Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

Câu chuyện Ngôn Ngữ

Phạm Việt Hưng 13/07/2012


Abstract: French people say: “Tout mystère se trouve dans le langage” (All mystery is in the language). But is there a language which allows us to discover all mysteries? Do we have enough languages to completely and perfectly describe the world around? The following story of language attempts to give an answer (PVHg).


Là một danh hoạ bậc nhất của thế kỷ 20, Pablo Picasso đồng thời mang dáng dấp của một nhà hiền triết khi ông nói: “Nghệ thuật là một lời nói dối làm cho chúng ta nhận ra sự thật” (Art is a lie that enables us to realize the truth). Nhận định này ẩn chứa nhiều tư tưởng sâu sắc về hội hoạ, nhưng đồng thời cũng gợi ý rằng hội hoạ là một dạng ngôn ngữ đặc biệt, cùng với các ngôn ngữ khác giúp cho chúng ta tiếp cận tới chân lý ngày càng sâu sắc hơn.
Ngôn ngữ của con người vô cùng đa dạng: tiếng nói, chữ viết, hình vẽ, âm nhạc, ký hiệu toán học, mô hình, biểu đồ, biểu tượng, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, thậm chí cả sự im lặng hoặc giao tiếp bằng ngoại cảm,…Tất cả liên kết lại với nhau, tạo nên nền văn minh của nhân loại. Lịch sử văn minh chính là lịch sử phát triển và tiến hoá của ngôn ngữ. Chẳng thế mà người Pháp đã kết luận: “Mọi bí mật đều nằm trong ngôn ngữ” (Tout mystère se trouve dans le langage).
Kết luận trên có một hàm ý rất sâu xa. Nó làm cho chúng ta liên tưởng tới rất nhiều sự kiện ngôn ngữ thú vị. Chẳng hạn:
- Sự kiện phát hiện ra “phiến đá Rosetta”[1] (Rosetta Stone) – phiến đá giúp cho nhà ngôn ngữ học trứ danh người Pháp Jean François Champollion, năm 1822, giải mã được chữ tượng hình Ai-cập cổ đại, mở toang cánh cửa bí mật của nền văn minh sông Nile cho hậu thế khám phá.
- Sự kiện khám phá ra hệ thống ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) trong thế kỷ 19, giúp cho các nhà khoa học lịch sử khám phá ra cuộc di cư vĩ đại của người Aryan[2] từ mấy ngàn năm trước,…
Nhưng ngôn ngữ không chỉ là chiếc chìa khoá vàng trong việc giải mã các sự kiện lịch sử, văn hoá, mà còn rọi một ánh sáng vào những khoảng tối của nhận thức luận khoa học hiện đại.
Niels Bohr, một trong những nhà vật lý lỗi lạc và uyên thâm nhất thế kỷ 20, đã phải thốt lên chua chát: “Tất cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ” (We are all suspended in language), để mô tả tình trạng mâu thuẫn và bất định khi chúng ta cố mô tả thế giới lượng tử bằng một thứ ngôn ngữ không tương thích – ngôn ngữ của thế giới vĩ mô.
Trong toán học, Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel cũng giáng một đòn chí tử vào tham vọng chứng minh tính hoàn hảo của toán học. Godel chỉ ra rằng mọi tham vọng tìm kiếm một hệ thống lý thuyết hoàn hảo đều rơi vào cãi bẫy của nghịch lý tự quy chiếu. Để thoát khỏi cái bẫy này, phải tìm đến một thứ siêu ngôn ngữ – một ngôn ngữ đứng bên ngoài hệ thống lý thuyết đang xem xét. Nhưng bản thân siêu ngôn ngữ cũng bất toàn, do đó không bao giờ có một hệ thống lý thuyết nào có thể đạt tới sự hoàn hảo.
 
