(và một số bài tranh luận)
Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015
Trả Lời Ông Đinh Từ Thức
17:03
Hoàng Phong Nhã
No comments
TƯỞNG
NHỚ MỘT NGƯÒI ANH EM
(và một số bài tranh luận)
(và một số bài tranh luận)
Lữ Phương
7. Trả Lời Ông Đinh Từ Thức
1.
Bài “Lịch
sử cứt chồn” của ông Đinh Từ Thức (talawas 19-10-2006) có hai ý
căn bản. Ý thứ nhất: phản ứng quyết liệt bài phản biện của
tôi (“Đàng sau một câu trả lời…’”, talawas 16-9-2006) về mặt
phương pháp lập luận của ông cho rằng miền Bắc đã có ý đồ
xâm lược miền Nam bằng võ lực ngay sau khi Hiệp định Genève vừa ký
kết (“Ai
phá hoại hiệp định Genève?”, talawas 7-9-2006). Ý thứ hai:
phê bình điều ông cho là xuyên tạc, không trung thực của tôi khi
viện dẫn một số câu của The New York Times tường trình Hồ sơ
mật để phản biện về mặt nội dung với lập luận của ông,
sau đó căn cứ vào chính Hồ sơ mật ấy, bảo vệ một cách tổng kết cho ý
kiến của ông về Hiệp định Genève nói trên.
2.
Trước hết, xin trả lời ý thứ nhất của ông Đinh Từ Thức, với
mấy nhận xét sau đây:
Những gì ông nói thêm về việc miền Bắc toan tính dùng võ lực để thôn
tính miền Nam ngay khi Hiệp định Genève vừa ký kết, về căn bản,
không có gì mới và thuyết phục hơn so với những gì ông đã trình bày
trước đó. Hai yếu tố: khách quan (điều kiện chính trị sau 1954) và
chủ quan (chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam) mà tôi nêu ra để
phản biện, với hàng loạt những vấn nạn phi lí về hậu quả do phương
pháp lập luận của ông tạo ra vẫn chưa được ông nhận thấy cần quan
tâm để trả lời thoả đáng [1].
Vấn đề lịch sử đó tôi cho như thế là đủ, ở đây xin được nói một chút
về phản ứng của ông với khái niệm “chống cộng thánh chiến” chủ đề
của bài thảo luận lần trước của tôi. Xin được xác định dứt
khoát rằng tôi chỉ sử dụng khái niệm ấy theo nội dung của cái ý thức
hệ Chiến tranh Lạnh ra đời trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên xô sau
Thế chiến II thế kỷ trước; được hai bên (cộng sản và chống cộng) sử
dụng như một phương pháp tuyên truyền tâm lý chiến, ý thức hệ ấy đưa
vào nghiên cứu đã dẫn đến những kết quả làm sai lạc tính chất hiện
thực vốn có của những hiện tượng lịch sử trong đó Hiệp định Genève
là một thí dụ.
Tôi không hiểu rõ tại sao khi đọc bài viết của tôi, ông lại tiếp
nhận nội dung khái niệm ấy như thủ đoạn của một hình thức “cộng sản”
nào đó và lại nhằm vào cá nhân ông (như đấu tố, quy thành phần kiểu
thời cũ …hoặc kiểu công an ngày nay). Xin được khẳng định rằng nội
dung tiếp nhận ấy của ông là không dính dáng gì đến chủ đề thảo luận
và cũng hoàn toàn xa lạ với quan điểm chính trị, văn hoá đã bộc lộ
trong bài viết lần trước của tôi. Tôi không cần phải nói thêm về
điều hiển nhiên này, chỉ đề nghị ông Đinh Từ Thức bình thản và khách
quan hơn một chút để cuộc thảo luận của chúng ta đi sâu được vào
tính chất học thuật cần có của nó.
3.
Bây giờ tôi xin bàn với ông về ý thứ hai và tôi tin rằng sẽ
dễ dàng hơn do lẽ tất cả đều xoay quanh những văn bản có thể kiểm
chứng được: đó là Hồ sơ mật Ngũ giác đài mà tôi đã nêu ra lần trước.
Có
một vài từ ngữ ông Đinh Từ Thức dùng để nói về Hồ sơ mật ấy đáng
được chú ý. “Mật ông”: những tài liệu nội bộ do Nhà nước Mỹ bảo
quản, không cho tiết lộ, ở đây là những văn bản tìm thấy ở kho tư
liệu Bộ Quốc Phòng liên quan đến vấn đề chiến tranh Việt Nam. “Mật
cha”: Hồ sơ mật của Ngũ giác đài (mang tên “History of U.S
Decision-Making Process on VietNam Policy “) do Bộ trưởng Bộ quốc
phòng Hoa Kỳ McNamara chỉ thị sắp xếp, diễn giải có hệ thống dưới
hình thức một bộ sử tìm hiểu quá trình Mỹ can thiệp vào Việt Nam từ
sau Thế chiến II đến 1968. “Mật cháu”: những bài báo do The New
York Times (trong trường hợp đang bàn luận là ký giả Fox
Butterfield) tường trình tóm tắt từ tài liệu “Mật cha” nói trên để
giới thiệu với độc giả khi tài liệu ấy bị Daniel Ellsberg tiết lộ
vào năm 1971.
