Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

Sự “thống hối” của Giáo hoàng cái mắc cười bể bụng đầu tiên của Thiên niên kỷ mới

Nguyễn Trí Cảm chuyển ngữ

Nhân loại phải cảnh giác sự lừa gạt bằng những giọt nước mắt cá sấu của Giáo hội Công giáo La Mã, những giọt nước mắt xem có vẻ như hối hận những việc làm trong quá khứ, và tỏ ra vẻ ăn năn, hối hận: họ hối hận cho một mục đích cụ thể, giống như những phép lạ ngụy tạo của Giáo hội– để mê hoặc những ai thiếu cảnh giác gia nhập vào bầy chiên (fold) của Giáo hội.
Professor Arthur Noble
Giáo hoàng đã thực hiện những gì mà các nhà truyền giáo của Vatican và những nhân viên vận động Thống nhất Giáo hội gọi là một yêu cầu lịch sử, xin được tha thứ cho những tội lỗi đã gây ra trong quá khứ của Giáo hội Công giáo La mã, bao gồm cả việc đối xử với người Do thái, “kẻ dị giáo” và phụ nữ. Giáo hoàng cũng tìm kiếm sự tha thứ cho việc sử dụng “bạo lực trong việc phục vụ chân lý” – ý ám chỉ đến Tòa án xử dị giáo, các cuộc Thánh chiến và cưỡng bức người “bản địa” đổi đạo.
Giao Hoàng John Paul IITrong suốt buổi Thánh lễ  “Ngày Tha thứ” ở quảng trường nhà thờ Thánh Peter vào ngày 12 tháng 3, tuy nhiên, Giáo hoàng tránh né đề cập một cách cụ thể đến những tội ác ô nhục như trói người vào cọc để thiêu sống, thảm sát người Hồi giáo, và sự im lặng của Giáo hội trong thời kỳ Tàn sát người Do thái (Holocaust). Hoặc ông ta nêu đích danh tên tuổi của bất cứ ai. Điều thú vị đặc biệt để lưu ý rằng, lời phát biểu không chứa đựng mối liên quan cụ thể nào đối với sự giết hại những người Tin lành tử vì đạo, và không có sự đề cập nào hay lên án sự phạm tội ác bạo tàn của Giáo hoàng Pius XII,  sự đồng tình với Đảng Quốc Xã và những hành động liên quan của ông ta như vừa mới được lột trần trong cuốn Giáo hoàng của Hitler của tác giả Cornwell.
Cũng đáng kinh ngạc khi những bản chất dối trá của hành vi này lại được gọi là thống hối khi Giáo hội La Mã vẫn hành động dựa trên cái tiền đề rằng nó là Giáo hội chân chính duy nhất (“phục vụ chân lý”).  Theo sau sự viện cớ này là  bước thận trọng xin được thống hối  “vì sự chia rẽ trong tín đồ Thiên Chúa giáo”.
Trên thực tế, sự “thống hối” này chẳng phải là thống hối gì cả: nó chẳng có lời công nhận về hành vi sai trái nào của Giáo hội Công giáo La mã đúng như từng là như vậy, nhưng chỉ là do một “số người” phạm tội quá tay. Cái xấu  và cái ác do bị xúi dục, được ủy quyền và giao phó cho họ từ chính tay các Giáo hoàng mà lại chẳng hề được đề cập đến bất cứ điều gì. Hãng Thông tấn NBC News nêu ra chính xác: “Giáo hội […] không nhận tội – lời khóc than thống hối là cho tội lỗi của nhân loại do những đứa con trai, con gái (con chiên. ND) của Giáo hội cầu xin chứ không phải là chính Giáo hội.
Lời tuyên bố của Giáo hoàng bằng thứ ngôn ngữ xảo quyệt, nồng nặc mùi ma giáo lập lờ nước đôi kiểu dòng Tên (Jesuits). Cái từ ngữ “thống hối” hàm chứa hai nghĩa: ngoài việc tuyên bố sự thừa nhận, giãi bày sự hối tiếc và xin tha thứ những sai lầm hay phạm tội, nó có thể hiểu ngược lại – lời tuyên bố để bào chữa hay một hành vi tự vệ hay một cách xử lý sự vụ. Ngay đây ta kết hợp cả hai định nghĩa lại, và bạn sẽ có một ví dụ tuyệt hảo về thứ ngôn ngữ lập lờ nước đôi của Vatican, như đã được dòng Tên dạy dỗ và rèn luyện một cách chuyên nghiệp. Lời nói và ý nghĩa không đi đôi với nhau, và ngược lại. Sự lừa lọc là tên gọi của trò chơi.
Ngay chính cái ý tưởng mà Vatican buộc phải xin lỗi- nghĩa là thừa nhận như một sự phạm tội và hối lỗi, ví dụ, sự tàn bạo của việc thảm sát hàng triệu người theo Tin lành Giám Lý (Bible Christians), những người không chịu quì gối trước Ngụy Công giáo La Mã (Roman Antichrist -chống Chúa) – là hoàn toàn không tương hợp với lời khẳng định ngạo mạn “không thể sai lầm” của Đức Thánh Cha. Nếu La Mã là “không thể sai lầm”, Giáo hội không thể thừa nhận rằng những gì Giáo hội làm trong quá khứ là sai lầm, bởi nó sẽ phô bày bản chất sai lầm cố hữu trong toàn bộ hệ thống của Giáo hội. Vì thế, giáo hội chỉ có thể giả vờ biểu hiện sự hối tiếc. Vì thế lời khẳng định luôn luôn không thay đổi (semper eadem) thật trớ trêu, cuối cùng lại là một thứ sâu mọt sẽ gặm nát cái tâm của hệ thống độc hại của giáo hội.