Vì thế không có một ngôn ngữ nào có thể được coi là độc tôn, là “ông hoàng” trên con đường tìm kiếm chân lý. Chỉ có sự kết hợp nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bổ sung cho nhau mới làm nên một bức tranh phong phú nhất, sát gần với sự thật nhất.
Để tiệm cận tới kết luận đó, trước hết phải thấy được những “chỗ yếu” của ngôn ngữ. Một trong những “chỗ yếu” đó là nghịch lý tự quy chiếu.

1. Nghịch lý tự quy chiếu:

Những ý kiến bầy tỏ, tuyên bố, phát biểu, trình bầy,… mang tính chất tự phán xét, tự đánh giá về chính bản thân mình được gọi là những nhận định tự quy chiếu (self-referential statements). Mọi nhận định tự quy chiếu đều chứa đựng mâu thuẫn logic nội tại, do đó sẽ dẫn tới nghịch lý được gọi là nghịch lý tự quy chiếu (self-referential paradoxes) – nghịch lý nẩy sinh khi một hệ thống tự phán xét về chính bản thân mình.
Thí dụ điển hình là “nghịch lý Cretan”, hay còn gọi là “nghịch lý kẻ nói dối”, nẩy sinh từ tuyên bố sau đây:
Ta là kẻ nói dối (I am a liar)!
Nếu “ta” là kẻ nói dối, suy ra “ta” đã nói thật. Nếu “ta” nói thật, suy ra “ta” là kẻ nói dối. Đằng nào cũng mâu thuẫn – mâu thuẫn là hệ quả logic tất yếu của một hệ tự quy chiếu! 
Nghịch lý kẻ nói dối do Epimenides, một nhà thơ kiêm triết gia người Cretan (người đảo Crete thuộc Hy Lạp), thế kỷ 7-6 trước công nguyên, tìm ra. Nghịch lý này tồn tại trong suốt hơn 2500 năm chỉ như một trò chơi logic ngôn ngữ, nhưng đến đầu thế kỷ 20 nó bất ngờ tìm thấy những người “bạn đồng hành” trong logic toán học. “Người bạn” nổi tiếng nhất là “nghịch lý Russell” – nghịch lý trong lý thuyết tập hợp do Bertrand Russell tìm ra, dẫn tới cuộc khủng hoảng chưa từng có trong nền tảng toán học[3].
Russell vốn nổi tiếng là một nhà hoạt động xã hội có trái tim nồng nàn, từng đoạt Giải Nobel văn chương năm 1950, hai lần bị nhà nước Anh cho vào tù vì những hoạt động chống chiến tranh, nhưng nổi tiếng nhất vì những công trình logic toán, đặc biệt vì nghịch lý Russell – một cảnh báo đối với lòng “cả tin” xưa nay cho rằng toán học là một hệ logic tuyệt đối phi mâu thuẫn. 
Đây là nghịch lý nghiêm trọng nhất trong các nghịch lý, vì nó không chỉ làm lung lay lâu đài toán học – lâu đài xưa này được coi là kiên cố vững chắc nhất trong khoa học – mà còn gợi ý rằng vũ trụ có thể chứa đựng những mâu thuẫn ngay từ trong bản chất của nó.
 

 Nếu nghịch lý Russell chưa đủ mạnh để hạ bệ thói tự phụ trong toán học thì năm 1931, Định lý Godel ra đời, giáng một đòn chí tử vào tham vọng tìm kiếm một hệ thống toán học tuyệt đối hoàn hảo (tuyệt đối đầy đủ và phi mâu thuẫn). Hệ thống này được mệnh danh là “siêu toán học” (metamathematics), vì nó định dùng toán học để chứng minh tính đầy đủ và phi mâu thuẫn của chính toán học. Nói cách khác, siêu toán học chính là một hệ tự quy chiếu, và ắt phải dẫn tới mâu thuẫn. Nhưng toán học không chấp nhận mâu thuẫn, vậy siêu toán học không thể thành công. Tham vọng tìm kiếm siêu toán học là “bất khả” (impossible) và không tưởng (utopian). Đó là bài học lớn cho toàn bộ khoa học.
Câu hỏi đặt ra là: Có thể tránh khỏi nghịch lý tự quy chiếu hay không?
Câu trả lời tuỳ thuộc vào chỗ có tồn tại một siêu ngôn ngữ (metalanguage) đối với tầng ngôn ngữ đang sử dụng hay không.