Cách đặt tên tài liệu nói trên của ông Đinh Từ Thức đã bộc lộ một ý
định chủ quan về đẳng cấp thông tin đối với các hình thức đã xuất
hiện của Hồ sơ mật nói trên. Tuy xem “Ông” đáng tin hơn “Cha” nhưng
ông Đinh Từ Thức lại chỉ dựa vào “Cha”, coi những thứ hậu duệ của
“Cha” là thấp hơn. Điều này đã được ông Đinh Từ Thức nhấn mạnh bằng
một hình ảnh diễn đạt rất ấn tượng: nếu coi tài liệu “Cha” là những
hạt cà phê nguyên chất thì những thứ tài liệu “Cháu” kiểu của Fox
Butterfield chỉ đáng gọi là những hạt cà phê do chồn ăn và thải ra,
như người ta thường gọi là “cà phê cứt chồn”! Bạn đọc nào tò mò truy
về nguồn gốc của thứ cà phê này (tiếng Indonesia là “Kopi Luwak”) ắt
sẽ thấy cái hàm ý thêm vào cho khái niệm này của ông Đinh Từ Thức là
rõ rệt [2] .
Từ
chỗ là “Ông”, là “Cha”, ông Đinh Từ Thức đã tắp thêm vào đó hình ảnh
“cứt chồn” để nói về những người có những giải thích lịch sử không
giống ông. Cách chơi chữ thô sơ ở đây đã giúp ông làm điều đó. Khởi
đầu là với Fox Butterfield, như ông đã diễn giải: ”Ký giả
Butterfield có tên gọi là Fox. Người Việt Nam gọi fox là con chồn,
một con vật khá tinh ranh”! Như vậy khái niệm “Lịch sử cứt chồn”
trong sự chơi chữ của ông Đinh Từ Thức đã mang ý nghĩa khinh mạn
không giấu giếm: một thứ lịch sử đã bị làm cho biến dạng qua ruột
già của một con chồn thải ra như một thứ cặn bã, nhưng lại được nhà
báo tên Fox Butterfield thưởng thức thú vị và “tinh ranh” gọi đó là
“gin”! Một tính cách “chồn” như vậy theo ông Đinh Từ Thức là đồng
nghĩa với tính cách “thiếu trung thực” của một ngòi bút.
Ông Đinh Từ Thức đã dẫn lại câu sau đây của Fox Butterfield (mà tôi
đã dẫn và dịch ra tiếng Việt) để chứng minh:
*“Nghiên
cứu mật của Ngũ Giác đài về chiến tranh Việt Nam nói quan điểm chính
thức của chính phủ Mỹ cho rằng cuộc chiến được áp đặt cho Nam Việt
Nam là do sự xâm lược từ Hà Nội là “không hoàn toàn thuyết phục”.
Các chính quyền kế tiếp nhau ở Washington, từ John F. Kennedy đến
Richard M. Nixon đã sử dụng cách giải thích về nguồn gốc chiến tranh
này để biện minh cho sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. **
Nhưng những thẩm định của tình báo Mỹ trong những năm 1950 chứng tỏ
rằng cuộc chiến đã khởi đầu phần lớn là một cuộc nổi loạn ở miền Nam
để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên áp bức và thối
nát”?
(The Pentagon Papers, bản của The New York Times, Bantam Books, Inc,
1971, tr. 67).
Ông chú ý đặc biệt đến đoạn đánh dấu* để cho rằng Fox
Butterfield đã thuật lại không đúng với tài liệu “Mật cha”. Tác giả
của tài liệu gốc này khi phân tích về việc miền Bắc can thiệp vào
miền Nam đã đưa ra ba khả năng: A) Đã can thiệp vào miền Nam để phản
ứng lại việc Mỹ leo thang, đặc biệt vào đầu năm 1961 thời Kennedy ,
B)) Đã hoàn toàn thao túng
cuộc chiến. Lập trường chính thức này của Hoa Kỳ, có thể bênh vực
được, nhưng lại “không hoàn toàn thuyết phục”, đặc biệt là
vào những năm 1955-1959. C) Đã thừa cơ hội nhẩy vào cuộc nội
chiến đang diễn ra năm 1959, trước khi và độc lập với việc
leo thang của Hoa Kỳ. Trong ba khả năng kể ra đó, người viết lịch sử
chiến tranh của Ngũ giác đài đã loại khả năng thứ nhất và phán đoán
rằng “sự thật nằm trong khoảng giữa lựa
chọn B và C”.
Như vậy, có đúng hay không khi căn cứ vào đó ông Đinh Từ Thức đã
viết ra một câu chắc nịch như sau về ký giả Fox Butterfield của
The New York Times: “Từ ba giả định dè dặt, không có kết luận
dứt khoát, Fox Butterfield đã chỉ đề cập tới một lựa chọn B, nhặt
lấy ba chữ not wholly compelling (không hoàn toàn thuyết phục),
viết lại theo quan điểm phủ nhận của mình, nhưng vẫn nói đó là
quan điểm từ bản nghiên cứu mật của BQP. Sự thiếu trung thực của
ngòi bút Fox Butterfield đã lộ rõ ràng”? Đem những gì Fox
Butterfield viết trong “Mật cháu” so sánh” với “Mật cha” (theo chữ
dùng của ông Đinh Từ Thức), tôi thấy điều ngược lại mới phải: chính
ông mới là người viết lại Butterfield theo quan điểm của ông bằng
cách gán cho Butterfield những điều không có.
Ký
giả của The New York Times không hề có ý định xuyên tạc Hồ sơ
mật của Ngũ giác đài bản gốc khi chỉ nói đến cái khả năng B
mà tài liệu này đã cho là “not wholly compelling”. Bởi vì việc tường
trình ấy chỉ có ý nghĩa để nói về trường hợp các chính phủ Mỹ kế
tiếp nhau ở Washington, từ John F. Kennedy đến Richard M. Nixon
chỉ chính thức dựa vào khả năng B (chứ không xét đến những khả năng
khác) cốt để biện minh cho sự can thiệp của họ vào Việt Nam, và chỉ
trong trường hợp đó thì mấy chữ “not wholly compelling” mới đúng như
nhận định của Hồ sơ mật bản gốc đã viết. Ý kiến của ông Đinh Từ
Thức, chỉ trích Fox Butterfield đã viết lại Hồ sơ mật “theo quan
điểm phủ nhận của mình, nhưng vẫn nói đó là quan điểm từ bản nghiên
cứu mật của BQP” là một ý kiến không đúng xét về mặt so sánh văn
bản [3].
Cũng không thể gọi là đúng, ý kiến của ông Đinh Từ Thức cho rằng ba
khả năng mà Hồ sơ mật nêu ra là “ba giả định dè dặt, không có kết
luận dứt khoát” nhưng Fox Butterfield “đã chỉ đề cập tới một
lựa chọn B” theo ý của mình, bởi vì Hồ sơ mật khi “phán đoán” rõ
ràng đã loại bỏ hẳn khả năng A để đi tìm sự thật và sự thật ấy được
cho rằng “nằm trong khoảng giữa lựa chọn B và C”.
Và điều đó có
nghĩa là sự thật về việc miền Bắc can thiệp vào miền Nam là như sau:
sự can thiệp ấy chỉ diễn ra rõ rệt từ 1959 trở đi
chứ không phải từ 1955 (như quan điểm chính thức của Hoa kỳ) hoặc từ
khi Hiệp định Genève vừa ký xong (như ý kiến của ông Đinh Từ Thức).
Thật minh bạch: dù được điều chỉnh bằng khả năng C để phù hợp thực
tế hơn nhưng tính chất “hoàn toàn không thuyết phục” của khả năng B
vẫn không hề suy giảm. Con số 1959 ở đây là cái mốc quan
trọng làm cho quan điểm chính thức của các chính phủ Mỹ bị nghi ngờ.
Lời kết án của ông Đinh Từ Thức với ký giả Fox Butterfield là không
có cơ sở.
4.
Có
một việc khác cần quan tâm đặc biệt trong việc ông Đinh Từ Thức chỉ
trích ký giả Fox Butterfield. Ông đã cắt rời phần đánh dấu *
ra khỏi phần đánh dấu ** trong cả đoạn đã dẫn để chỉ trích,
trong khi theo cái mạch lập luận của hai phần * và **
tồn tại bên nhau thì phần ** là không thể thiếu được để tạo
ra cái lôgích cho một ý tưởng thống nhất được diễn tả trong cả đoạn
văn. Và cái ý tưởng thống nhất ấy là: việc chính phủ Hoa Kỳ dựa vào
khả năng B để biện hộ cho chính sách can thiệp của họ vào Việt Nam
sở dĩ “không hoàn toàn thuyết phục” là do những quyết định đường lối
dựa vào khả năng ấy đã đi ngược lại với những thẩm định của tình báo
Mỹ trong những năm 1950 chứng tỏ rằng cuộc chiến đã khởi đầu
“phần lớn là một cuộc nổi loạn ở miền Nam để chống lại chế độ Ngô
Đình Diệm ngày càng trở nên áp bức và thối nát”. Sự nhất quán
của cái dòng chảy lôgích ở đây là quá rõ rệt: cuộc nổi dậy ở miền
Nam đã bắt nguồn trước hết từ những áp bức và thối nát nội
tại của miền Nam dưới chính quyền Ngô Đình Diệm bấy giờ chứ
không phải như quan điểm chính thức của các chính quyền Mỹ cho là
“hoàn toàn do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thao túng”
[4].
Việc cắt rời cả một mạch ý tưởng trong một đoạn văn mà ông Đinh Từ
Thức đã làm để chứng tỏ tính chất “chồn” của một ký giả “người Mỹ
chống Mỹ” có tên là Fox Butterfield đã mở rộng thêm sự sai lầm của
ông Đinh Từ Thức và đẩy ông đến một tình thế bị đảo ngược với mấy
điểm chính yếu sau đây:
Lịch sử mà Fox Butterfield đã tóm tắt lại một cách giản lược theo
kiểu báo chí trong The New York Times vẫn trung thành với
những điểm căn bản của Hồ sơ mật của Ngũ giác đài bản gốc. Khái niệm
“cứt chồn” theo nghĩa ông Đinh Từ Thức dùng để nói về cách viết lịch
sử của ký giả có tên “Fox” đã trở thành một sự châm chích mang ý
nghĩa xúc phạm.
Kết luận mang tính chất suy diễn về lý lịch chính trị đối với Fox
Butterfield cũng có ý nghĩa như vậy: theo lập luận của ông Đinh Từ
Thức thì một người Mỹ theo đường lối chống lại cuộc chiến tranh do
chính quyền tiến hành vào Việt Nam cũng là một “người Mỹ chống Mỹ”
và nếu làm báo thì cũng là một ngòi bút “thiếu trung thực”. Không
cần nói nhiều, ai cũng biết thực tế nhất thiết không có những liên
hệ tất yếu giữa những sự kiện ấy.
Theo cái cách mà ông Đinh Từ Thức phê phán Fox Butterfield thì khi
dựa vào những gì mà ông Đinh Từ Thức đã viết, sự “thiếu trung thực”
ấy phải trả về cho ông mới đúng: không cần nói lại thái độ chống
cộng thánh chiến nay cộng thêm thái độ chống cả những người Mỹ phản
chiến của ông, chỉ xét cái cách đọc không kỹ, hiểu sai ý nghĩa, cắt
xén ý tưởng đối với văn bản của ông Đinh Từ Thức, ông đã phạm vào
những sai lầm rất căn bản, sơ đẳng, tối kỵ vớí những ngưới nghiên
cứu nghiêm chỉnh.
Với những sai lầm trên đây, ông Đinh Từ Thức đã dẫn quan điểm lịch
sử của mình đến chỗ sụp đổ hoàn toàn về mặt lập luận: ông đã cố ý
xuyên tạc ý nghĩa của cái nguồn tài liệu mà ông gọi là “Mật cha”
(bản gốc của Hồ sơ mật của Ngũ giác đài), dựa và đó để chỉ trích
người khác và tự bảo vệ. Qua những gì đã viết ở trên thì chứng minh
cho điều này không có gì là khó: tất cả đều đã bộc lộ trong phần
** của đoạn văn tổng thể của Fox Butterfield mà ông Đinh Từ Thức
đã cố ý bỏ qua: “… những thẩm định của tình báo Mỹ trong những
năm 1950 chứng tỏ rằng cuộc chiến đã khởi đầu phần lớn là một cuộc
nổi loạn ở miền Nam để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ngày càng trở
nên áp bức và thối nát”. Vấn đề chỉ là xét xem những gì
Fox Butterfield đã tường trình về những “thẩm định của tình báo Mỹ”
trong bài viết của mình là như thế nào, sau đó đem so những tường
trình ấy với Hồ sơ mật bản gốc là biết kết quả.
Trước khi đụng tới cuốn lịch sử gốc của Ngũ giác đài (ông Đinh Từ
Thức gọi là “Mật cha”) chúng ta hãy đọc một vài đoạn ký giả “Fox” đã
viết trong Chương 2 có tên “Origins of the Insurgency in South
Vietnam” trong The Pentagon Papers của The New York Times
1971, (trang 67-114) mà tôi dẫn ra đây theo bản dịch của tạp chí
Trình bày ở Sài gòn, số 30 ngày 22-10-1971:
·
“Các viên chức ở Saigon, kể cả những người ở toà
Đại sứ, Cơ quan Tình báo Trung ương và Bộ chỉ huy quân sự đều hoàn
toàn hiểu rõ những khuyết điểm của Tổng thống Diệm. Họ vẫn đều đặn
phúc trình về Hoa-thịnh-đốn rằng ông Diệm là một người “chuyên đoán,
rất cứng cỏi và xa cách”, rằng ông ta chỉ giao quyền hành cho những
người ở trong chính gia đình của ông ta và ông ta đã khiến cho mọi
thành phần trong dân chúng oán ghét vì những chính sách đàn áp của
ông ta” (tr. 60).
·
“Từ 1954 tới 1958, Bắc Việt chú tâm vào việc phát
triển nội bộ, rõ ràng là họ hy vọng đạt được sự thống nhất hoặc là
cuộc tuyển cử đã được dự liệu trong thoả hiệp ở Genève hoặc là qua
sự sụp đổ tự nhiên của chế độ yếu kém của ông Diệm. Cộng sản đã để
lại một bộ máy sơ sài của họ ở miền Nam khi họ tập kết ra Bắc vào
năm 1954 sau khi cuộc chiến tranh với người Pháp kết liễu, thế nhưng
các cán bộ của họ đã được lệnh chỉ tham gia cuộc “đấu tranh chính
trị” mà thôi” (tr. 60).
·
“Trong cái gọi là chiến dịch Tố cộng khởi sự vào
mùa Hè năm 1955, có từ 5.000 đến 10.000 người bị tống vào các trại
giam giữ. Thế nhưng theo phần thuật sự thì có nhiều người trong số
bị giam giữ này không hề là cộng sản” (tr. 64).
·
“Một tài liệu bắt được vào đầu năm 1955 của một
cán bộ CS phụ trách hoạt động tại chỗ, và được Cơ quan Tình báo
Trung ương (CIA) gửi về Hoa-thịnh-đốn, cảnh cáo rằng “lúc này không
phải lúc đương đầu với địch”. Bộ nghiên cứu nói: rõ ràng những người
cộng sản đã tin rằng họ sẽ kiểm soát được xứ sở hoặc là qua cuộc
tuyển cử hoặc là do sự sụp đổ của chế độ Diệm vì chính sự yếu kém
của chế độ đó” (tr. 65).
Còn có thể thêm nhiều đoạn tương tự, cũng với nội dung tương tự, do
các cơ quan nghiên cứu khác cung cấp cho chính quyền Mỹ được Fox
Butterfield tường trình theo Hồ sơ mật bản gốc. Bây giờ chúng ta hãy
mở bản Hồ sơ mật gốc ấy ra xét xem điều mà ông Đinh Từ Thức chê
trách Fox Butterfield là một ngòi bút “thiếu trung thực” có đúng hay
không. Hồ sơ này đã được lên mạng, gốc là một cuốn sách cũng có tên
The Pentagon Papers ( Boston: Beacon Press, 1971), gọi là “ấn
bản thượng nghị sĩ Gravel”, gồm 4 tập, riêng vấn đề cần đọc ở đây
thuộc Tập 1, Chương 5, có nhan đề “Origins of the Insurgency in
South Vietnam, 1954-1960”, gồm 3 sections (sect. 1 tóm tắt, sect. 2,
3 diễn giải đầy đủ chi tiết) [5]. Khi viết bài phê bình ông Đinh Từ
Thức lần trước, tôi đã tải về chương sách trên, có đọc qua, nay kiểm
tra lại thì thấy có sự ăn khớp rõ ràng về nội dung giữa tài liệu thứ
cấp với tài liệu sơ cấp đó. Tất cả đều khẳng định những gì Fox
Butterfield đã tường trình và đi ngược lại những ý kiến của ông Đinh
Từ Thức về nguồn gốc cuộc chiến tranh ở miền Nam trong hai năm đầu
sau Hiệp định Genève [6]. Đề nghị bạn đọc vào:
Vietnam web site ( tại Mount Holyoke College), hoặc địa chỉ mạng
sau đây để kiểm tra:
Ông Đinh Từ Thức tưởng tôi chưa biết tài liệu này nên đã nhắc đến
như một con chủ bài và đặt cho nó một cái tên “Mật cha” đầy ý nghĩa
(nhiều khi ông còn cho đi chung với “Mật ông” cho thêm phần bề thế),
dựa vào đó hết mực tự tin chỉ trích Fox Butterfield qua đó chỉ trích
tôi. Nhưng ông đã làm tôi ngạc nhiên tột độ, với một tài liệu được
ông coi là “tủ”, không hiểu sao ông lại vấp phải những sai lầm quá
trầm trọng như vậy.
5.
Căn cứ vào bản Hồ sơ mà ông Đinh Từ Thức gọi là “Mật cha” này, tôi
đã viết xong một đoạn tranh biện tiếp với ông về điều mà ông gọi là
“tổng hợp thông tin
từ
bài của ông Võ Văn Kiệt, với những tài liệu Mật ông, Mật cha của BQP
Mỹ”
để diễn giải quá trình miền Bắc dùng võ lực xâm chiếm miền Nam ngay
từ khi Hiệp định Genève chưa ráo mực. Nhưng khi đọc lại những gì đã
viết ở trên, tôi đã bỏ đi vì thấy thừa thãi nên dành những dòng còn
lại nói đến trường hợp của tôi một chút bởi vì với ông Đinh Từ Thức,
tôi mới là đối tượng chỉ trích chính yếu: nếu lịch sử viết theo Fox
Butterfield chỉ là loại “cà phê cứt chồn” thì với tôi, khi viện dẫn
một câu “cứt chồn” của Butterfield mà lại bỏ đi 4 chữ khi dịch tiếng
Việt, thứ lịch sử ấy chỉ đáng gọi là lịch sử “cứt chồn sái nhì”
thôi! Cũng là “thiếu trung thực” nhưng sự “thiếu trung thực” của tôi
còn tệ hại hơn Butterfield một bậc!
“Without
U.S. aid in the years following, the Diem regime certainly, and
an independent South Vietnam almost as certainly, could
not have survived...”
Đó là câu mà ông Đinh Từ Thức cho là của Fox Butterfield và đã bị
tôi viện dẫn bằng cách dịch ra tiếng Việt có bốn 4 chữ in đậm bị bỏ
đi. Xin nói ngay với ông Đinh Từ Thức điều này:
câu văn ấy trong The Pentagon Papers đã được Fox
Butterfield đóng trong ngoặc kép, nối liền với ba câu khác trước đó
cũng như vậy, có xen vào giữa những dòng trong ngoặc kép ấy là mấy
chữ the analyst says không đóng trong ngoặc kép – như
“Without U.S support,”, the analyst says, “Diem almost
certainly could not have consolidated his hold on the South during
1955 and 1956…” – điều đó cho thấy những câu trong ngoặc kép ấy
không phải là của Fox Butterfield mà chỉ là những câu được Fox
Butterfield dẫn lại từ tài liệu “Mật cha” mà ông Đinh Từ Thức cho là
đã tường tận. Nhưng thay vì đọc kỹ để kiểm tra thì ông lại vội vàng
đem gán cho ông “Fox”!
Nhưng chúng ta hãy bỏ qua điều đó để xét xem việc tôi không dịch 4
chữ in đậm ấy có thật sự trầm trọng để ông Đinh Từ Thức vin vào đó
đặt vấn đề “trung thực” về mặt chính trị đối với ngòi bút của tôi
hay không. Có phải tôi đã cố ý làm như vậy để xuyên tạc ý tưởng của
Fox Butterfield – thật sự là của “Mật cha”– như ông cho rằng 4 chữ
ấy giả định “đã có sự tồn tại của “một miền Nam độc lập”,
dù phải nhờ vào viện trợ Mỹ”? Tôi thấy đây chỉ là một giả định
siêu tưởng. Cho rằng miền Nam có độc lập đi nữa nhưng rõ ràng, theo
lập luận của “Mật cha” , nếu không có viện trợ Mỹ thì cái miền Nam
độc lập ấy không thể nào tồn tại được trên thực tế. Và trên thực tế
sự giúp đỡ của Mỹ cho miền Nam đâu phải chỉ là kinh tế mà là một
chính sách tổng thể, bao gồm nhiều mặt như “Mật cha” đã kể ra qua sự
thuật lại của Fox Butterfield trong câu dẫn, tất cả đã tạo thành một
sức ép khống chế, thao túng làm cho cái thực thể miền Nam ấy trở
thành “một sáng tạo của Hoa Kỳ”! Trong cái mạch lập luận ấy thì làm
sao có thể giả định sự tồn tại của một miền Nam độc lập chỉ nhờ vào
viện trợ về kinh tế?
Trong sự chỉ trích nhỏ nhặt này, sự cắt xén văn bản để suy diễn lặt
vặt của ông Đinh Từ Thức cũng đã được lập lại. Ông không vượt lên
những chi tiết để thấy rằng trong cái mạch tổng thể của cả một đoạn
sau đây do tôi dẫn ra chỉ với câu mào đầu: “Mọi thứ đều trở nên minh
bạch, một lần nữa lại qua tường trình về Hồ sơ mật của Ngũ Giác đài:
“Không
có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững
được ở miền Nam (…) Không có sự hăm doạ can thiệp của Mỹ, Nam Việt
Nam không thể nào từ chối hiệp thương tổng tuyển cử 1956 do Hiệp
định Genève quy định mà không bị tràn ngập tức khắc bởi quân đội
Việt Minh (…) Không có viện trợ của Hoa Kỳ những năm sau đó, chế độ
Diệm không thể nào sống sót được (…) Nam Việt Nam về bản chất là một
sáng tạo của Hoa Kỳ” (The Pentagon Papers, tr. 25),
cái đoạn dẫn ấy nó tự đứng được một mình, không cần một lời bình
phẩm, diễn giải nào để làm tăng hay làm nhẹ đi mấy chữ cuối cùng nói
về một cái thực thể chính trị được xem là kết quả của “một sáng
tạo của Hoa Kỳ” – trong đoạn dẫn như vậy, dù có bỏ sót hay thêm
vào cho đầy đủ mấy chữ “độc lập” thì ý nghĩa của nó vẫn không hề suy
suyển: đã là “một sáng tạo của Hoa Kỳ” thì cái miền Nam ấy nếu không
được Hoa Kỳ yểm trợ về mọi mặt thì chắc chắn không thể nào tồn tại
được, dù “độc lập” hay không “độc lập”. Mấy chữ “thiếu trung thực”
mà ông Đinh Từ Thức sử dụng ở đây vẫn chỉ là kết quả của suy diễn,
gán ghép.
6.
Trong bài của ông Đinh Từ Thức, tôi thấy có khá nhiều điều ông gợi
ra cần được bàn thêm, mà nếu bàn thêm tới nơi tới chốn thì rất bổ
ích, chẳng hạn như chuyện “chống lại những thông tin với nội dung
không phù hợp với nếp suy nghĩ cũ”, chuyện “cập nhật hiểu biết”,
chuyện những người mù “không nên tiếp tục nhắm mắt sờ lịch sử”,
chuyện những người cộng sản tốt, cộng sản xấu… tất cả đều hấp dẫn,
nhưng rất tiếc tôi xin gác lại một dịp khác. Có lẽ do “bị” đọc hơi
nhiều những sai lầm về văn bản trong bài viết của ông mà tôi đã chìm
sâu vào việc phân tích, đối chiếu kiểu tầm chương trích cú nên không
còn thì giờ để nói thêm về những chuyện vô cùng trọng đại ấy. Dù sao
tôi cũng mong được ông tiếp nhận mấy ý kiến thô lậu trên đây như là
một bước dọn đường cần thiết cho việc thảo luận những vấn đề do ông
gợi ra có được thực chất nhiều hơn, nếu ông muốn chúng ta thảo luận
tiếp. Với ý nghĩ ấy, tôi cũng mong ông bỏ qua cho những chỗ tôi diễn
tả thẳng thừng có thể làm ông không vui. Nhưng tôi nghĩ với một
người có tính cách mạnh mẽ trong viết lách như ông thì điều đó có lẽ
sẽ có tác động kích thích sự thật xuất hiện, hay hơn là những rào
đón, yểu điệu, quanh co. Tôi hy vọng ít nhất ông cũng đồng ý với tôi
điều đó.
talawas 4.11.2006
_______________
[1] Tất cả lập luận của ông Đinh Từ Thức đều dựa vào bài viết của
ông Võ Văn Kiệt (về sự kiện Lê Duẩn lén trở lại miền Nam khi tập
kết) cho đó là tài liệu nguồn đáng tin có thể lấp đầy nghi vấn lịch
sử đặt ra từ lâu mà chưa có lời giải đáp: miền Bắc xâm lược miền Nam
vào lúc nào. Dựa vào tiết lộ đó ông cho rằng miền Bắc cũng đã lén
thông qua Lê Duẩn để chiếm miền Nam bằng võ lực ngay sau Hiệp định
Genève vừa ký kết. Sai lầm quan trọng nhất trong suy diễn của ông
vẫn nằm ở chỗ ông không thấy vấn đề đường lối là quan trọng sinh tử
như thế nào đối với Đảng cộng sản. Võ Văn Kiệt đề cao vai trò của Lê
Duẩn trong cách mạng miền Nam (đặc biệt với sự hình thành của Nghị
quyết 15 năm 1959, chủ trương đấu tranh bạo lực), nhưng không hề
khẳng định Lê Duẩn đã đưa ra chủ trương ấy ngay sau khi Hiệp định
Genève vửa ký kết, bởi vì vào lúc bấy giờ Đảng cộng sản không hề chủ
trương như vậy và giao cho Lê Duẩn thực hiện.Thực tế cho biết sự
thực đơn giản sau đây: từ 1954 đến 1956 chính Lê Duẩn và Võ Văn Kiệt
đã thay mặt Đảng chỉ thị cho cán bộ ở lại dùng biện pháp “đấu tranh
chính trị”, chứ không phải võ trang, để đòi miền Nam thực hiện Hiệp
định Genève thống nhất nước nhà. Là người chống cộng, nếu ông Đinh
Từ Thức tiếp tục tin vào sự thành thật của cựu thủ tướng cộng sản Võ
Văn Kiệt (như ông đã bày tỏ), đề nghị ông thừ làm một cuộc phỏng vấn
xem ông ta trả lời ra sao.
[2] Nhân tiện, xin giới thiệu với bạn đọc tài liệu tham khảo về “cà
phê cứt chồn” sau đây, tựa là “Kopi Luwak”, trong Bách khoa toàn thư
mở Wikipedia:
“Kopi Luwak là tên một loại cà phê đặc biệt, một thứ đồ uống được
xếp vào loại hiếm nhất trên thế giới. Loại cà phê này hầu như chỉ có
ở Indonesia, trên các hòn đảo Sumatra, Java và Sulawesi. Từ Kopi
Luwak được dùng để chỉ một loại hạt do loài cầy vòi mốc ăn quả cà
phê rồi thải ra. Cái tên Kopi Luwak bắt nguồn từ từ kopi trong tiếng
Indonesia có nghĩa là cà phê. Luwak là tên một vùng thuộc đảo Java,
đồng thời cũng là tên của một loài cầy cư trú ở đó. Loài cầy vòi mốc
(Paradoxurus hermaphroditus) thuộc họ cầy hương (Viverridae). Loài
này phân bố rải rác ở các nước vùng Đông Nam Á như Indonesia,
Philippines, Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Thức ăn ưa thích của
chúng là quả cà phê. Tuy nhiên, khi vào dạ dày chỉ có cùi cà phê
được tiêu hoá, còn hạt cà phê lại theo chất thải ra ngoài. Người ta
tin rằng dưới tác dụng lên men của các enzym trong dạ dày mùi vị của
cà phê sẽ có sự biến đổi: hình như xuất hiện một thứ hương vị đậm
đà, nhưng hơi ẩm mốc; như diễn viên người Anh John Cleese đã miêu tả
"nó vừa có vị bùi bùi của đất, lại ngai ngái như bị mốc, vừa dìu
dịu, lại giống như nước sirô, đậm đà như mang theo âm hưởng của rừng
già và của sôcôla." Thực ra thì chỉ có phần thịt cà phê được lên men
tiêu hoá. Hạt cà phê còn có lớp vỏ cứng bảo vệ, cho nên nếu như có
chịu tác dụng của enzym đi chăng nữa thì tác dụng đó cũng là rất
nhỏ.
Hương vị của Kopi Luwak do họ cầy hương ở Indonesia sản xuất ra tinh
khiết hơn so với họ cầy hương ở châu Phi. Nguyên nhân là ở chỗ những
con cầy hương ở châu Á chỉ ăn cây cỏ, trong khi họ hàng của chúng ở
châu Phi lại quen ăn thịt. Đối với những người sành cà phê thì Kopi
Luwak của Indonesia ngon hơn và giá thành do vậy cũng cao hơn. Một
kg Kopi Luwak có giá thành khoảng 20 triệu VND (1300 USD) và mỗi năm
cũng chỉ có khoảng 200 kg được bán trên thị trường thế giới. Trên
thực tế chất lượng hạt cà phê sau khi qua dạ dày loài cầy vòi mốc
không có thay đổi nào đáng kể. Người ta uống loại cà phê này có lẽ
là vì đẳng cấp nhiều hơn là vì hương vị của nó”.
[3] Xin dẫn nguyên văn 3 khả năng này để bạn đọc có thể trực tiếp
nhận định:
Three interpretations of the available evidence are possible:
Option A-That
the DRV intervened in the South in reaction to U.S. escalation,
particularly that of President Kennedy in early 1961. Those who
advance this argument rest their case principally on open sources to
establish the reprehensible character of the Diem regime, on
examples of forceful resistance to Diem independent of Hanoi, and
upon the formation of the National Liberation Front (NLF) alleged to
have come into being in South Vietnam in early 1960. These also rely
heavily upon DRV official statements of 1960-1961 indicating that
the DRV only then proposed to support the NLF.
Option B-The
DRV manipulated the entire war. This is the official U.S. position,
and can be supported. Nonetheless, the case is not wholly
compelling, especially for the years 1955-1959.
Option C-The
DRV seized an opportunity to enter an ongoing internal war in 1959
prior to, and independent of, U.S. escalation. This interpretation
is more tenable than the previous; still, much of the evidence is
circumstantial.
The judgment offered here is that the truth lies
somewhere between Option B and C.
(The
Pentagon Papers, Volume 1, Chapter 5, section 1 (summary),
"Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" , Gravel
Edition, Beacon Press, Boston, 1971).
[4] Nguyên văn đoạn của Fox Butterfield:
“The U.S had gradually developed a special commitment in South Viet
Nam,” writes the Pentagon analyst charged with explaining the
problems facing President Kennedy. “It was certainly not absolutely
– but the commitment was there…”
“Without U.S support,” the analyst says, “Diem almost
certainly could not have consolidated his hold on the South during
1955 and 1956.
“Without the threat of U.S intervention, South Vietnam could not
have refused to even discuss the elections called for in 1956 under
Geneva settlement without being immediately overrun by the Vietminh
armies.
“Without U.S aid in the years following, the Diem regime certainly,
and an independent South Vietnam almost as certainly, could not have
survived…”
In
breaf, the analyst concludes, “South Vietnam was essentially
the creation of the United States.”
(Fox Butterfield, “The Truman and Eisenhower Years: 1945-1960”,
The Pentagon Papers (as published by The New York Times;
Based on investigative reporting by Neil Sheehan; written by Neil
Sheehan, Hedrick Smith, E.W Kenworhty and Fox Butterfield; Articles
and documents editted by Gerald Gold, Allan M. Siegal and Samuel
Abt), Bantam books, Inc., 1971, p. 25).