Chúng ta hãy xem xét quan điểm thật sự của Giáo hoàng về việc tha thứ. Tờ Thời Báo Los Angeles số ra ngày 12 tháng 12 năm 1984 trích dẫn lời của GH John Paul II như thế này: “Đừng đến với Chúa để xin được tha tội: hãy đến với cha.” Lời báng bổ không thể tha thứ được! Giáo hoàng đang nói với thế giới rằng không chỉ ông ta là Chúa Trời, nhưng ông ta còn trên cả Chúa Trời! Điều này thực hiện lời tiên trị dựa theo sách Khải huyền (Revelation). Nó giải thích tại sao lời yêu cầu xin được “tha thứ” của ông ta,  bề ngoài có vẻ như nói với Chúa, trong thực tế hướng thẳng về các nạn nhân của Giáo hội ông ta, phải xưng thú tất cả mọi tội lỗi với Chúa trời; bởi chỉ độc nhất có mình Ông ta mới có quyền năng tha thứ. Nếu như bây giờ Giáo Hoàng cho là ông ta không cần phải quì gối trước Đấng Sáng Thế, thế thì còn lại bao nhiêu tính thuyết phục và thành thực phải có đối với các nạn nhân bất hạnh bị Giáo hội của ông ta bức hại một cách đê tiện trong lời cầu xin bịp bợm của ông ta?
Đối với những ai tôn thờ lãnh tụ, dầu là Hitler hay Giáo hoàng, sẽ không còn khả năng để nhận thức khi bị lừa dối. Nếu như Giáo hoàng thành tâm sám hối những tội lỗi của Giáo hội La Mã. Kinh thánh (lời mạc khải) sẽ cần ông ta từ bỏ cương vị nhố nhăng của mình, thay đổi tước vị của ông ta từ “Đức Thánh Cha” xuống “Kẻ Tội Lỗi Ti Tiện”, bác bỏ tất cả mọi tín lý dị hợm của Giáo hội ông ta, và xưng thú với lòng vui sướng rằng cứu rỗi là món quà miễn phí của Chúa Trời cho tất cả những ai tin vào Đức Chúa Trời Giê-su. [ngụ ý vai trò bất xứng của Giáo hoàng và Giáo hội trong vai trò trung gian giữa Chúa Trời và người tôn thờ Chúa Trời. (chú thích của người dịch)].
Rằng là thế, tuy nhiên, là điều chính xác mà Đức Thánh Cha La Mã không thể thực hiện được, không chỉ vì giáo hội không thể thay đổi, nhưng vì chúng ta bước vào Thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội chuẩn bị một cuộc chiến tranh thần thánh mang tầm vóc trọng đại. Trong khi trình diễn qua cái mặt nạ thân thiện và hòa giãi với thế giới bên ngoài, trong âm thầm và bí mật của Vatican, Giáo hội đang tập hợp sức mạnh của nó để tái thành lập Tòa án Dị giáo (cái mà giáo hội giả vờ thống hối), xử dụng toàn bộ công nghệ hiện đại để tạo lợi thế trong mọi khả năng, thu tập thông tin để truy tìm các kẻ thù và tiêu diệt tất cả ai không tin theo tín lý của giáo hội. Bằng cách thức này, Giáo hội đang lập kế hoạch khống chế không chỉ riêng Châu Âu, mà cho cả toàn thế giới.
Nhân loại phải cảnh giác trước sự lừa gạt bằng những giọt nước mắt cá sấu của Giáo hội Công giáo La mã, những giọt nước mắt xem có vẻ như hối tiếc những việc đã làm trong quá khứ và tỏ ra vẻ ăn năn, hối hận: họ hối hận cho một mục đích cụ thể, giống như những phép lạ ngụy tạo của Giáo hội – để mê hoặc những ai thiếu cảnh giác gia nhập vào bầy chiên của Giáo hội. Nếu giả như Giáo hội thành công trong việc phục hồi đủ sức mạnh và ảnh hưởng, Giáo hội sẽ lại phạm phải những hành động tàn bạo trong tương lai, những hành động mà giáo hội đã phạm phải trong quá khứ. Như một triết gia người Anh F. H. Bradley (1846–1924) viết rất rõ trong sách  Aphorisms (Cách ngôn): “Sự hối lỗi chân thành chịu phán xét trong sự im lặng lãng quên. Những gì mà một người sẵn sàng hồi tưởng, anh ta sẽ quyết tâm tái phạm.” (tạm dịch) –
"True penitence condemns to silence. What a man is ready to recall he would be willing to repeat."

Người chuyển ngữ: Nguyễn Trí Cảm

The Pope's 'Apology' – the first great laugh of the new Millennium
Mankind must beware of being fooled by the crocodile tears of the Roman Church's seemingly regretful reminiscences and contrite apologies: they are contrived for a specific purpose, like her faked miracles – to lure the unsuspecting into her fold.
Professor Arthur Noble
The Pope has made what Vatican propagandists and the Ecumenical spin-doctors are calling an historic request for pardon for the past sins of the Roman Catholic Church, including its treatment of Jews, 'heretics' and women. He has sought forgiveness for "violence in the service of truth" – a reference to the Inquisition, the Crusades and the forced conversion of "native peoples".
During the "Day of Pardon" Mass at St. Peter's on March 12, however, the Pope failed to mention specifically such infamous crimes as burnings at the stake, the slaughter of Muslims, and the silence of the Church during the Holocaust. Nor did he cite any names. It is particularly interesting to note that the statement contains no specific reference to the slaughter of the Protestant martyrs, and no mention or condemnation of the atrocities perpetrated by Pius XII, whose Nazi sympathies and associated actions were recently exposed in Cornwell's book Hitler's Pope.
It is also striking that the false basis of this so-called apology is still that the Roman Church was acting on the premise that it is the only true Church ("in the service of truth"), for this excuse is carefully followed by asking pardon "for the divisions among Christians".
In fact, this 'apology' is no apology at all: it contains no statement of wrongdoing by the Roman Catholic Church as such, but only for the excesses committed by "some". The wrongs and evils instigated, authorised and committed by Popes themselves receives no mention whatsoever. NBC News put it well: "The Church […] is not admitting guilt – the sweeping apology is for human sins by the Church's sons and daughters, not by the Church itself."
The subtle language of the Pope's statement reeks of Jesuitical equivocation. The word 'apology' has a double meaning: besides signifying an acknowledgement expressing regret or asking pardon for a fault or offence, it can be the opposite – a statement justifying or defending an action or policy. Now combine the two definitions, and you have a perfect example of the Vatican's language of equivocation as professionally taught and practised by the Jesuits. What is said is not what is meant, and vice versa. Deceit is the name of the game.
The very idea that the Vatican would apologise – i.e. acknowledge as an offence and repent, e.g., for the atrocity of murdering the millions of Bible Christians who refused to bow the knee to the Roman Antichrist – is totally incompatible with the arrogant claim of Papal 'infallibility'. If Rome is 'infallible', she cannot admit that what she did in the past was wrong, for that would expose the inherent falsehoods of her whole system. Therefore she can only pretend to express regret. The claim of being semper eadem is thus ironically the worm which will ultimately gnaw out the heart of her pernicious system.
Let us consider the Pope's real views on forgiveness. The Los Angeles Times of December 12, 1984, quoted John Paul II as saying: "Don't go to God for forgiveness of sins: come to me." What unforgivable blasphemy! The Pope is telling the world not only that he is God, but that he is above God! This fulfils prophecy according to the book of Revelation. It explains why his request for "pardon", ostensibly addressed to God, is in reality directed to the victims of his Church. It is to God that all sins must be confessed; for He alone has the power to forgive. Now if the Pope presumes that he has no need to get down on his knees to the Creator, how much less convincing and sincere must be his humbug request to the unfortunate victims of his Church's dastardly persecution?
Those who worship a leader, whether he be Hitler or the Pope, no longer have the ability to recognise when they have been deceived. If the Pope were truly to repent of Rome's sins, the Bible would require him to renounce his blasphemous position, change his title from "Holy Father" to "Lowly Sinner", reject all the heretical dogma of his Church, and confess with joy that salvation is the free gift of God to every one who believes in the Lord Jesus Christ.
That, however, is precisely what Papal Rome cannot do, not only because she cannot change, but because, as we enter the third Millennium, she is preparing for a spiritual war of great magnitude. While presenting a mask of friendship and reconciliation to the world outside, in the secret recesses of the Vatican she is gathering her forces to re-establish the Inquisition (for which she feigns an apology), using modern technology to her full advantage, and acquiring information to track down her enemies and obliterate all who do not comply with her religious dogmas. By this means she is laying plans to control not only Europe, but the whole world.
Mankind must beware of being fooled by the crocodile tears of the Roman Church's seemingly regretful reminiscences and contrite apologies: they are contrived for a specific purpose, like her faked miracles – to lure the unsuspecting into her fold. Should she then succeed in regaining sufficient power and influence, she would commit again in the future the atrocities that she committed in the past. As the English philosopher F. H. Bradley (1846–1924) very eminently put it in one of his Aphorisms: "True penitence condemns to silence. What a man is ready to recall he would be willing to repeat."
http://www.ianpaisley.org
European Institute of Protestant Studies
eips_info@yahoo.co.uk

0 nhận xét:

Đăng nhận xét