2. Siêu ngôn ngữ và quy luật cơ bản của nhận thức:

Siêu ngôn ngữ là một ngôn ngữ dùng để nói về một ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, dùng tiếng Việt để nói về tiếng Anh thì tiếng Việt được coi là một siêu ngôn ngữ của tiếng Anh. Bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có thể trở thành siêu ngôn ngữ đối với một ngôn ngữ khác. Siêu ngôn ngữ có thể có nhiều tầng, nhiều lớp. Thí dụ dùng tiếng Việt để phân tích một tài liệu tiếng Anh bàn về tiếng Hebrew, thì tiếng Việt sẽ là siêu siêu ngôn ngữ đối với tiếng Hebrew. Các tầng siêu ngôn ngữ tạo thành một hệ thống thang bậc siêu ngôn ngữ (hierachy of metalanguages) kéo dài vô hạn.
Từ điển Anh-Việt là một tài liệu siêu ngôn ngữ, vì nó dùng tiếng Việt để giải thích tiếng Anh. Đa số người mới học tiếng Anh đều ưa dùng từ điển Anh-Việt thay vì từ điển Anh-Anh. Điều đó hoàn toàn tự nhiên, vì quy luật cơ bản của nhận thức chỉ ra rằng nhận thức phải đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.
Người mới học tiếng Anh sẽ gặp khó khăn lớn nếu sử dụng từ điển Anh-Anh mà không có thêm bất kỳ một sự giải thích hỗ trợ nào khác (không có bất kỳ một thứ siêu ngôn ngữ nào khác để phân tích ý nghĩa trong tiếng Anh). Dưới con mắt của logic nhận thức, từ điển Anh-Anh là một thứ ngôn ngữ tự mình nói về mình – một dạng nhận thức tự quy chiếu – do đó nó sẽ tạo ra một cái ngưỡng mà người mới học tiếng Anh không thể vượt qua. Tuy nhiên có thể vượt qua ngưỡng này bằng cách sử dụng các dạng siêu ngôn ngữ của tiếng Anh, chẳng hạn như sự giảng giải bổ trợ bằng tiếng Việt của thầy giáo hoặc bạn bè, hình ảnh minh hoạ, cử chỉ điệu bộ bằng chân tay, ánh mắt, khoé miệng của người giảng giải, v.v... Tất cả những cách bổ trợ này đều là những dạng siêu ngôn ngữ tuyệt vời đối với mọi thứ ngoại ngữ.
Chú ý rằng trẻ em có thể tiếp thu song ngữ một cách tự nhiên, không dùng ngôn ngữ này như một siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ kia. Những trường hợp này gọi là “người có song ngữ tự nhiên” (bilingual). Chẳng hạn một em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên ở Úc, khi đó cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh đều là ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ, tiếng Anh là ngôn ngữ bản địa. Trong thực tế tại Úc, tôi đã chứng kiến một em bé “trilingual”, tức là có 3 ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Pháp vì bố là người Bỉ, tiếng Nhật vì mẹ là người Nhật, tiếng Anh là tiếng bản địa. Nếu có một siêu ngôn ngữ trong trường hợp này thì đó là cử chỉ, ánh mắt, dấu hiệu, hình ảnh,… do cha mẹ em hoặc thầy cô giáo, bạn bè ở nhà trường tác động đến em trong khi nói chuyện với em. Thí dụ mẹ em vừa nói vừa chỉ vào con mèo để em hiểu khái niệm “con mèo”, thầy cô giáo vừa nói vừa chỉ vào cái “table” để em hiểu khái niệm “table”. Khi đó hình ảnh con mèo hay cái bàn đều đóng vai trò siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường.
Alfred Tarski, một nhà toán học Ba lan xuất sắc, từ lâu đã nhấn mạnh rằng muốn định rõ giới hạn của các tầng nhận thức, cần phải phân biệt rõ ranh giới giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ. Trong toán học, sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ đã từng là nguyên nhân dẫn tới sai lầm trong định hướng nghiên cứu và giảng dạy. Chẳng hạn, giữa thế kỷ 20 nổi lên trường phái Bourbaki, với sự ra đời của hàng loạt công trình đồ sộ viết lại toán bộ toán học dựa trên cái nền logic và tập hợp. Vào thời ấy, Bourbaki được cả thế giới ngưỡng mộ và tôn sùng như Euclid của thế kỷ 20. Thực chất đây là sự tiếp tục chương trình Hilbert, với niềm tin tạo ra siêu toán học, bất chấp Định lý Godel. Chủ nghĩa Bourbaki dẫn tới hệ quả là sự ra đời của trào lưu Toán học Mới ở trường phổ thông – một bước thụt lùi nghiêm trọng của nền giáo dục toàn cầu trong những thập kỷ 1960-1970. Cuối thế kỷ 20, với sự thức tỉnh về ý nghĩa của Định lý Godel, các nhà toán học đã dần dần từ bỏ chủ nghĩa Bourbaki để trở về với toán học hiện thực. Ngày nay hầu như không còn ai tiếp tục con đường Bourbaki nữa. Đáng tiếc là nhiều nhà toán học và giáo dục không ý thức được ý nghĩa của bài học này.  

3. Bài học của siêu toán học:

Chúng ta đã biết siêu toán học không tồn tại – ngôn ngữ toán học cũng giống như bất kỳ một dạng ngôn ngữ nào khác, có những giới hạn không thể vượt qua.
Niels Bohr có lẽ là người hiểu rõ hơn ai hết về giới hạn của ngôn ngữ khi ông tranh cãi quyết liệt với Albert Einstein về tính hư ảo và bất định của thế giới lượng tử. Dường như càng cố mô tả sự vật một cách chính xác thì lại càng rơi vào tình trạng bất định, vì không bao giờ có thể đạt tới sự mô tả cuối cùng mà không cần có thêm bất kỳ một sự giải thích nào khác – không bao giờ chúng ta có đủ từ ngữ để mô tả sự vật một cách tuyệt đối chính xác. Mọi cố gắng chính xác hoá tuyệt đối một khái niệm đều là bất khả. Nhiều nhà toán học từng nghĩ rằng họ có thể đạt tới một lý lẽ tuyệt đối chính xác nhờ logic và tập hợp, nhưng các công trình của Russell và Godel đã chỉ ra rằng đó là một ý nghĩ ngây thơ, ảo tưởng.
 
Chẳng hạn, hãy thử đưa ra một định nghĩa cho khái niệm “trò chơi” (game), chúng ta sẽ nhanh chóng thấy rằng định nghĩa đó không chính xác. Thí dụ Từ điển The Free Dictionary định nghĩa “game” (trò chơi) là “một hoạt động mang lại sự giải trí và thoải mái” (an activity providing entertainment or amusement). Ngay lập tức có thể hỏi: nghe nhạc có thể gọi là một “trò chơi” được không? Vậy xem ra mỗi định nghĩa chỉ có thể nói lên một khía cạnh nào đó của sự thật mà thôi. Một định nghĩa càng mô tả được nhiều khía cạnh của sự vật thì càng gần với sự thật hơn, nhưng sẽ không bao giờ đạt tới chính bản thân sự thật đó. Nói cách khác, bản chất của ngôn ngữ là hạn chế, khả năng diễn đạt và mô tả sự thật bằng ngôn ngữ là có giới hạn.
Đến đây có thể hiểu vì sao cuộc tranh cãi về hiện thực lượng tử hoặc cuộc tranh cãi về nền tảng của toán học rốt cuộc lại quy về vấn đề hạn chế của ngôn ngữ.
Nếu ngôn ngữ không bao giờ đủ thì cái gì giúp chúng ta nhận chân sự vật?
Đó là trực giác – trực giác giúp chúng ta cảm nhận được cái thần của sự vật ẩn đằng sau từ ngữ, thay vì chính bản thân từ ngữ. Trong bản dịch cuốn “Đạo Đức Kinh”[4] của Lão tử, học giả Nguyễn Duy Cần phân tích: “Học thuyết của Lão tử không phải là thật khó hiểu nếu ta quan niệm nó bằng trực giác. Sự khó khăn của nó là ở chỗ đem ra mà bày giải… Lão tử há đã chẳng nói: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Đem nó mà giảng giải, bằng những danh từ của giới nhị nguyên thì thật là vô cùng hiểm trở … Danh từ, bất luận để ám chỉ vật gì, đều có cái nghĩa hạn định của nó, cho nên không thể nào dùng một tiếng gì trong giới nhị nguyên tương đối để trỏ vào cái lẽ tuyệt đối thường tồn và bất biến”.
 Đó là lý do vì sao các luận thuyết Đông phương cổ đại thường kiệm lời, đòi hỏi người ta phải vận dụng trực giác để hiểu, trong khi nền văn minh hiện đại lại thiên về phân tích logic “chẻ hoe sợi tóc”, ngõ hầu tìm ra chân lý cuối cùng, bất chấp giới hạn của nhận thức. Một trong những điển hình cho tinh thần bất chấp là Khoa học về trí thông minh nhân tạo (AI-Artificial Intelligence).
Hans Moravec, chuyên gia robot của Viện Robotics thuộc Đại học Carnegie Mellon, tuyên bố thẳng thừng rằng đến năm 2050 sẽ ra đời những robot thông minh như con người! Tư tưởng này kích thích sáng tạo công nghệ, cho ra đời những siêu phẩm ngày càng kỳ lạ hơn. Nhưng kèm theo những tiến bộ đó là sự hạ thấp giá trị con người, hạ thấp tính người trong xã hội hiện đại. Hệ quả tiêu cực này xuất phát từ chính những hiểu biết sai lầm về con người – bản thân việc tuyên bố sẽ chế tạo ra những sản phẩm thông minh như con người đã nói lên rằng tuyên bố đó không hiểu gì về con người.
Nếu con người thuần tuý chỉ là một sinh vật cao cấp nhất trong bậc thang tiến hoá của sinh vật – người là hậu duệ của khỉ – thì có thể kết luận computer hiện nay đã thông minh hơn con người, vì năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov. Nhưng chính sự kiện động trời này đã thúc đẩy Douglas Hofstadter, một trong những chuyên gia AI giỏi nhất hiện nay, xác định lại vị trí của con người: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”[5].
Thật vậy, chúng ta còn biết quá ít về bản thân mình, và có lẽ sẽ không bao giờ biết đầy đủ, vậy cớ gì chúng ta có thể tạo ra những sản phẩm thông minh như chúng ta? Nhận định này dựa trên quan điểm cho rằng mọi hiểu biết về con người đều là sản phẩm của chính bộ não. Nói cách khác, mọi nghiên cứu về bộ não đều là những hệ tự quy chiếu, và do đó sẽ không bao giờ đầy đủ. Nếu hiểu biết về bộ não không đầy đủ thì làm sao có thể chế tạo ra một sản phẩm giống bộ não? Tham vọng chế tạo ra những sản phẩm thông minh như con người sẽ càng trở thành điên rồ hơn nếu ta hướng câu chuyện sang lĩnh vực “nhận thức mềm” – nhận thức văn chương nghệ thuật và khoa học xã hội.

4. Nhận thức văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội:

Nếu gọi nhận thức của khoa học tự nhiên là “nhận thức cứng” thì nhận thức của văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội là “nhận thức mềm”. Trong nhận thức mềm chúng ta cũng thường xuyên sử dụng cả ngôn ngữ lẫn siêu ngôn ngữ. Nhưng dường như sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ ở đây nếu có, cũng chẳng gây nên sự cố gì nghiêm trọng. Không những thế, việc sử dụng cùng lúc ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ còn làm cho nhận thức mềm trở nên phong phú hơn, “mềm hơn”, kích thích tư duy nhiều hơn. Tại sao vậy ?
Vì nhận thức mềm không áp dụng suy luận logic máy móc như nhận thức cứng. Nhận thức mềm không gán cho chân lý các giá trị cứng nhắc là 1 (đúng) và 0 (sai). Khái niệm “đúng/sai” trong nhận thức mềm biến thiên một cách tương đối trong khoảng từ 0 đến 1. Thậm chí trong nhận thức mềm, chân lý không thể số hoá. Việc số hoá hình thể phụ nữ trong các cuộc thi hoa hậu là một việc làm phản nhân văn, phản lại Cái Đẹp. Không còn gì ấu trĩ hơn chủ trương số hoá Cái Đẹp. Những người tin vào các số đo để tìm ra tiêu chuẩn của Cái Đẹp là những người không hiểu gì về Cái Đẹp. Tương tự như dùng các chỉ số IQ để đo trí thông minh là không hiểu gì về trí thông minh. Cái Đẹp và trí thông minh là những giá trị cao quý và sâu sắc gấp vạn lần so với những gì có thể số hoá.
Nhận thức mềm có bậc tự do cao hơn rất nhiều so với nhận thức cứng. Bậc tự do của một dạng nhận thức nói lên mức độ phóng khoáng của dạng nhận thức đó. Dạng nhận thức có bậc tự do thấp nhất có lẽ là toán học, bởi ở đó không có chỗ cho sự mập mờ, đa nghĩa. Tranh Picasso có lẽ có độ phóng khoáng rất cao, cao đến mức hình ảnh trong tranh của ông méo mó như một “lời nói dối”. Vậy mà cái méo mó ấy lại giúp chúng ta nhận chân sự thật, nếu chúng ta có trực giác tốt và được giáo dục tốt để cảm nhận được sự thật ẩn đẳng sau “lời nói dối” ấy.
Không tồn tại một dạng nhận thức nào có bậc tự do bằng 0. Siêu toán học có tham vọng tìm ra một hệ logic chặt chẽ đến mức có bậc tự do bằng 0, nhưng Định lý Godel chứng minh rằng hệ logic đó không tồn tại.
Ngược lại cũng không tồn tại một dạng nhận thức nào có bậc tự do bằng 1. Hội hoạ hiện đại có bậc tự do cực kỳ lớn, có thể gần 1 tuỳ ý, nhưng không bao giờ bằng 1, vì bất kể một ngôn ngữ nào dù phóng khoáng đến mấy cũng không thể không có những niêm luật hoặc quy tắc tối thiểu.
Mặt khác nhận thức mềm sử dụng một hệ thống siêu ngôn ngữ rất phong phú. Chẳng hạn nếu nghe ai đó tuyên bố “Ta là kẻ nói dối” thì nhận thức mềm không bắt bẻ câu nói đó theo một chu trình logic khép kín của Epimenides, mà sẽ đánh giá mức độ tin cậy của lời nói thông qua ngữ cảnh, tâm địa của người nói, vẻ mặt, ánh mắt, cử chỉ bộ dạng của anh ta, v.v., tức là sử dụng một loạt các siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường để tiếp cận sự thật. Vì thế sẽ không xuất hiện nghịch lý và có khả năng mô tả sự thật một cách phong phú nhất.  
Khi đọc tác phẩm “Tiếng Việt, người Việt, văn Việt” của GS Cao Xuân Hạo, một tác phẩm dùng tiếng Việt để phân tích mổ xẻ tiếng Việt, tức là một tác phẩm tự quy chiếu, nhưng tôi không thấy một mâu thuẫn nào nẩy sinh, ngược lại lý lẽ trong đó rất sắc sảo, thú vị và thuyết phục. Lý do vì khi đọc một tác phẩm văn chương hoặc xã hội học, chúng ta sử dụng mọi liên tưởng, tức là sử dụng mọi siêu ngôn ngữ có thể có, trong đó trực giác là thứ siêu ngôn ngữ cao cấp nhất, do đó có thể tóm bắt được cái thần của con chữ, thần của câu nói, thay vì “dò từng câu đếm từng chữ” theo kiểu logic máy móc như computer. Nói cách khác khi đối diện với một câu nói, ta phải tóm bắt ý nghĩa toàn thể của câu nói đó ngay lập tức. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc đọc các tài liệu tiếng Việt, vì bậc tự do trong tiếng Việt rất cao. Tiếng Việt không tuân thủ các quy tắc ngữ pháp chặt chẽ như các ngôn ngữ Tây phương. Đặc điểm này cũng biểu lộ rất rõ trong âm nhạc Việt Nam truyền thống. Âm nhạc truyền thống Việt Nam có độ “lơi” rất cao. Các nghệ sĩ khi trình diễn phải ăn ý với nhau chủ yếu bằng cảm xúc ngẫu hứng, thay vì tuân theo những tổng phổ chặt chẽ như âm nhạc Tây phương. Việc “giao hưởng hoá” âm nhạc truyền thống Việt Nam một mặt có thể nâng âm nhạc VN truyền thống lên một tầm cao mới, dễ hoà nhập với dòng chảy văn hoá thế giới hơn, nhưng đồng thời cũng có thể làm giảm bớt tính truyền thống Việt Nam.
Có lẽ thơ Hồ Xuân Hương là một loại ngôn ngữ có bậc tự do cao nhất, mặc dù thơ của bà là thơ cổ điển, tuân thủ các niêm luật chặt chẽ về vần điệu. Bậc tự do này chủ yếu phụ thuộc vào việc lựa chọn từ ngữ. Hầu như mọi từ ngữ của bà đều đa nghĩa, tạo nên cái hóm hỉnh trác tuyệt mà không dễ gì một ngôn ngữ nào khác có thể bắt kịp.
Bậc tự do của ngôn ngữ là cái mà computer không bao giờ theo kịp con người. Đó là điều mà những chuyên gia AI như Hans Moravec, dù giỏi tính toán đến mấy, cũng không hiểu và không muốn hiểu. Sẽ là chuyện nực cười nếu chúng ta trông đợi vào một computer viết văn, một computer sáng tạo nên một Serenade… Chúng ta có thể thừa nhận computer tài giỏi vì đã đánh thắng vua cờ Kasparov hoặc có thể làm đủ mọi chuyện kinh thiên động địa khác, nhưng vĩnh viễn computer sẽ chỉ là “một gã phàm phu tục tử” vì không thể rung động với thơ Hồ Xuân Hương!

Garik Vaïnstein năm 1974 và Garry Kasparov năm 2010

Đó là chỗ khác nhau cơ bản giữa nhận thức mềm với nhận thức cứng.

Bộ não của con người chứa cả nhận thức mềm lẫn nhận thức cứng. Nhận thức mang tính người nhiều nhất là nhận thức mềm, thay vì nhận thức cứng như nền giáo dục hiện nay lầm tưởng. Sự lầm tưởng này vô cùng tai hại, bởi nó dẫn tới một nền giáo dục thiên về nhồi nhét kiến thức, thay vì đánh thức tâm trí học trò, và dẫn tới một xã hội thiên về chạy đua sức mạnh vật chất, thay vì chăm lo đời sống nhân văn.

 

5. Ngôn ngữ, một sân khấu mở:

 
 Câu chuyện về ngôn ngữ hôm nay là câu chuyện về giới hạn của nhận thức. Nhận thức có khát vọng là đi đến cùng kỳ lý. Nhưng ngay từ thế kỷ 18, Immanuel Kant, nhà triết học lỗi lạc người Đức, đã nói: “Câu trả lời làm dấy lên những câu hỏi mới”. Siêu toán học muốn đi đến cùng kỳ lý của toán học nhưng đã thất bại. Lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything) cũng đang muốn đi đến cùng kỳ lý của vật lý, nhưng Stephen Hawking đã đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể đi bao xa trong việc tìm kiếm sự hiểu biết và tri thức?”. Rồi cũng chính ông đã trả lời: “Bản thân chúng ta lẫn lý thuyết của chúng ta là một bộ phận của vũ trụ, vì thế lý thuyết của chúng ta là một hệ tự quy chiếu, do đó nó sẽ không đầy đủ hoặc mâu thuẫn, hoặc vừa không đầy đủ vừa mâu thuẫn[6].
Nếu nhìn toàn bộ nền văn minh như một sân khấu vĩ đại của ngôn ngữ thì sân khấu này luôn luôn mở, vì ngôn ngữ của con người không thể chấp nhận bất kỳ một trói buộc nào cả, như David Peat đã gợi ý trong cuốn “Từ xác định tới bất định”[7]:
“…tính xác định của ngôn ngữ học là một trong số những ảo tưởng của con người đầu thế kỷ 20 …Chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tránh khỏi tính mơ hồ nhập nhằng trong khi nói. Chúng ta không thể trói buộc thế giới vào từ ngữ. Nhưng rồi từ ngữ lại có rất nhiều thứ để cung cấp cho chúng ta, và cuộc sống của chúng ta sẽ phong phú hơn rất nhiều khi ngôn ngữ không bị bó vào trong một cái áo dành cho người điên[8]”.
PVHg, Sydney 07.07.2012





[1] Phiến đá cổ do một binh sĩ trong đoàn quân viễn chinh của Napoléon tại Ai cập tìm thấy năm 1799 tại Rosetta (Rashid), Ai cập, trên đó được khắc một bản văn bằng 3 thứ chữ: chữ tượng hình Ai cập cổ đại (hieroglyphic), chữ Ai cập cổ đại dạng giản lược (demotic), chữ Hy Lạp cổ. Các nhà khoa học đã lao vào giải mã chữ hieroglyphic nhưng thất bại, phải đợi mãi tới năm 1822 mới thành công, nhờ công lao của Jean Francois Champollion.


[2] Xem “Lịch sứ ít được biết về Swastika”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 03.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; http://viethungpham.wordpress.com/


[3] Xem “Lời sám hối của một nhà toán học hình thức”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 05.2009 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; http://viethungpham.wordpress.com/


[4] “Lão tử, Đạo Đức Kinh”, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, NXB Văn học 2001


[5] Xem loạt bài “Đi tìm bản chất đích thực của con người”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc từ Tháng 06.2011 đến 09.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ , http://viethungpham.wordpress.com/  


[6] Xem “Về bài giảng của Stephen Hawking: Godel và sự kết thúc của vật lý”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc số Tết Nhâm Thìn 2012 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; http://viethungpham.wordpress.com/


[7] From Certainty to Uncertainty, David Peat, bản dịch “Từ xác định tới bất định” của Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức 2011.


[8] Áo có hai ống tay đủ dài để có thể trói buộc hai tay lại (chú thích của ND).

0 nhận xét:

Đăng nhận xét