[5] Ấn bản này xuất hiện cùng một thời gian với ấn bản của The
New York Times. Có tên đầy đủ là The Pentagon Papers: The
Defense Department History of United States Decisionmaking on
Vietnam (Boston:Beacon Press, 1971, 1972), gồm 5 tập
trong đó 4 tập nội dung lấy từ bộ lịch sử mật, một tập gồm những lời
bình luận và phụ chú. Bản in của nhà xuất bản Beacon này thường được
gọi là “ấn bản Gravel” (Senator Gravel Edition) chính là do Thượng
nghị sĩ Gravel công bố. Nguồn gốc sự ra đời của ấn bản này có quan
hệ với ý định ban đầu của Daniel Ellsberg: trong khi tiết lộ với báo
chí thì cũng tìm cách chuyển tài liệu mật đó đến Thượng viện, qua cơ
quan này, vận động các nghị sĩ lên tiếng chống lại cuộc chiến tranh
Việt Nam. Khởi đầu Ellsberg nhờ người đưa đến tay William Fulbright,
sau đó Mc Govern, nhưng không tạo được tác dụng mong muốn, cuối cùng
một cách nào đó, đã đến tay thượng nghị sĩ Gravel, được ông nay đồng
tình vận động bằng nhiều cách, cuối cùng vượt qua nhiều khó khăn,
bản thảo đã đến nhà xuất bản Beacon Press, nhờ đó một cuốn The
Pentagon Papers dưới hình thức nguyên thuỷ của bộ sử mật đã xuất
hiện trước công chúng. Theo những nhà nghiên cứu thì ấn bản Gravel
không đầy đủ, chọn lựa hơi gấp gáp, tuỳ tiện, tuy vậy vẫn chứa đựng
nhiều tài liệu quan trọng, đầy đủ trong thời kỳ Johnson làm tổng
thống mà một số ấn bản của chính phủ không có.
Nhân
tiện cũng nói thêm rằng ngoài hai ấn bản trên đây, bộ sử bí mật của
Ngũ giác đài cũng đã xuất hiện dưới nhiều dạng công khai. Có những
ấn bản tương đối đầy đủ xuất hiện dưới hình thức sao chụp từ bản
gốc, như cuốn United States-Vietnam Relations, 1945-1967: A Study
Prepared by The Department of Defense ( U.S. Congress, House
Committee on Armed Services, Washington, DC: U.S. Government
Printing Office, 1971), 12 tập. Nhưng cũng có những ấn bản tóm tắt
xuất hiện về sau này như The Pentagon Papers: Abridged Edition,
do George C. Herring biên tập ( New York: McGraw-Hill,
1993. xxii, 228 p). Có một điều đáng chú ý: nguyên văn 47 tập sử nội
bộ của Bộ Quốc phòng đó chưa bao giờ xuất hiện được toàn vẹn trước
công chúng. Ngay trong những ấn bản công khai, những chú thích về
tài liệu nguồn vốn có trong nguyên bản cũng đã bị bỏ bớt đi khá
nhiều. Còn những bản gốc toàn vẹn thì vẫn được cất giữ bí mật trong
thư viện LBJ và một vài chỗ khác; gần đây tại phòng tham khảo của
thư viện LBJ, một số chú thích nguồn không thấy xuất hiện trong
những ấn bản trước, nay đã cho phép giải toả, sử dụng. (Xem
http://www.clemson.edu/caah/history/FacultyPages/EdMoise)
[6] Trong bài viết của
mình, ông Đinh Từ Thức có dẫn Tập 1, Chương 5, đoạn Summary của “ấn
bản Gravel” nói trên và ghi nhận câu hỏi rất quan trọng mà những nhà
viết sử Bộ Quốc Phòng đặt ra để tìm cách trả lời như sau: vấn đề
không phải xét xem Hà Nội có đóng vai trò gì trong cuộc nổi dậy ở
miền Nam hay không mà là “Hà nội đã can thiệp một cách có hệ
thống vào lúc nào”. Ông đã dựa vào một số câu để biện luận (qua
một số chú thích của bài viết), nhưng kiểm tra lại tôi thấy toàn là
những câu không dính dáng gì đến câu hỏi đặt ra và cần phải trả lời
như trên. Ông dẫn cả một đoạn dài nói về 3 Options miền Bắc can
thiệp vào miền Nam để chỉ trích Fox Butterfield là “không trung
thực” nhưng lại cố ỳ lờ đi nguyên cả một đoạn sờ sờ trước đó mà ý
nghĩa của nó là đã đi ngược lại tất cả những lập luận trả lời của
ông cho câu hỏi đặt ra như trên. Tôi xin phép trích dẫn đoạn ấy (có
tô đậm một số chữ) để bạn đọc phán đoán:
“Tentative answers are possible, and form a continuum: By 1956,
peace in Vietnam was plainly less dependent upon the Geneva
Settlement than upon power relationships in Southeast
Asia--principally upon the role the U.S. elected to play in
unfolding events. In 1957 and 1958, a structured rebellion against
the government of Ngo Dinh Diem began. While the North Vietnamese
played an ill-defined part, most of those who took up arms were
South Vietnamese, and the causes for which they fought were by no
means contrived in North Vietnam. In 1959 and 1960, Hanoi's
involvement in the developing strife became evident. Not until 1960,
however, did the U.S. perceive that Diem was in serious danger of
being overthrown and devise a Counterinsurgency Plan.
It can
be established that there was insurgency in South Vietnam throughout
the period 1954-1960. It can also be established-but less surely-
that the Diem regime alienated itself from one after another of
those elements within Vietnam which might have offered it political
support, and was grievously at fault in its rural programs. That
these conditions engendered animosity toward the GVN seems almost
certain, and they could have underwritten a major resistance
movement even without North Vietnamese help.
It
is equally clear that North Vietnamese communists operated some form
of subordinate apparatus in the South in the years 1954-1960.
Nonetheless, the Viet Minh "stay-behinds" were not directed
originally to structure an insurgency, and there is no coherent
picture of the extent or effectiveness of communist activities in
the period 1956-1959. From all indications, this was a period
of reorganization and recruiting by the communist party. No
direct links have been established between Hanoi and perpetrators of
rural violence. Statements have been found in captured party
histories that the communists plotted and controlled the entire
insurgency, but these are difficult to take at face value.”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét