ngoạn mục. Các giáo lệnh của Giáo hoàng đã được thi thành theo đúng từng chữ. Năm sau, tháng mười, 1951, một cuộc hành hương khổng lồ với hơn một triệu người đã được tụ tập trước lễ đài.
Để đánh dấu tính cách khác biệt của lễ hội, Pius XII phái người đại diện riêng của mình, một hồng y cao cấp đến đấy. Ông giao cho hồng y Tedeschini một nhiệm vụ phi thường, ấy là tiết lộ cho hàng triệu giáo dân ngoan đạo rằng Mẹ Đồng Trinh đã đến thăm ông ta, Giáo hoàng Pius XII.
Và như thế trong một ngày của tháng mười, sau khi đã có một triệu người nối đuôi nhau, hát Ave Maria, đọc kinh Mân côi, và lại hát Kinh cầu nguyện, Hồng y Tedeschini đối diện với đám đông lớn, và bằng một giọng nói đầy xúc cảm, nghiêm trang tiết lộ cho giáo dân hành hương sửng sốt rằng, "một người khác đã nhìn thấy cùng một phép mầu này..." (nói đến phép lạ của Mẹ Đồng Trinh xuất hiện với ba trẻ em trong năm 1917 trước đây, khi mặt trời vận hành theo hình chữ chi trên trời.) "Ngài đã thấy nó ở bên ngoài Fatima," hồng y tiếp tục nói. “Vâng, Ngài đã thấy nó những năm sau đó. Ngài đã thấy nó ở Rome. Chính Đức giáo hoàng, Đấng chủ chăn của chúng ta, Pius XII... Đúng vậy ngài đã thấy điều ấy." [1] Rồi ông hồng y đã cho biết một vài chi tiết liên quan đến lúc nào và như thế nào phép lạ đã xảy ra. "Lúc 4 giờ chiều ngày 30 tháng mười, 1950," ông hồng y bảo (có nghĩa là, ba tháng sau khi tín đồ Ca-tô Matthews đọc bài diễn văn chiến tranh nguyên tử phòng ngừa), "Đức Thánh Cha ngắm nhìn mặt trời từ khu vườn Vatican, và kìa ... điều kỳ diệu của Thung lũng Fatima tái hiện trước mắt ngài." Và điều kỳ diệu gì vậy? Đây là những từ ngữ chính xác của ông hồng y, vốn đã được Giáo hoàng Pius XII đặc biệt gửi đến đó để tiết lộ câu chuyện cho thế giới:
Giáo hoàng Pius XII đã có thể chứng kiến cả đời sống của mặt trời (tác giả nhắc nhở: một quả cầu vĩ đại 866000 dặm đường kính đang cháy rực) . . . dưới bàn tay của Mẹ Mary. Mặt trời đã rung chuyển, toàn thân co giật, chuyển thành một hình ảnh của đời sống. . . trong một màn ngoạn mục của các chuyển động thiên giới . . . để truyền tải các thông điệp vô thanh mà hùng hồn đến Giáo hoàng.
Điều này đã không những xảy ra một lần, mà cả ba ngày liên tiếp: 30 và 31 tháng mười và 1 tháng mười một, năm 1950. Báo chí Ca-tô và hàng giáo phẩm đều hân hoan. Các nhà thần học Ca-tô, bao gồm cả Dòng Tên, đã cảm tạ Mẹ Đồng Trinh về đặc ân ấy. Lại nữa, vài người trong số họ, còn bình luận rằng Giáo hoàng Pius XII phải là một bậc đại thánh hơn là họ thường nghĩ, vì trong truyền thống Ca-tô dù đã có đầy những hiển thị (vision) trong đời của các tổ phụ, đồ đệ và tử đạo, nhưng không có nơi nào trong lịch sử Giáo hội hiện đại ghi lại trường hợp hiển thị của Giáo hoàng và được công bố trong khi Giáo hoàng còn sống.
Một triệu giáo dân hành hương trở nên mê sảng ngay khi ông hồng y tiết lộ. Vô số hàng triệu người Ca-tô trên thế giới cũng làm như thế. Nếu Mẹ Đồng Trinh đã xuất hiện trước Giáo hoàng, thì rõ ràng lời hứa của bà về việc Nga Bolshevik đang được cải đạo qua Giáo Hội Công Giáo đã sắp thành sự thật. Và làm thế nào các lời hứa đó được thành tựu nếu không phải thông qua "chiến tranh phòng ngừa" như các nhà lãnh đạo Ca-tô tại Hoa Kỳ đã rao giảng.
Khi Hồng y Spellman tích cực thúc đẩy Hoa Kỳ tham gia chiến tranh Việt Nam, giáo hội Ca-tô Hoa Kỳ nhấn mạnh đến thông điệp ý thức hệ của Fatima. Thông điệp này, hứa rằng nước Nga Soviet sẽ được cải sang đạo Công giáo, đã được sử dụng để xây dựng cảm tính chống-Nga và chống-Cộng.
Nó giúp thêm hương vị thần bí vào chính sách chống-Soviet của Hồng y Spellman và Giáo hoàng Pius XII. Theo đó hàng triệu tín đồ Ca-tô đã được tuyển dụng vào việc thúc đẩy Chiến tranh Lạnh và cuộc xung đột Việt Nam.
Ai là đại sứ? Tướng Mark Clark, một người bạn của Hiệp sĩ tối cao của Columbus, Bộ trưởng Hải quân Mỹ Matthews, cũng là bạn thân của Hồng y Spellman và Giáo hoàng Pius XII. Còn quan ngại hơn nữa, tướng Clark là Tham mưu trưởng của các lực lượng quân đội Mỹ. [3]
Mười ngày sau trong tháng mười một, năm 1951, đại sứ Mỹ đầu tiên tại Vatican lại là một trong những người lãnh đạo quân sự bận rộn chỉ đạo các thao diễn nguyên tử trong sa mạc Nevada, những buổi tập luyện đầu tiên chiến tranh hạt nhân trong lịch sử, trong đó nhiều đội quân đã đóng gần nơi nổ bom nguyên tử loại mới.
Gần như đồng thời, một nhân vật hàng đại sứ khác không kém quan trọng được giao một công tác mới. Ông George Kennan được bổ nhiệm làm đại sứ Mỹ tại Moscow. Ông Kennan không ai khác hơn là thủ lãnh của Ủy ban Giải cứu Nga, một cơ sở, như tên của nó ngụ ý, thiết lập để thúc đẩy việc giải phóng Nga khỏi chủ nghĩa Cộng sản – mà hầu hết các ủng hộ viên tất nhiên, là giáo dân Ca-tô hàng đầu.
Tân đại sứ mới không phải là người duy nhất chỉ đạo các cơ sở như thế. Vị đại sứ Mỹ, hồi đầu năm 1950 đã chào đón tượng Đức Bà Fatima hành hương đến Moscow, Đô đóc Kirk, sau đó là chủ tịch của Ủy ban Mỹ giải phóng dân tộc Nga.
Trong khi Pius XII bảo giáo chúng Ca-tô rằng Mẹ Đồng Trinh đã thông truyền với ông về việc nước Nga, và trong khi các tướng và đại sứ tạp nhạp của Mỹ chuẩn bị cho cuộc "giải phóng", một sự kiện ngoạn mục khác xảy ra. Trong tháng mười, 1951 (lưu ý cùng một tháng mà Pius tiết lộ các phép lạ của ông ta), các sạp báo ở Mỹ và Châu Âu đã tràn ngập hơn bốn triệu bản của một tạp chí hàng đầu Hoa Kỳ, tờ Colliers. Toàn bộ nội dung đến hơn 130 trang in hẹp, đã được dành riêng cho . . . chuyện gì? Cho cuộc chiến tranh nguyên tử chống Nga Soviet sắp đến. Cuộc chiến tranh, mà nó dự đoán, sẽ bắt đầu trong năm 1952. Nga sẽ bị đánh bại và chiếm đóng. Sau khi "giải phóng", có thể xảy ra vào năm 1955, trong khi công việc tái dựng kinh tế sẽ được giao cho các tập đoàn tài phiệt Hoa Kỳ, nền tự do tôn giáo sẽ được công bố. [4]
Tất nhiên, tự do tôn giáo có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo, mà nó đã từng chuẩn bị cho việc ấy, sẽ có những miếng chia chát lớn, và do sự giúp đỡ của Mẹ Đồng Trinh Fatima và của giáo dân Ca-tô Mỹ, thì rõ ràng sẽ dành độc quyền (tự do tôn giáo). “Sự cãi đạo” của Nga, như dự đoán của Mẹ Đồng Trinh như thế sẽ trở thành hiện thực.
Ở Đông Âu, các nhà thờ Ca-tô tràn đầy giáo dân cầu nguyện cho một "cuộc chiến tranh giải phóng." Ở phương Tây, giáo dân Ca-tô cũng làm như thế. "Có cái gì đó thật quái gỡ khi cầu nguyện cho chiến tranh," một cơ quan lãnh đạo Ca-tô bình luận, "nhưng chúng ta sẽ không hiểu được lịch sử hiện đại, nếu chúng ta quên mất rằng đó là những gì hàng triệu “người Ca-tô tốt" đang làm.” [5]
Để thúc đẩy hơn nữa nhiệt huyết Công Giáo cho một "cuộc chiến tranh giải phóng", vài tháng sau “phép lạ” của Pius XII, cơ quan chính thức của Vatican, tờ Osservatore Romano, đăng lại với tất cả thẩm quyền to lớn là như thế nào mà Pius XII đã thực sự chứng kiến một "phép lạ của mặt trời," như lời nói của Hồng y Tedeschini khi ông kể lại câu chuyện ở Fatima, Bồ Đào Nha, ngày 13 tháng mười, 1951.
Và để chứng minh sự xác thực của phép lạ, tờ báo của Giáo hoàng đã công bố trên trang đầu hai tấm ảnh "đúng đắn nghiêm túc" cho thấy điều kỳ diệu ở Fatima. Các chú thích còn chắc như đinh đóng cột rằng: "Vào lúc 12 giờ sự hiển thị bắt đầu. Hai mươi phút sau, mưa tạnh dần và ngay sau đó có tiếng la lên: ‘Hãy nhìn mặt trời!’ Hai tấm ảnh 'đáng tin’ rõ ràng cho thấy một đốm đen trong mặt trời gây ra bởi sự quay nhanh của nó, và mặc dù những hình ảnh đã được chụp lúc 12:30 chiều, vị trí của mặt trời đã nằm hầu như ngang với chân trời," "Vị trí này," tờ Osservatore Romano tỉnh táo nhận xét, "khó có thể có được vào giờ mà các hình ảnh đã được chụp lúc 12:30 chiều."
Nói cách khác, mặt trời đã nằm trên đường chân trời cho một mặt trời bình thường đang ở giữa trưa. Ngay cả một phép lạ to lớn hơn mà tờ Osservatore, thiếu chứng cớ, đã không đề cập đến, là phần còn lại của nhân loại không hề thấy mặt trời rơi xuống đến đường chân trời vào giữa trưa ngày 13 tháng mười, năm 1917, trừ ông phó nhòm.
Tờ Osservatore sau đó còn kể lại "một sự kiện khác đáng kinh ngạc" đã xảy ra tại Vatican ba mươi năm sau (đó là, trong năm 1950): "Vào thời điểm khi toàn gia đình Công giáo vui mừng, hiệp làm một với Giáo hoàng, trong định nghĩa giáo điều về Đức Mẹ lên trời” (đó là, giáo điều thân xác lên trời của Mẹ Mary, định nghĩa của Pius XII trong năm 1950) - tờ Osservatore nhận định trong một tóm lược ngắn gọn đầy thẩm quyền: "Đó không phải là nhiệm vụ của chúng tôi để đưa ra sự suy diễn cho những sự kiện tương tợ ... nhưng những sự can thiệp của Đức Mẹ thường xuyên xảy ra trong những ngày đen tối nhất của lịch sử Giáo Hội, bằng với các chỉ dấu dàng riêng cho kẻ kế vị thánh Peter." [6]
2. Xem Daily Mail, 15 tháng 10, 1951.
3. Tổng thống Truman sau đó đã phải hủy bỏ việc bổ nhiệm, dưới áp lực của công chúng.
4. Xem Colliers (Số đặc biệt) tuần cuối của tháng mười 1951.
5. Lãnh đạo của Vũ trụ, 30 tháng ba, 1951.
6. Xem số ấn hành bất thường của Osservatore Romano, 17 tháng 11, 1951. Xem thêm Viên thuốc và các cơ quan Công giáo. Hình ảnh của mặt trời đã được tái tạo bởi báo chí Mỹ; ví dụ, Time Magazine, 3 tháng mười hai, 1951.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét