THUẬT
TRỊ QUỐC VÀ GIỮ NƯỚC
Nam Giao Lê Thiện Bình
Kính thưa
qúy vị,
Qua các
bài tham luận trước chúng tôi đã cố gắng trả lời cho
qúy vị một số câu hỏi và những ưu tư khắc khoải mà
qúy vị đề ra, để cùng nhau chúng ta bàn thảo và suy
tư, cùng nhau tìm ra một con đường cứu Nước, cứu Dân
thoát nạn, thoát khổ. Những câu hỏi đó liên quan đến
các vấn đề : Làm Thế Nào Để Phục Hưng Việt Nam hay
Tinh Thần Đoàn Kết v.v. Nay qua một câu hỏi mới qúy
vị đưa ra cho chúng tôi về Thuật Chính Trị, hay có
thể gọi là Thuật Trị Quốc và Giữ Nước. Có nghĩa là
làm sao cho Hưng Nước, An Dân, Quốc Gia được Thái
Bình, người Dân được No Ấm Hạnh Phúc …
Như quý vị
thấy, những mẫu gương về thuật chính trị từ xa xưa
cho tới thời nay, theo chúng tôi khảo cứu và học hỏi,
nghĩ rằng dẫu ngàn đời đi qua thì nó không thay đổi
gì. Cho dù thuật chính trị có thay đổi, thì bằng
cách tân kỳ, trì tá hơn, gian ngoa và độc ác hơn vv.
Chẳng hạn như cộng sản và phỉ quyền Hà Nội, là một
loại người gian ngoa, trì tá, độc ác và qủy quyệt
hơn mọi thể chế chính trị của loại người hiện hữu
trên trái đất này. Do đó khi dùng các thủ thuật
chính trị thì tùy ở tầm hiểu biết của mỗi người, tùy
ở thời gian và không gian mà thôi.
Mặc dù là
thời đại tân tiến khoa học, tin học, điện tử của
chúng ta ngày nay, thì con người thời nay cũng đả áp
dụng các kiểu thuật chính trị, phương sách giữ Nước,
trị Dân của người thời xưa. Cái điểm đáng chúng ta
lưu ý và nói đến, là làm sao chúng ta học hỏi cùng
áp dụng cho đúng, cho tốt cái hay của người đi trước,
để tùy theo giai đoạn, theo thời thế của Đất Nước mà
thực hành cho phù hợp với lòng người và lòng dân
thời nay.
Qúy vị hay
trong bất cứ lãnh vực nào, như văn chương, mỹ thuật
hay khoa học hoặc chính trị và kinh tế, luật pháp, y
khoa, kỷ thuật vv., thì thời đại chúng ta đã học
được nhiều kinh nghiệm của người đời trước để lại
cho chúng ta. Qủa như ông bà ta nói « vô cổ bất
thành kim, không có cái xưa thì không có cái nay ».
Chí lý thay ! Cái triết lý và học thuyết của người
xưa, thì người thời nay thấm nhập vào, rồi họ sáng
tạo nên cái mới cho phù hợp. Thế nhưng, đúng hơn thì
nó tựu trung và thai nghén từ các triết lý hay học
thuyết cùng luận thuyết của các triết nhân xa xưa.
Điển hình chủ thuyết « Dân Chủ » của Thầy Mạnh Tử
chủ trương, đã có từ thời tiền sử qua câu nói bất
hủ : « dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vị khinh ».
Theo ngài chủ trương khi cai trị thì phải lấy dân
làm gốc, dân mới là trọng, xã tắc và vua chúa phải
đứng dưới dân. Điều này chúng tôi thấy ở Đất Nước
Thụy Sĩ, Chánh Phủ họ rất trọng người dân, và quả
đúng là dân làm chủ và Chánh Phủ chỉ phục vụ dân,
phục vụ Đất Nước. Do thế, chúng tôi cảm nghĩ thuyết
dân chủ của thầy Mạnh Tử còn dân chủ hơn một vài thể
chế dân chủ của thời đại nay.
Vả nữa,
như học thuyết Karl Marx, thì học thuyết này chỉ là
một sự tổng hợp, chịu ảnh hưởng hay vay mượn các học
thuyết của người trước. Đơn cử của Feuerbach, Hegel,
nhất là thời tiền cách mạng như Fournier, Saint
Simon, Owen, Cabet, Blanc của Pháp, chớ thật thì
Marx chẳng có cái gì mới mẻ cả! Nếu qủa có chăng vài
cái mới, đó là thuyết « tư bản luận » và cái thuyết
« giai cấp đấu tranh » mà Marx lồng thêm vào cái
thuyết « cộng sản », để Marx làm căn bản tranh đấu
cho Marx và cho giai cấp vô sản mà thôi.
Do đó, cái
gì cũng phải có « cổ mới có kim », thì trong Thuật
Chính Trị hay Thuật Trị Dân, theo chúng tôi nghĩ tất
chúng ta cũng phải rút ra từ các bài học và cách áp
dụng cụ thể của người xưa trước đưa ra các chính
sách về phương pháp trị dân, giữ nước, hầu cho chúng
ta có được một học thuật của chính trị. Vi tùy cơ và
tùy thời mà những chính sách hay học thuật xưa đó
vẫn còn hiệu nghiệm cho thời nay khi chúng ta biết
áp dụng nó cho những hoàn cảnh hoặc tình trạng của
Đất Nước Việt Nam.
Cho nên
câu hỏi và những thao thức của qúy vị, đã giúp cho
chúng tôi những suy tư của hiện tình Đất Nước Việt
về qúa khứ, hiện tại cũng như tương lai. Bởi thế
thuật trị Quốc hay giữ Nước, làm cho hưng Nước, là
cái nghệ thuật chính trị khôn khéo của người lãnh
đạo Quốc Gia. Vì hưng thịnh hay suy vong đều do vào
cái tài khôn khéo, vào cái đức độ, cái trí hiểu biết
và cái tầm nhìn xa cùng biết dụng người của chúng ta.
Ở dây chúng tôi thấy có một điểm cần đáng nói về
cách dụng người và các cận thần của cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu : chúng tôi rất
thán phục đức độ và sự thanh liêm trong sáng của
Tổng Thống. Song cách dụng người của Tổng Thống Diệm,
thì chưa hoàn hẳn là một nhà chính trị đại tài, lãnh
đạo tài ba : biết nhìn ra cái xa, biết trông ra cái
rộng, biết nhìn người và nhìn ta. Tại sao chúng tôi
dám nói như thế ? Thưa, qúy vị nhìn đám tướng lãnh,
đám tá cận thần chung quanh Tổng Thống Diệm, là thấy
rõ câu nói trên của chúng tôi. Chung quanh Cụ chỉ là
một đám tướng phản trắc, phản loạn. Theo Cụ chỉ để
cầu danh vị và có hàm lon tướng, ngoài ra các ông
không có thực tài, đức độ gì : nào Dương Văn Minh,
Trần văn Đôn, Đỗ Mậu, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim,
Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, Mai
Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang vv.. Thế mà lạ thay Tổng
Thống Diệm lại giao cho các ông ấy nào chức cao,
binh quyền hùng mạnh trong tay, thử hỏi sao chúng
không phản Cụ và diết Cụ. Cái chết của Cụ và lịch sử
ngày đảo chánh 1.11.1963 đã chứng minh cho điều
chúng tôi nói đây thưa quý vị.
Và sau hết,
là người lãnh đạo đáng làm lúc phải làm để cứu nguy
Dân Tộc và Đất Nước, biết dung hợp và xử lý khi tình
thế bắt buộc. Tiếp đến, chúng tôi thấy Tổng Thống
Diệm có một sai lầm trong cách ứng xử của nhũng gây
phút tối quan trọng cho vận mạng Miền Nam Việt Nam :
là khi Thiếu Tá Duệ xin bỏ thành Cộng Hoà, và dồn
lực lượng đem ba đại đội lính của Lữ Đoàn Liên Binh
Phòng Thủ Phủ Tống Thống cùng với xe thiết giáp, kéo
lên tấn công thẳng vào Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực. Vì
lúc đó các tướng lãnh phản trắc, nòng cốt chủ mưu
đảo chánh là Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Trần
Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và
Đỗ Mậu đang có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu này. Tổng
Thống Diệm vì thiếu sự cương quyết và thức thời,
thiếu sự sáng suốt của một người Lãnh Đạo mưu trí,
đảm lược trong những giây phút cuối cùng đó, mà lúc
tình thế bắt buộc phải nhanh chóng nắm lấy thời cơ
ngàn vàng này mà lật thế cờ ngay tức thì. Có nghĩa y
lệnh cho Thiếu Tá Duệ thực thi lời xin lệnh, thì với
ba đại đội lính thiến chiến của Phủ Tống Thống, họ
sẽ chiếm được Bộ Tổng Tham Mưu dễ dàng như trở bàn
tay thôi. Để từ đó, Thiếu Tá Duệ có thể lật ngược
thế cờ, áp đảo và bắt sống trọn « ồ » đám tướng phản
trắc, phản loạn bán Nước này, thì lịch sử Miền Nam
Việt Nam và Đất Nước Việt khác hẳn hơn bây giờ nhiều
lắm.
Một phút
chần chờ, một phút của vận mệnh cho Dân Tộc và Đất
Nước trong tay Người, nhưng Tổng Thống không hoàn
thành được sứ mạng cứu nguy này. Khổ thay vì giờ
phút đó mà tổng thống Diệm con tin rằng mình có thể
dàn xếp được với các đám tướng phản trắc, phản loạn
này, thì là một « sai lầm » của Người, để rồi tổng
thống Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu phải chết thảm
và tức tưởi trong uất nghẹn! Còn Đất Nước, dân chúng
Miến Nam phải ra thống khổ như hiện nay. Ở đây chúng
tôi không có ý trách cứ cố tổng thống Diệm và làm
giảm giá trị nhân cách và đạo đức của Người. Thế
nhưng đã mang thân làm chính trị, thì đòi hỏi phải
đặt lý trí trên con tim, đặt người Dân, Đất Nước lên
trên gia đình và tình cảm cá nhân. Thế đó, lắm lúc
ta phải nghĩ rằng thà phụ một ít người hơn là phụ cả
một Dân tộc, một Đất Nước. Qúa khứ lịch sử là một
bài học cho chúng ta, cho những người lãnh đạo sau
này khi cần hành động cấp thời thì ta nên hành động
ngay, không chần chờ suy tính để cứu nguy tình thế.,
và cứu nguy Đất Nước cùng Dân Tộc tồn tại.
I.
NGHIÊM LỆNH £ CHÍNH SÁCH SÁT NHẤT NHÂN VẠN NHÂN CỤ
CỦA THƯƠNG ƯỞNG
Khi
chúng tôi đọc các báo của cộng sản Hà Nội như Kinh
Tế Thời Báo, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Công An, An Ninh,
Pháp Luật, Việt Nam Express vv., đều nói đến cái nạn
tham nhũng trầm trọng như căn bệnh nan y trong guồng
máy của chế độ phỉ quyền Hà Nội hiện tại. Lúc đó
chúng tôi liên tưởng đến cái chiến thuật « diệt
thượng trị hạ » của Thương Uởng thời xưa, mà chúng
tôi muốn kể lại cho quý vị câu chuyện này :
- Thương Uởng
sau khi được Tần Hiếu Công hoàn toàn tín nhiệm, thì
Thương Uởng đuợc tấn chức Tả Thứ Trưởng như Thủ
Tướng ngày nay. Lúc ông nắm hết quyền chính của nhà
Tần, thì Uởng đã ban ra một tân lệnh cho toàn dân
nhà Tần lúc ấy phải nghe theo.
Khi ông
ban ra lệnh mới này thì dân chúng hoang mang và nghị
luận với nhau, kẻ thi khen, người thì chê khắp cả
Nước. Thương Uởng chẳng cần gì cả, ông liền thực thi
quyền lực bằng cách cho bắt hết đám dân bàn tàn xôn
xao, lời ra tiếng vào này vào phủ của ông. Ông khiển
trách họ rằng :« chúng bay là dân, khi Nhà Nước ra
lệnh tất phải tuân lệnh, chớ không thể người cho là
dở, kẻ nói hay gì cả! Kẻ nào nói bất tiện hay là nói
dở, là người nghịch lệnh. Còn người nào nói tiện hay
nói hay, đều là kẻ mị lệnh, không phải là luơng
dân ». Nói xong ông truyền lệnh cho quân lính biến
tên họ tất cả đám người này thành lính thú, và đày
họ ra biên cương. Còn các quan Đại Phu, như là Cam
Long, Đỗ Chí cũng bị cách chức, phát vãn về làm thứ
dân, ví cái tội nghịch tân pháp. Để rồi từ đó ai đi
ngoài đường, cũng đều lấy mắt ngó nhau, chẳng ai dám
mở miệng hé môi nói chuyện hoặc bàn luận gì. Thương
Uởng đã gieo rắc sự sợ hãi cho toàn dân (như cách
cộng sản dùng chính sách khủng bố ám sát cho dân
sợ), dân chúng không ai dám phản đối chánh quyền.
Thuơng Uởng cho đại pháp, để quân lính xây thành Hàm
Dương, rồi chọn ngày dời đô.
Thế Tử phật
lòng, chê bai tân lệnh của Uởng là không tốt, không
hay. Thương Uởng tức giận nói :« phép Nước không làm
được là tại bề trên không nghiêm. Thế Tử là con của
Chúa Công, ta không thể gia lệnh trị tội, thì phải
trị tội gián tiếp những người không dạy đuợc Thế
Tử ». Lúc nói xong Uởng thưa với Hiếu Công trị tội
Sư Phó của Thế Tử là hai quan Thái Phó Công Tử Kiên
và quan Thái Sư Công Tôn Cổ, một người thì bị cắt
mũi, người kia thì bị chàm lên mặt. Do thế khi trăm
họ nghe thấy vậy đều xanh mặt sợ hãi. Họ nghĩ rằng
Thế Tử là con Vua khi vi lệnh còn bị bắt đến Sư Phó
và trị tội, huống chi là ai khác. Từ lúc ấy, thì
lòng dân mới định, và hết thảy mọi người đều cúi đầu
vâng mệnh theo tân lệnh của Thái Uởng.
Chúng ta
thấy ở đây Thương Ưởng đã dùng chính sách độc tài
bắt dân phải nghe theo, ông cấm mọi người « bất khả
nghị luận » để đưa tân lệnh của ông ra thi hành. Cho
dù là Thế Tử con Vua nhưng vẫn bị gia tội vì dám
nghị luận chê bai tân lệnh của Uởng ban hành. Chúng
tôi nghĩ Thương Uởng đã biết dùng cái thuật « diệt
thượng, trị hạ » hầu định lại lòng dân hoang mang.
Qủa dân sợ tội hình, bởi họ đạ thấy như Thế Tử còn
bị gián tiếp gia hình qua hình phạt Thái Phó Công Tử
Kiên và Thái Sư Công Tôn Cổ, thì họ là hạng người
dân đen khố rách, áo ôm, lúc vi lệnh tất tội lại
càng nặng biết bao. Sách thuật mà chúng tôi thấy
Thương Ưởng dùng đây giống như sách thuật « trảm
tướng » của Tôn Vũ Tử trong lúc ông huấn luyện nữ
quân, trong số những nữ quân này có hai ái thiếp của
Vua Ngô dám khinh thường tuớng lệnh, nên Tôn Vũ Tử
đa ra lệnh cho quân sĩ chém đầu hai bà làm gương, để
trị ba quân cùng bá tánh. Qủa nhiên khi chém đầu hai
bà xong, thì lòng quân định ngay, không còn ai dám
vi lệnh nữa.
Do đó, tùy
thời và tùy thế, tùy lúc hoàn cảnh Đất Nước cần đến
những nghiêm lệnh nhặt nhiệm để thi hành một chính
sách nào đó có lợi cho Tồ Quốc, thì ta đừng ngại mà
không dám thi hành. Vì như chúng ta thấy trường hợp
của Thương Uởng, nếu như ông ngại không dám gia hình
gián tiếp Thế Tử qua hai vị Sư-Phó, thử hỏi làm sao
ông có thể thực hành tân lệnh ban ra cho nghiêm
minh, hầu đưa lại sự thành công cho nhà Tần được ?
Qủa như Thương Uởng không dám phạt hình các quan đại
phu Cam Long, Đỗ Chí và hai Sư Phó của Thế Tử, thì
lẽ tất nhiên dân chúng sẽ không sợ mà tuân hành tân
lệnh của Nhà Nước. Do thế, qúy vị thấy đây là cái
chính sách « sát nhất nhân, vạn nhân cụ » giết một
người để cho vạn người thấy mà sợ, Viết đến đây, thì
chúng tôi nhớ lại Việt Cộng cũng đã dùng chính sách
này, để hoàn toàn đổ tội cho một người chịu, là đã
chủ trương sắt máu cho cái cao trào đấu tố vào những
năm 19954-1955. Chúng ta thấy cái chính sách này hóa
thành cái sách :« sát nhất nhân, vạn nhân định », có
nghĩa giết một người để làm cho lòng dân được định.
II.
CHÚNG TA THỬ DÙNG CÁI THUẬT DIỆT THƯỢNG, TRỊ HẠ ĐỐI
VỚI BỌN SÂU DÂN MỌT NƯỚC
Qúy vị hay
ở bất cứ thời đại nào, chế độ nào cũng có những bọn
sâu Dân, mọt Nước, tham nhũng, hối mại, cậy quyền
thế. Nhất là vào thời nay tại quê nhà, khi đọc các
báo của phỉ quyền Hà Nội và Đảng cộng của chúng, qúy
vị thấy nào Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần
Đức Lương, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh
Triết, Nông Đức Mạnh, Nguyền Tấn Dũng vv., mạnh
miệng gào thét, rống to lên diệt trừ tham nhũng. Ôi
nào là đại hội Đảng, nào nghị quyết của Đảng, của
Nhà Nước, phải diệt trừ cho bằng được. Các ông lớn
càng kêu gào, thì bọn tham nhũng càng bành trướng
mạnh từ giai cấp lớn đến giai cấp bé trong xã hội
Việt Nam hiện thực. Chuyện tham nhũng, hối lộ, tranh
dành nhau ăn cướp của dân, trở thành như một chính
sách, một căn bệnh trầm kha của chế độ phỉ quyền Hà
Nội thời nay.
Chúng tôi
nhớ lại với hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa Miền
Nam, Chánh Phủ đã có lần dùng đến sách thuật « Diệt
Thượng, Trị Hạ », hay cái sách thuật « Sát Nhất
Nhân, Vạn Nhân Cụ » qua việc xây pháp trường để xử
bắn các gian thương. Song chuyện đáng buồn và đáng
tiếc, là chỉ bắn có một tên là xong, rồi êm ru luôn.
Qủa thực, khi Nhà Nước muốn áp dụng cái chính sách
này mà áp dụng không đến nơi, đến chốn, thì hoá ra
là cái bất lợi, làm nghịch lại cho mình. Vì các gian
thương khác thấy Chánh Phủ không quyết tâm diệt họ,
thì họ lại càng lộng hành hơn. Bởi họ nghĩ Nhà Nước
chỉ làm cho lấy lệ, không thật tâm tiêu trừ họ. Do
thế mà chúng không sợ, lại còn gian thương hơn nữa.
Chúng tôi nghĩ gian thương ở Sài Gòn trước đây có cả
ngàn tên, mà xử bắn có một tên, thì chẳng khác chi
nhổ một cây cỏ dại trong đám cỏ của vườn hoa. Chúng
tôi thấy đây là điều nguy to! Vì khi chúng ta đã áp
dụng một chính sách, thì phải áp dụng cùng thi hành
cho tận lực, triệt để đến cùng cái chính sách đó hầu
mới có hiệu qủa. Còn trái lại, chúng ta làm cho có,
nữa vời, làm lấy lệ thì là sự đại họa. Phải chi vào
lúc đó, ông Kỳ chém thêm vài chục cái đầu « đại xì
thẩu » nữa, không chỉ là cái đầu của Tạ Vinh thôi,
thì chắc chắn các bọn gian thương hạng trung, hạng
xoàng thấy thế sẽ mất hồn, hoảng sợ mà chừa bỏ cái
thói gian thương, trục lợi cho mình hết rồi.
Do vậy, từ
câu chuyện này chúng tôi nghĩ đến tình trạng bi đát
của Nước Việt Nam hôm này do cái nạn tham nhũng, hối
lội, buôn lậu, thụt két, ăn cướp tài sãn của Dân và
Nhà Nước vv.. của chế độ Hà Nội, không có gì là
không trị được. Chuyện là chúng ta có dám làm không?
Mà khi chúng ta trị, thì phải triệt tiêu trị tận
gốc. Nếu như ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết
có được cái hào khí và đủ can đảm như Thương Uởng
hay Tôn Vũ Tướng, ông dám ra lệnh cho quân lính đem
ra pháp trường xử bắn hằng trăm ông quan lớn lãnh
đạo từ trong Bộ Chính Trị , trong Trung Ương Đảng,
trong các Bộ Phủ, trong hàng ngũ Tướng lãnh cao cấp
hoặc các ông cựu Tổng Bí Thư, Chủ Tịch, Thủ Tướng,
các đảng viên cao cấp vv., mà dân chúng đâm đơn tố
giác, báo chí vạch mặt, thưa kiện, vạch tên họ rõ
ràng về các tội tham nhũng, hối lộ, cướp đất đai của
dân chúng, buôn lậu, thụt két, tống tiền, làm ăn phi
pháp, cậy quyền thế hà hiếp dân lành, ăn cướp nồi
cơm, manh áo của dân đen…, thì các ông quan nhỏ, cán
bộ, đảng viên hạng trung, các chú công an huyện xã
khu phố, công lộ, an ninh vv., thấy đó mà khiếp vía,
không dám còn cái tật vòi vĩnh « tiền trà nước, bồi
dưỡng, thủ tục đầu tiên » một cách trắng trợn, nhờ
vậy cái nạn tham những, hối lộ giảm dần và hết hẳn.
Các ông nên bắt chước như gương Nước Nam Hàn, Đài
Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan vv.. Như Nam Hàn, họ dã
xử án nặng và bỏ tù nhiều năm hai ông cựu Tổng Thống
Chung Đỗ Hoán và Lỗ Đại Ngu về tôi tham nhũng, ăn
tiền hội lộ, cùng hối mại quyền thế trong lúc đương
quyền.
Tuy dùng
những sách « Diệt Thượng, Trị Hạ hay Sát Bách Nhân,
Vạn Nhân Cụ hoặc Sát Nhất Nhân, Vạn Nhận Định » có
chút hơi ác – Nhưng một khi vì Quốc Gia, vì xã hội,
vì nhân dân, hầu cho lòng dân đưọc ổn định, xã hội
được vãn hồi, thì ta phải bỏ những tiểu tiết để cứu
lấy sự ổn định cho Quốc Gia, Dân Tộc, để Đất Nước
thăng tiến hay là cứu lấy mọi người. Do đó, chúng ta
không thể vì cái thiện nhỏ mà bỏ mất cái đại thiện
của toàn dân. Nếu qủa ta đã có chính sách chống tham
nhũng, hối lộ, chống buôn lậu, trộm cướp dù dưới
hình thức nào vv., thì ta dùng biện pháp mạnh đối
với hạng sâu Dân, mọt Nước này cho dù là gì đi nữa :
Tổng Bí Thư, Thủ Tướng, Đại Tướng, Tổng Trưởng, Cục
Trưởng, cựu Bí Thư này Bí Thư nọ, con ông cháu cha –
Chánh Phủ dùng « Nghiêm Lệnh » bắn gục một vài chục
người, vài trăm người trong lớp người sâu mọt hại
dân, hại Nước này, hầu cứu lấy hạng muôn vạn người,
cứu lấy gần 90 triệu người dân Việt được ổn định xã
hội, thì điểm nào lợi hơn cho Quốc Gia, Dân Tộc,
chúng ta nên suy xét lại ? Bởi chỉ có một số người
vô lại này làm cho Quốc Gia trì tệ không thể thăng
tiến được, tắt ta cần phải loại trừ họ mới có thể
làm cho Đất Nước thăng hoá .
Chúng tôi
nghĩ dùng cái sách «Sát Nhất Miêu Cứu Vạn Thử, Giết
Một Con Mèo Cứu Ngàn Con Chuột », chúng ta có thể
gọi là bá đạo trong sách thuật « Diệt Thượng, Trị Hạ »
để ổn định cho xã hội Việt Nam hiện nay, thì không
có điều nào lợi cho bằng. Vì nếu cứ để tình trạng
tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, làm ăn phi pháp kéo
dài mãi, ắt Quốc Gia cứ mãi chậm tiến, lạc hậu,
nghèo đói triền miên vv. không cất cánh lên được sự
giàu có và hùng cường cho Nước Nhà. Thử hỏi ông
Nguyền Tấn Dũng có bản lãnh làm chuyện này chăng ?
Còn nếu không thì chớ có mạnh miệng thét gào chống
tham nhũng, hối lộ, hay chính bản thân ông và gia
đình ông cũng hối lộ, tham nhũng, cướp của một mè
như nhau với cái Bộ Tà Trị và Đảng Cướp Sãn của ông ?
III.
PHƯƠNG
SÁCH TRỊ DÂN
Thưa qúy vị, bất cứ thời đại nào khi nói đến phương
pháp trị dân thì thực là khó, chớ không dễ như chúng
ta ăn cơm ngày ba bữa, thỉnh thoảng « lai rai » cốc
rượu, ly bia bàn chuyện đời, chuyện thời sự đây đó.
Qủa biết bao nhiêu học thuyết của người xưa và kim
thời đã viết ra rất nhiều pho sách, nói đến nhiều
phương sách trị dân cho có hiệu qủa. Chúng ta cần
làm sao để Đất Nước được hùng mạnh và dân tín nhiệm
nơi chính thể, hầu họ sống chết với Đất Nước, với
chính thể ? Làm thế nào cho người dân yêu mến chế độ,
và làm cho người dân được an cư lạc nghiệp, thì
chúng tôi nghĩ đây là vấn đề vạn nan. Mình chưa làm
chủ được mình, tức là tu thân chưa nỗi, thì làm thế
nào ta trị được nhà ? Chuyện trị nhà chưa xong, thì
không thể nào ta trị Quốc được ! Rồi trị Quốc không
làm được, thì cũng thế, làm sao ta bình thiên hạ
được ? Đây là những điếu mà Đức Không Phu Tử đã nói
đến 2500 trước rồi, muốn trị Nước thì hãy « tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ ». Do thế, câu hỏi
gợi ý của qúy vị về vấn đề này, thật qủa là vạn nan
như chuyện lên thiên đàng hoặc vào cỏi niết bàn, hay
là vào chốn bồng lai tiên cảnh vậy.
Qúy vị
biết Tôn Tử là một trong những nhà binh pháp hàng
đầu của Trung Hoa và nhân loại, qua trong pho sách
12 Thiên Binh Pháp, Tôn Tử cũng chú trọng đến vấn đề
trị Nước an Dân. Vì có trị được Nước, có an định
được Dân, thì ta mới có thể dùng đến Binh Pháp. Chớ
Nước mà ta trị chẳng xong, thì làm thế nào mà ta
dụng binh được ? Trong Binh Thư Tôn Tử, ngài đã viết
các phương sách trị quốc, phương sách an dân ; là
Đạo, Thiên, Địa, Tướng, Pháp. Riêng cái trị Đạo, là
đứng đầu, đây là thuật nằm được nhân hòa. Bởi theo
Tôn Tử, thì Đạo làm cho dân vui hòa đồng với người
trên, để người dân có thể cùng sống và cùng chết mà
không sợ nguy nan. Do đó, nếu chúng ta muốn thực
hành được Đạo, thì chúng ta có bổn phận phải làm cho
dân yêu mến chế độ, yêu mến Nhà Nước (Chánh Phủ),
hầu tạo được sự đoàn kết mọi người từ trên xuống
dưới. Đây là phương sách Thứ Chi, quả chúng ta áp
dụng và thực hành được viên mãn sách này, thì lòng
dân sẽ quy về một mối, họ sẽ sống chết vì Quốc Gia,
Dân Tộc.
Thế nhưng
phỉ quyền Hà Nội, Đảng cướp sản của chúng không có
được các Phương Sách Đạo và Thứ Chi như chúng tôi đã
nói trên. Chúng cai trị bằng bạo lực, khủng bố, gian
dối, lừa lọc và cướp bóc tài sản của dân chúng, cũng
như đem Lãnh Thổ và Lãnh Hải của Quốc Gia mà bán và
cho không bọn Rợ Hán Tàu Cộng, lại còn chịu khom
lưng làm nô bộc cho bọn bá quyền, bá đạo Bắc Kinh.
Chúng trị dân bằng phương sách đem các anh chị em
trẻ đi bán làm nô dịch lao động, thậm chí làm nô lệ
tình dục ở xứ người. Chúng lừa đảo cướp nhà, cướp
mồ hôi chén cơm, cướp luôn đồng tiền làm thân gái ở
xứ người. Nhất là mới đây vào ngày 20.01.2010 và
29.01.2010 phỉ quyền Hà Nội muốn làm hai lòng đại ca
Bắc Kinh, nên chúng đã xử án các anh chị em Yêu
Nước như Lê Công Định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến
Trung, Trần Kim Anh, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Thanh
Nghiên vv. một cách mọi rợ và bá đạo như lũ thảo
khấu, không hiểu gì về Luật Pháp và Nhân Quyền. Mà
đúng thật, chúng có biết gì về Luật Quốc Tế, Luật
Hình Sự, Luật Nhân Quyền đâu. Chúng chỉ có hiểu được
một luật là lệnh Đảng cướp, lệnh đại ca Tàu phù Bắc
Kinh.
Thêm nữa,
chúng tôi nhận thấy Ngô Khởi, một Tướng Quốc tài ba
vào thời Đông Châu, ngài cũng ghi chép lại các
phương sách trị Nước các câu sau, để nhắc nhở các
cấp lãnh đạo rắng :
« Trong
Nước bất hòa thì không nên ra quân,
Trị
quân bất hoà thì không nên ra trận.
Trong
trận địa bất hòa thì không nên tiến lên.
Lúc
tiến lên mà bất hòa thì không nên quyết thắng »
Qúy vị
thấy như Câu Tiễn Nước Việt (mà chúng tôi đã nói đến
trong bài Tinh Thần Đoàn Kết ), bởi muốn trả cho
xong cái nợ mối quốc thù, nên ông đã áp dụng phương
thuật trị dân, an dân ; nhờ đó mà ông đã trả thù
được Ngô, và tiêu diệt luôn Nước Ngô ! Cái hay và
thực dụng của Việt Câu Tiễn vì muốn được nhân hòa,
nên ông đã áp dụng một chính sách thân dân, vì dân,
cùng đồng hòa với dân. Nói tóm lại nhất cử, nhất
động tất tất vì Dân vì Nước, như cùng lao khổ, cùng
sống chết, vui buồn với dân, ngay cả mang thân tù
đày, làm tên nô dịch nuôi ngựa, thậm chí đến cả nếm
phân vua Ngô, Câu Tiền không ngại và sợ nhục nhả.
Trong đầu ông chỉ nghĩ một điều vì Dân, vì Nước để
phục thù, nên ông không quản ngại và quan tâm đến
những chi tiết nhỏ này. Nhờ thế, Việt Câu Tiễn trả
được mồi thù Quốc Gia, mới tạo nên nghiệp Bá.
Hoặc nữa,
như Khổng Tử Nha lúc chưa gặp thời thì ngồi câu cá
nơi sông Vệ, lúc ấy ông đã nghiên cứu ba mươi sáu kế
sách an dân, trị nước như Đả Thảo Kinh Xà, Vô Trung
Sinh Hữu, Tá Thi Hoàn Hồn vv.. Còn Quản Trọng, trước
khi lập nghiệp Bá cho nhà Tề thì ông cũng đã lập ra
được 7 kế sách : như Tắc, Tuớng, Pháp, Hóa, Quyết
Tắc, Thâm Thuật và Kế Số. Tuy nhiên, chúng ta hay
cái vần đề tranh thủ Dân Tâm là rất hệ trọng. Dân
tâm không quy về chính thể, thử hỏi làm sao mà trị
dân, an dân cho được ? Do vậy mà người xưa chia ra
làm hai loại tranh thủ dân tâm :
1. Chính Sách
Cầu Hiền Tài
Người lãnh
đạo giỏi, là người biết cầu hiền tài để họ giúp ta,
cùng chúng ta lo gánh vác, chia sẻ việc trị Quốc và
an Dân. Do thế, người Lãnh Tụ hay vị Quốc Trưởng là
phải biết cách dụng nhân. Vì cần có nhiều nhân tài
giúp Nước mới có thể trị an được Nước, và làm cho
Quốc Gia hưng thịnh cùng giàu mạnh, dân chúng no ấm
và hạnh phúc. Qủa Tề Hoàn Công tạo được nghiệp Bá là
nhờ vào đám tôi thần giỏi như Quản Trọng, Ninh Thích,
Thấp Bằng, Tần Tô Võ, Bào Thúc Nha. Hay Việt Câu
Tiễn an định được dân, làm cho dân giàu Nuớc mạnh,
là do công lao của Văn Chủng và Phạm Lãi. Hoặc nữa
như Hán Lưu Bang lập nên được nhà Hán, là hoàn toàn
do các hiền thần Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà vv..
Thực một vị vua, Tổng Thống, Thủ Tướng, Lãnh Tụ có
tài giỏi mấy đi nữa, thì không thể quán xuyến hết
được mọi công việc, mà cần các người tài đức, các
chuyên gia giỏi về xã hội chính trị, binh bị, luật
pháp, hiến pháp, kinh tế, an ninh quốc phòng, giáo
dục, ý tế, khoa học kỷ thuật vv.. Như ngày nay qúy
vị thấy các vị Tổng Thống, Thủ Tướng, bên cạnh các
ông luôn có các vị cố vấn, các chuyên gia giỏi chính
trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, giáo dục, xã hội
cùng luật pháp… Chính nhờ các vị chuyên gia và cố
vấn trong các lãnh vực trên, giúp cho các vị Tổng
Thống, Thủ Tướng, điều khiển được guồng máy Nhà Nước
càng ngày càng thăng tiến trên mọi phương diện.
Một điều
hiển nhiên như ánh sáng mặt trời, là phỉ quyền Hà
Nội vá các cấp lãnh đạo của họ không có chính sách
cầu hiền tài, mà chỉ có bè đảng cùng hạng người theo
« voi » ăn bả mía, chia chát quyền lợi, « xôi thịt, cơ
hội, nịnh bợ » như ông Nguyễn Bá Thanh, Bí Thư Thành
Ủy Đà Nẵng, Ủy Viên Trung Uơng Đảng, viết bài « Nhân
Sự Đại Hội Đảng 11 », nói đến tình trạng này. Nhất
là, chúng là những ông tổ tham nhũng, ăn hối lộ, ăn
chận, ăn bớt hàng tỷ Mỹ Kim của các chương trình và
dự án phát tiển kinh tế, y tế , hạ tầng cơ sở cho
Việt Nam : Đây là những số tiền viện trợ có tính
cách nhân đạo giúp Việt Nam phát tiển và thăng tiến
của các nước như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Đức, Anh, Pháp,
Ý, Liên Hiệp Âu Châu, Hoà Lan, Na Uy, Thụy Điển,
Thụy Sĩ, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan vv.. Bởi vậy
những ông lớn của phỉ quyền Hà Nội mới có tài sản
hàng tỷ Mỹ Kim. Chúng tôi xin quý và đồng bào Việt
Nam vào trang báo điện tử : Diễn Đàn VN-Politics đọc
bài báo « Tỷ Phú Dollars Việt Cộng » ngày 31.10.
2010 sẽ thấy tài sản khổng lồ bằng Mỹ Kim của các
ông lớn Việt gian Cộng Sản. Trong khi đó người dân
chạy gạo ba bữa vẫn không đủ ăn, chạy xe ba gát và
xe ôm từ sáng sớm tinh sương đến tối khuya, vẫn
thiếu ăn triền miên.
2. Chính Sách
Đắc Dân
Đây là
chính sách đắc nhân tân, cũng là sách thuật làm thế
nào chúng ta thuận được lòng dân. Có nghĩa là chúng
ta tránh ghét cái điều dân thích, và đừng thích cái
điều dân ghét. Đơn cử, dân thích có các thứ tự do
căn bản : như tự do buôn bán, hội họp, tự do đi lại,
tự do tôn giáo, báo chí và ngôn luận, tự do thành
lập hội đoàn, nghiệp đoàn, đảng phái đối lập vv.. mà
chúng ta (Nhà Nước) lại cấm đoán. Cũng thế, chúng ta
phải làm các điều cho dân mến, dân thích. Có nghĩa
là vì họ mà chúng ta quan tâm lo lắng : như cùng
chia sẻ lao khổ với dân, cùng sống vui buồn, cay
đắng với dân. Ví dụ, dân không đủ cơm ăn, áo mặc,
không mái nhà trú thân, mà ta cứ ở những ngôi nhà
sang trọng, ăn uống phủ phê, đi đâu cũng xe hơi lộng
lẫy đắc giá, thì là trái nghịch. Hoặc nữa khi bị
giặc giã, dân chưa chạy mà ta lại cuốn gói, đảo tẩu
chạy trước dân, thì làm sao dân kính mến, cảm phục
được? Bởi đó, chúng ta nói làm sao cho dân nghe lọt
tai đây ? Chúng ta hãy bắt chước như Lưu Bị, khi bị
Tào Tháo đánh đuổi từ Tân Dã chạy dài xuống Giang
Lăng ra Hạ Bi, song Lưu Bị không thể bỏ dân ra đi
một mình để thoát thân. Nhờ hành động sống chết với
dân này nên dân chúng đã mến cái đức của ông. Vì họ
đã thấy Lưu Bị lúc nguy ngập nhất đã cùng họ chia sẻ
lao khổ, cùng sống chết và chịu hoạn nạn với họ
trong lúc giặc Tào Tháo đang lăm le sát hại.
Chúng ta
thấy hai hành động của Câu Tiễn và Lưu Bị đây, đã
biết hòa mình hết tình với dân, họ cùng sống lao
khổ, chia ngọt sẻ bùi với dân trong mọi nghịch cảnh,
nên dân mới mến đức hai ông mà hết lòng sống chết vì
Nước, vì Vua hấu đánh đuổi quân thù. Nhìn gương
Người mà nghĩ đến các vị lãnh đạo của chúng ta trước
dây : nào ông Nguyễn Văn Thiệu, ông Trần Thiện
Khiêm, ông Dương Văn Minh vv., không có được một
chút anh dũng và khí tiết như Tổng Thống Diệm, Ông
Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Vả nữa các ông
Thiệu, Khiêm, Minh còn thua xa một người dân bình
thường, chớ gì nói đến làm tổng thống, thủ tướng,
đại tướng làm nhục cho cái chức và hàm lon tướng cao
qúy của Quân Đội. Người thì giặc Việt cộng chưa đến
Sài Gòn, nhưng các ông đã lo thoát thân với gia đình
trước người dân Miền Nam. Còn ông hèn tướng Dương
Văn Minh, chưa đánh đấm gi, chưa bắn được một viên
đạn thì dã bàn tính chuyện đầu hàng và bàn giao Miền
Nam cho phỉ quyền Hà Nội. Chúng tôi còn nhớ câu nói
ông Thiệu tuyên bố khi từ chức Tổng Thống : «mất một
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng còn một Trung
Tướng Nguyễn Văn Thiệu, nguyện sát cánh bên đồng
bào ». Sát cánh với dân chúng đến cùng, nghe sao mà
đắng cay chua xót với thân phận dân đen chịu trận
thế ông. Cái lon trung tướng của ông Thiệu, hay cái
chức tổng thống của ông Thiệu, cái lon đại tướng của
Ông Khiêm vá cái chức thủ tướng của ông cùng cái lon
đại tướng Dương Văn Minh và chức tổng thống của các
ông qủa không xứng mang lon tướng trên vai, không
xứng ngồi chiếc ghế tổng thống. Tại sao ông Thiệu ra
lệnh cho di tản Quân Lính của Quân Khu II, rồi kế
tiếp cho di tản Quân Khu I ? Bảo rằng thiếu đạn dược
vũ khí, không còn nguồn viện trợ dồi dào ? Chỉ là
ngụy lý, không chính đáng! Chúng tôi sẽ bàn đến viêc
này trong « chính sách tự túc » hầu qúy vị rõ. Dù có
thiếu đạn dược vũ khí, nhưng chúng ta cứ chiến đấu
cho đến viên đạn cuối cùng để làm tròn trách nhiệm
của một người tướng, mội vị tổng thống. Vì thân làm
tướng thi phải chết trên chiến trường, lấy da ngựa
bọc thây. Chúng tôi tự hào có những người cha, người
anh không chịu buông vũ khí, anh dũng chiến đấu cho
dến giờ thứ 25. Người thì đền nợ Nước, Người thì bị
bắt tù cải tạo ..
Thưa quý
vi, qua bài viết này kính xin qúy vị thông cảm cho
chúng tôi là những người đi tìm lịch sử cần phân
tích mô xẻ sự thật của lịch sử. Để từ đó rút ra bài
học cho tương lai, hầu xây dựng lại một lịch sử mới
cho mọi người Việt có thể ngẩng đầu vươn cao với bạn
bè Quốc Tế Hoàn Vũ. Thế đó, qua cung cách, lòng tự
trọng, lời hứa và danh dự của một vị tướng, thủ
tướng và tổng thống thua xa và không xứng đáng bằng
hàm lon Binh Nhất, Hạ Sĩ của một anh lính Việt Nam
Cộng Hòa vẫn chiến đấu và cố thủ cho đến giờ phút
cuối của ngày 30.04.1975. May thay Miền Nam vẫn có
những dũng tướng và nhưng dũng lính anh hùng, khí
tiết để khỏi hổ thẹn với giặc thù cộng sản và với
thiên hạ năm châu bốn bể : như Trung Tướng Nguyễn
Vinh Nghi, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Thiếu Tướng
Lê Minh Đảo, Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, Chuẩn Tướng
Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ
Ngọc Cẩn, Trung Tá Nguyễn Văn Long, đánh đến cùng và
lấy cái chết để báo đáp ân tình với Non Sông Đất
Nước. Người thì bị Việt cộng bắt, Ngưòi thì tự sát.
Chúng tôi xin cúi mình bái phục và kính trọng cái
Đức, qúy mến cái Dũng của qúy Dũng Tướng, Dũng Tá,
Dũng Lính này! Đây là tấm gương soi trên bước đường
tranh đấu và khôi phục lại Việt Nam trong Đạo Lý,
trong Trung Hiếu và Nhân Nghĩa, trong Tự Trọng cùng
Danh Dự, trong Tiết Trung và Anh Dũng …nhất là, dám
xã thân vì Nước vì Dân.
Giờ đây,
chúng tôi kính mời người trị Nước giỏi hay người
lãnh đạo tài ba, vui lòng nên nghe lại lời nói của
Quản Trọng nhắn nhủ chúng ta :« Nhà lãnh đạo đòi hỏi
nơi dân những gi ? Có phải đòi dân vì Vua mà cố gắng
lao khổ, vì Vua mà hết lòng hy sinh cho Đất Nước.
Còn dân thì họ đòi hỏi những gì nơi nhà lãnh đạo ?
Dân đòi hỏi cho họ ấm no, yên ổn, cho họ nghỉ ngơi,
có công thì thưởng, có tội thì phạt. Nếu trường hợp
vị lãnh đạo Quốc Gia không thỏa mãn cho dân các sự
đòi đó, thì chớ mong đòi hỏi dân điều gì nữa ». Tuy
lời nhắn nhủ này của Tể Tướng Quản Trọng đã trải qua
hằng nghìn năm, thế nhưng luôn hợp lý và hợp thời
qua mọi thời đại. Nhất là cho Việt Nam chúng ta hôm
nay, qua sự cai trị của phỉ quyền Hà Nội không làm
được cái điều người dân Việt đòi hỏi ấm no, yên ổn,
nghỉ ngơi chút nào. Bao người dân bi chúng bóc lột
đến tận xương tủy, nhà cửa ruộng vườn của dân bị phỉ
quyền Hà Nội và Đảng thổ phỉ của chúng cuớp
sạch.Trên Đất Nước Việt Nam, không có ngày nào mà
người dân mất nhà, mất đất đi biểu tình hay thưa
kiện.
Riêng
Không Tử, thì ngài đưa ra cái chính sách « Nhân Trị »,
cốt lấy đạo đức, nhân nghĩa mà trị dân, cho dân mến
đức mà đi theo chính thể. Do thế, người lãnh đạo
giỏi phải học cho hiểu được thuật đắc nhân tâm, để
nắm được nhân hòa, là làm cho Quốc Gia vững bến và
người dân thì được an cư lạc nghiệp, hầu Đất Nước có
cái sinh khí thái bình cùng thịnh trị.
IV.
TRỊ DÂN
BẰNG CHÍNH SÁCH «KHOAN MÃNH TƯƠNG TẾ »
Khi
chúng tôi viết bài này cùng những giòng này cống
hiến cho Đất Nước và Đồng Bào Việt và Qúy Vị, thì
chúng tôi liên tưởng đến một chính sách trị dân của
người xưa để lại và có hiệu qủa, đó là sách thuật « Khoan
Mãnh Tương Tế ». Chính sách này do Tư Sản làm Tướng
Quân của Nước Trịnh đề ra. Qúy vị biết Tư Sản làm
Tướng lâu năm hằng dùng phương sách khoan dung mà
trị dân, thương người dân như con đẻ. Đến lúc phải
từ giả cỏi trần ông mới cho gọi Tử Thái Thúc đến mà
khuyên nhủ như sau :
« Ta không
còn sống bao lâu, sau khi ta tạ thế, nhà ngươi sẽ
thay ta làm Tướng Quân Nước Trịnh. Ngươi hiểu rằng
thuật cai trị rất khó, ngươi chớ xem thường và khinh
lờn. Ngươi biết chỉ người có đức cao mới có thể lấy
cái « Đạo Khoan » mà cảm phục lòng dân. Còn người
thường, thì ta nghĩ nên lấy cái sách « Nghiêm » mà
trị dân mới an được. Sách Nghiêm ví như lửa nóng,
dân sợ mà ít chết bởi lửa. Còn Đạo Khoan, ví như
nước mát, dân thấy nước mát cùng thích nước e không
sợ, tất sẽ chết vì nước nhiều. Do đó, biết dùng cái
Đạo Khoan thì thật khó, chỉ người hiền đức mới trị
được cái Đạo này ».
Lúc Tử San
qua đời, Tử Thái Thúc lên thay Tư Sản làm Tể Tướng
Nước Trịnh. Ông chẳng chịu nghe theo lời Tư Sản giáo
huấn. Ông vẫn trị Nước bằng cái đạo Khoan, vì ông
ngại dùng sách Nghiêm cho là hung bạo với dân. Qủa
chẳng bao lâu thì dân chúng khinh lờn, nạn trộm cắp
hoành hành khắp xứ, chúng ngang nhiên cướp phá giữa
ban ngày ban mặt làm khổ người dân. Lúc ấy, Tử Thái
Thức mới hối hận! Ông nghĩ rằng chớ gì ta nghe theo
lới Tư Sản Tướng Quân chỉ bảo mà dùng sách Nghiêm
thì đâu có đền nỗi như thế này.
Sau đó,
Thái Thúc bắt đầu dùng biện pháp Nghiêm lệnh mà trị
dân. Ông sai quân lính đi bắt hết bọn đầu trộm đuôi
cướp đem chúng ra giết hết. Từ lúc đó Nước Trịnh mới
bớt nạn trộm cắp. Chuyện trị Nước của ngưòi xưa cũng
thực nghiệm cho chúng ta thời nay vậy, nhất là hiện
trạng của Đất Nước Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa. Chúng tôi nghĩ chớ gì ông Nguyễn Tấn Dũng,
ông Nông Đức Mạnh nên bắt chước hành động của Từ
Thái Thúc vì dân lành đây, dám dùng cách Nghiêm lệnh
bằng biện pháp mạnh cho ba quân bắt hết phường đạo
tặc tham nhũng, hối lộ, tống tiền, buôn lậu, làm ăn
phi pháp, trộm cướp của dân, từ các ông lớn ở Bộ
Chính Trị, trong Trung Ương Đảng, trong các Bộ, Cục,
các ông Bí Thư Tỉnh Ùy, các ông Tướng đến các anh
cán bộ công an trong huyện lỵ, trong khu xóm mà đem
ra pháp trường xử bắn sạch, thì các ông thấy Nước sẽ
an, sẽ định lại ngay. Vì người « quân tử ngôn cố
hành, hành cố ngôn, quân tử nói sao thì làm vậy ».
Hơn nữa, mình là người lãnh đạo Quốc Gia thì càng
triệt để cố giữ lời mình phát ngôn. Nếu chính sách
diệt trừ tham nhũng của các ông, chỉ « đao to búa
lớn » trên báo chí hay nói để nói trên truyền hình,
truyền thanh, chớ các ông không dám đụng đến một sợi
lông nào của các ông lớn tham nhũng, hối lộ, làm ăn
phi pháp, ỷ quyền, ỷ thế ăn cướp tài sản của dân
chúng và ăn chận. ăn bớt tiền viện trợ của các Nước
Bạn ở trong Bộ Chính Trị, ở trong Trung Ương Đảng,
thà đừng có chính sách diệt trừ tham nhũng thì hơn.
Vì bao nhiêu năm qua các ông nói, các ông hô hào
nhiều về sự diệt trừ này, song chẳng có một ai trong
các ông lớn tội phạm, chẳng có một ông Tướng, một
ông Bộ Trưởng hay Bí Thư tội phạm này bị đem ra pháp
trường hành quyết công khai trước bàng dân thiên hạ
cả. Lý tầt nhiên, những tên tham nhũng, hối lộ, làm
ăn phi pháp khác vv., sẽ khinh lờn cái chính sách
của các ông. Bởi họ thấy các ông không dám đụng đến
họ, nên họ càng ngang nhiên tham nhũng, hối lộ, tống
tiền, trộm cướp, làm ăn phi pháp hơn, để thách thức
các ông rằng : « ông làm gì được tôi ? ». Đại nguy
cho Đất Nước, cho Dân Tộc! Tham nhũng, hối lộ, trộm
cướp thành Quốc nạn cho Đất Nước! Chìa khóa diệt trừ
tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, trộm cướp, làm ăn phi
pháp ở trong sự can đảm, trong việc triệt để dám
dùng biện pháp Nghiêm Lệnh, dùng sách Diệt Thượng,
Trị Hạ, dùng sách Sát Bách Nhân, Vạn Nhân Cụ vv., để
cứu lấy Đất Nước và cho dân lành bớt thống khổ với
phường sâu dân mọt nước này.
Khi Khổng
Phu Tử nghe qua các đệ tử mình trình cho sự việc này
của Thái Thúc, thì ngài liền phẩm bình hay lắm, hay
lắm! Dùng cái đạo Khoan thì dân khinh thường luật
Nước, thì ta lại dùng cái sách Nghiêm, Nghiêm tức là
Mãnh. Nhưng Mãnh thì dân tàn, lúc tàn lại dùng cái
sách Khoan mà giúp cho Mãnh. Khoan giúp cho Mãnh,
Mãnh lại giúp cho Khoan thì mới an, mới hòa được
lòng dân. Đây là chính sách « Khoan Mãnh Tương Tế »
mà chúng tôi muốn bàn luận với qúy vị cho vấn đề
thuật trị Nước.
Thế đó,
chúng tôi cảm nghĩ khi dùng cái đạo Khoan để trị
Nước, thì như qúy vị thấy phải là người có Đức cao,
Trí rộng mới cảm phục được lòng dân nghe mình. Còn
người trí kém, thiếu đức, thì qủa khó mà trị dân như
cái gương của Tử Thái Thúc, và nhất là như Đất Nước
Việt ta hiện tại. Vi thế, Tư Sản trước khi chết ông
đã có cái nhìn xa tương lai cho Thái Thức, mà khuyên
Tử Thái Thức nên dùng cái sách Nghiêm mà trị dân.
Nhưng Thái Thức không nghe lời khuyên Tư Sản, nên đã
thất bại khi ông dùng cái đạo Khoan mà trị dân buổi
đầu.
Chúng tôi
nhận thấy Tư Sản Tướng Quân đã đưa ra những lời ví
dụ xác đáng và cụ thể về sách Khoan cùng Nghiêm. Ông
nói lữa thì nóng ai cũng e sợ lửa nóng đốt cháy
mình, cho nên họ sợ lửa mà tránh xa, cố gắng không
lại gần với lửa, cho khỏi lửa đốt cháy mình. Lửa ví
như phép Nghiêm, tất dân chúng sợ mà e dè không dám
làm bậy, sợ bị phạm tội, nhờ đó xã hội sẽ được yên
bình. Hơn nữa, dân ít phạm tội vì sợ lửa, lại không
dám lại gần lửa, nhờ vậy dân ít chết bởi lửa. Còn
nước thì mát, tất dân thích tắm cho mát, nên không
đề phòng việc chết đuối, họ mới bị chết nhiều, do
đó, dân chết vì nạn nước hơn là nạn lửa. Nước ví như
đạo Khoan, nên lúc ta dùng sách Khoan mà cai trị,
thế nhưng ta lại không có đức cao, trí rộng, thì dân
sẽ khinh thường phép Nước, họ không sợ nên phạm tội
càng nhiều, và người bị phạm lỗi lại càng đông.
Chúng tôi xét thấy thực nghiệm thay cho hiện tình
của Đất Nước Việt chúng ta hiện nay dưới sự cai trị
u tối của phỉ quyền Hà Nội.
Qúy vị
thấy khi áp dụng sách Nghiêm tất làm cho dân sợ,
song dùng sách Khoan cũng làm cho dân sợ, lại thấy
khó hơn. Cả hai kiểu sợ đều như nhau. Tuy nhiên theo
chúng tôi thiển nghĩ, khi dân sợ bởi Nghiêm lệnh,
thì cái sợ này không có giá trị. Chỉ là cái sợ bên
ngoài, bất đắc dĩ mà dân sợ, chớ dân không thật tâm
tín phục chính thề. Điển hình như tháng giêng vừa
qua phỉ quyền Hà Nội, chịu nghe lệnh của các quan
Thái Thú Bắc Kinh, dùng Nghiêm lệnh loại rùng rú xử
án một loạt những anh chị em trí thức và yêu Nước
Việt Nam : như quý Anh Trần Kim Anh, Trần Huỳnh Hữu
Thức, Lê Thăng Long, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung
vá qúy chị Phạm Thanh Nghiên và Trần Khải Thanh
Thủy. Hà Nôi xử dụng Nghiêm Lệnh này chỉ là phường
vô đạo, bán Nước và tay sai, nô bộc cho Rợ Hán Bắc
Kinh mà thôi. Thế nhưng, cái sợ của đạo Khoan, qủa
khó thực hành, tuy thế cái sợ sách Khoan này mới là
cái sợ đáng qúy. Dân sợ vì tín phục Chánh Phủ, và
vui lòng mà sợ Luật Pháp Nhà Nước. Do vậy, chúng tôi
nghĩ muốn người dân tín phục điều sợ này, thì người
lãnh đạo phải có đức cao, trí rộng, mới mong cảm hoá
hóa được nhân dân vui lòng sống theo phép Nước, tôn
trọng Pháp Luật. Chúng ta nhận định qủa là khó đó!
Mặc dầu hai chính sách này tuy trị dân có hiệu qủa,
nhưng lại khác nhau về đường lối cùng hành động cai
trị Nước. Thực chúng tôi nghĩ rằng đây cũng giống
như hai sách thuật « Nhân Trị và Pháp Trị » vậy.
Qua như lời
phẩm bình của Đức Khổng Phu Tử thật là minh xác :
« dùng Khoan thì dân xem thường, nên phải lại dùng
sách Nghiêm ». Chúng tôi nhận thấy dùng sách Nghiêm
qúa thì dân tàn. Nghiêm qúa lâu thì dân mất hết hồn
nhiên và các căn bản tự do vui sống, họ không còn
thấy sinh thú là gì. Do đó, ta lại trở về dùng
Khoan, để dân cảm thấy cuộc đời đáng sống, an vui,
phong túc vui vẻ làm ăn. Qua lời phẩm nghị này, qủa
là người lãnh đạo giỏi, tài đức, trí rộng, phải hiểu
sách Khoan giúp cho Mãnh (Nghiêm), Mãnh lại giúp cho
Khoan. Hai sách có sự hổ trợ, tương tế với nhau, thì
giúp cho Đất Nước hòa, được thịnh, dân an bình vui
sống. Vì vậy phép trị Nước hay thuật lãnh đạo, nên
xem rõ vào tình thế Nước Nhà, để tùy thời, tùy cơ,
tùy lúc mà an, mà định, chớ không thể khăng khăng
giữ mãi một chính sách trị dân được. Như lời ông bà
ta dạy « tùy cơ mà ứng biến ». Đây cũng là sách
thuật từng giai đoạn, có nghĩa tùy thời, tùy cơ mà
áp dụng cho hữu hiệu, hầu mong đem lại cho Đất Nước
cảnh thanh bình, cho dân tộc được an thái thịnh
vượng vậy.
Kính thưa
qúy vị,
Mỗi một
chính sách đều có cái hay của nó. Tuy nhiên, khi nhà
lãnh đạo Quốc Gia nhu mì, thiếu trí rộng, cứ dùng
một chính sách Khoan mãi, thì chúng tôi nghĩ phép
Nước không được trọng, dân chúng xem thường, chẳng
sợ mà tuân theo pháp lệnh, lúc đó xã hội sẽ loạn.
Điển hình như các nước Tây Phưong, nhất là ở Mỹ,
Pháp, Đức, Ý vv.. Vì Chánh Phủ các Nước này đã dùng
chính sách Khoan qúa, nên một số dân lờn mặt không
còn sợ phép Nước là gì, nạn trộm cắp giết người xảy
ra thường xuyên như ngày và đêm. Loạn đến độ con nít
hỉ mũi chưa sạch, đã dùng súng liên thanh bắn xối xả
và bừa bãi vào bạn học hay thầy cô của mình, gây ra
không biết bao nhiêu là án mạng như ở Mỹ. Loạn đến
độ lũ con nít, thiếu niên phá làng phá xóm, đi đập
phá đốt không biết bao nhiêu chiếc xe hơi của người
dân Pháp, thậm chí xô xát giết chết luôn cả nhân
viên công lực. Loạn đến độ khinh thường Luật Pháp
đến thế là cùng ! Chúng tôi nhận thấy cái thảm trạng
xảy ra này, là do Chánh Phủ Mỹ hay Pháp dùng sách
Khoan qúa, như qúa cho tự do, tự do mua súng một
cách dễ dàng, ai cũng có thể giữ súng trong nhà.
Khi tù tội thì nhà tù cho hưởng nhiều điều kiện tiện
nghi thỏai mái. Chánh phủ không dám dùng nghiêm lệnh
bằng các biện pháp mạnh, triệt để, là gia hình như
Tử Thái Thúc hoặc Thương Uởng. Do đó, các băng đảng
trộm cướp xem thường Luật Nước, mới xảy ra các nạn
trộm cướp, giết người dân lành như thường luôn tại
Mỹ.
Chúng tôi
còn nhớ một câu chuyện dùng sách Nghiêm trị dân,
duới thời cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu. Luật Pháp
Nước Tân Gia Ba phạt rất nặng những ngưòi dân nào ăn
kẹo cao su (Cheiwing Gum ) hay hút thuốc lá mà vất
bừa bãi xuống đuờng phố, sẽ bi đòn tùy theo hành
động vi phạm. Có một anh thanh niên Mỹ khinh thường
Luật, đã vất kẹo cao su xuống mặt đường phố, cảnh
sát bắt được, bắt phạt và chiêu theo Luật Pháp do
hành vi phạm pháp của anh Mỹ này. Chiếu theo Luật
Pháp Tân Gia Ba, thi anh Mỹ phải tội đánh đòn 30
hèo. Anh nhờ đến toà Đại Sứ Mỹ can thiệp, nhưng cũng
không xong, sau phải cậy đến Tổng Thống Bill Clinton
can thiệp. Nhưng vi phép Nước là tối thượng không ai
có quyền khinh lờn, dù anh là người ngoại quốc đến
xứ tôi. Song nể tình Tổng Thống Mỹ, ông Chánh Án,
bớt cho anh 10 hèo, anh phải chịu đòn phạt 20 chục
hèo. Nhờ vậy mà Nưóc Tân Gia Ba - Singapor rất an
bình, và đường phố rất sạch. Hay như các Nước Hồi
Giáo, Luật Đời cũng như Luật Đạo, họ dùng Nghiêm
lệnh phạt những tội trộm cắp, phá thai rất nặng.
Nhất là tội nói lộng ngôn phạm thánh đến Thượng Đế -
Allah hay Tiên Tri Mohammed, sẽ có thể bị án tử
hình. Xúc phạm đến sự Thánh Thiêng mà Đấng họ kính
thờ thì đối với người Hồi Giáo không thể nào chấp
nhận và tha thứ đuợc. Không như một lũ moi rợ của
phỉ quyền Hà Nội và bọn du côn công an của chúng đem
chất nổ để phá Thánh Giá ở giáo xứ Đồng Chiêm, là
biểu tưọng Thánh Thiêng Tôn Giáo của người Kitô hũu
kính thờ. Thế mà không có một đấng Mục Tử cấp lớn
nào dám có hành động phản kháng mãnh liệt. Có nghĩa
lên án, hay nữa dám một sống một chết để bảo vệ sự
Thánh Thiêng với Đấng mình tôn thờ, can đảm thay chỉ
có mây linh mục và người giáo hữu nhỏ bé dám xã thân
bảo vệ Thánh Giá là biểu tượng hữu hình của Chúa
Kitô hiện diện với họ.Nhất là Đấng Cứu Thế mà họ
kính yêu cùng tôn thờ và tri ân . Xin qúy Linh Mục,
Cô Bác, Anh Chị, các Cháu nhận nơi đây lòng kính
phục sự can đảm và niềm tin mạnh mẽ của quy vị, cùng
xin nhận nơi chúng tôi sự liên đới và lòng hiệp
thông với qúy vị.
Như chúng
ta cảm nghiệm dùng chính sách Khoan mãi như một số
Nước Tây Phương, họ thả nỗi tự do quá đáng, bởi đó
bọn tội phạm giết người, cướp của, hiếp dâm một cách
dã man, lắm lúc thấy mà rùng rợn kinh khiếp. Thế mà
họ cho là loạn tâm thần, bệnh tâm lý này nọ, hinh
phạt cho các tên giết người và hiêp dâm này một bản
án qúa nhẹ. Vì các hình phạt khoan nhượng này, nên
bọn cường hào, ác bá, các băng đảng mafia ngang dọc
hoành hành : trộm cướp, giết người mọc lên như nấm.
Kẻ mạnh có súng hiếp đáp người yếu, làm những điều
càn dỡ, tạo nên một xã hội bất an loan lạc…như chúng
ta thấy nhiều khu phố ở Mỹ, Pháp, Anh, Ý vv.. không
có an ninh, người dân lành không dám lai vãng đến ,
nhất là về đêm, ngay cả cảnh sát công lực nhiều lúc
không dám lẻ loi một mình lai vãng đến. Vì họ ngại
bị cướp giựt và mất mạng như chơi. Bởi thế, dân gian
giao động và khinh thường Chánh Quyền bất lực trước
các tệ nạn trộm cướp ngang nhiên, trước cảnh các
băng đảng mafia thao túng tự do, muốn giết ai thì
giết, muốn bắn ai thì bắn, như các băng đảng mafia Ý
và Mỹ vv. Tội nghiệp dân chúng mỗi lần ra đường đều
nơm nớp lo sợ trộm cướp cùng mạng sống của mình.
Trái lại,
nếu Chánh Quyền cứ dùng chính sách Nghiêm trị mãi,
thì dân óan hận, lo âu, sợ sệt, chỉ ngại khi phạm
tội sẽ bị khổ hình, tù đày, chết chóc. Người dân cảm
nhận cuộc đời như ngục tối, không được tự do thư
thái vui sống, như thế mất đi phần góp tay sáng tạo,
xây dựng cho Quốc Gia giàu mạnh. Nếu Chánh Quyền
không sớm sữa đổi đường lối hay chính thể, mà cứ
khăng khăng vẫn duy trì mãi phép Nghiêm như chính
sách độc tài của phỉ quyền Hà Nội, Bắc Kinh, tất sự
oán hờn và thù hận ngày ngày chất cao, sẽ có lúc
bùng nổ, sẽ có cuộc nỗi dậy để lật đổ cái phép
Nghiêm đó, như một chính sách độc tài, đàn áp của
phỉ quyền Hà Nội và Bắc Kinh, hầu người dân có được
một cuộc sống thanh bình, an lạc, hạnh phúc hơn.
Như chúng
tôi đã nói ở phần trên, chính sách nào cũng có cái
hay, cái lợi của nó. Nếu người lãnh đạo không biết
thức thời để cai trị, thì thay là cái hay lại hóa ra
cái dở. Song nếu họ biết cai trị, biết dung hòa, thì
hóa ra lại hữu ích cho Nước, cho Dân. Chính sách
Khoan tuy khó mà dễ, đòi hỏi người cầm quyền lãnh
đạo phải có đức cao, trí rộng, lòng chân thành mới
mong trị được. Chính sách Mãnh cũng thế, tuy thấy dễ
nhưng lại khó, người lãnh đạo phải có tầm hiểu rộng,
nhìn xa, phải biết áp dụng, đúng thời. đúng lúc mới
mong thành công. Nhất là dùng chính sách Mãnh này
người lãnh đạo phải là người có lòng vì Dân Vì Nước.
Dùng chính sách này để cho Nuớc Nhà được an định,
được thăng tiến. Theo chúng tôi thì hay hơn cả,
người lãnh đạo Quốc Gia phải biết dùng đường lối hổ
trợ, tương tế giữa hai chính sách « Khoan Mãnh Tương
Tế » trong công cuộc trị Quốc, an Dân, thì mới mong
đưa Đất Nước đến được cảnh thái bình, thịnh vượng.
V.
CHÍNH
SÁCH TRỌNG DÂN
Qúy
vị hay, không phải thời đại chúng ta ngày nay người
ta mới nghĩ đến chính sách Trọng Dân, gọi là « Dân
Chủ ». Nhưng từ ngàn xưa, hai ngàn năm trước đây,
Thấy Mạnh Tử sống vào thời Đông Châu đã chủ trương :«Dân
vi qúy, Xã tắc thứ chi, Quân vi khinh ». Dân mới là
trọng, là qúy, trước cả Quốc Gia, trước cả Vua Chúa.
Vì có Dân mới có Quốc Gia, có Vua Chúa, không có Dân
làm sao có Vua Chúa được. Qủa là tuyệt và chí lý
thay! Hai ngàn năm xưa, người thời ấy đã biết trọng
dân, qúy dân như thế để áp dụng chính sách này trị
dân. Ôi mãi cho đến hai ngàn năm sau, thời đại chúng
ta mới đưa ra thực hành cái thuyết Dân Chủ này.
Chúng tôi
tiếc một điều là lý thuyết Dân Chủ của Thầy Mạnh Tử
không được áp dụng trong thời đại phong kiến. Bởi lẽ
các giai cấp qúy tộc, vua chúa, quan quyền ăn trên,
ngồi trước không thích đi nghịch lại cái lề lối đã
ăn sâu cổ hũ, thâm căn cố đế hằng ngàn năm rồi trong
các Nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn vv..
Vả nữa, họ sợ mất quyền lợi, mất đi địa vị độc tôn,
mất bổng lộc (không khác gì bọn cộng sãn Trung cộng,
Việt cộng, Bắc Hàn cộng, Cu Ba cộng không chịu thay
đổi thế chế, chấp nhận Dân Chủ là vậy). Do đó mà chế
độ quân chủ cha truyền con nối vẫn trường tồn cả mấy
ngàn năm dài, cho đến mãi thế kỷ chúng ta mới dứt
được. Chúng ta biết các vua chúa, giai cấp qúy tộc,
quan quyền không bao giờ muốn mất địa vị độc tôn cả,
cho nên họ quyết định tranh đấu, bảo vệ tối đa bằng
bất cứ giá nào, để bảo giữ cho bằng được ngôi vị « ông
trời con », ngỏ hầu làm cha, ngồi trên đầu, trên cổ
thiên hạ, dù họ dốt nát bất tài và vô đức. Vì thế,
lý thuyết Dân Chủ của Thầy Mạnh Tử và học thuyết
Trọng Dân, qúy Dân làm gốc cho việc trị Quốc bị mai
một cùng chôn vùi theo giòng thời gian quên lãng.
Vì sự mai
một và quên lãng lý thuyết này, Qúy Vị thấy các Quốc
Gia cứ loạn lạc, nhiễu nhương qua mọi thời, và các
cuộc chiến tranh ngôi, tranh bá vẫn thường xảy ra :
thịt nát, xương tan chất thành núi, máu đổ triền
miên ngập giòng sông! Biết bao nhiêu cuộc chiến
tranh chấp quyền lợi, địa vị, giai cấp trong xã hội
cứ diễn biến không ngừng : giai cấp này hô hào tranh
đấu với giai cấp kia càng lan tràn khắp thế giới hầu
như kéo dài bất tận. Tội nghiệp cho khối « dân đen »
thành một thứ « bung xung » chịu nhiều thiệt thòi
cùng đau khổ nhất. Rồi đến những cuộc cách mạng long
trời lở đất của người cộng sãn hô hào đấu tranh cho
nhân dân, cho thợ thuyền, nông dân : lại máu đổ,
xương tan, nhà tù mọc lên như nấm để nhốt người.
Cuối cùng, người dân qua mọi thời đại vẫn là kẻ bị
chịu nhiều đau khổ và mất mát lớn lao nhất.
Chúng tôi
nghĩ rằng chớ gì người xưa biết áp dụng chế độ Dân
Chủ đứng đắn theo thuyết Thấy Mạnh Tử, thì ngày nay
thế giới chắc chắn đã có bộ mặt khác rồi. Tiếc thay
và thật tiếc thay !
1. Tại Sao
Phải Qúy Dân ?
Chúng tôi
nghĩ như Thầy Mạnh Tử đã luận rằng :« tuy dân không
có thể đáng tôn, nhưng lại có hình đáng sợ, đáng
trọng, do thế dân là qúy nhất. Xã tắc là thể thần và
cốc thần trợ hộ cho dân được yên, được sống, song nó
cũng do dân mà được đặt ra, nên không thể so sánh
với dân được. Còn vua tuy là chúa tể cả thần, cả dân,
song thật ra phải nhờ lòng dân có yêu mến, xã tắc có
yên ổn, thì vua mới được lâu dài. Do vậy, vua ví với
dân, với xã tắc, tất vua không đáng trọng lắm. Vua
là cái qúy thứ ba sau cái qúy trọng dân và xã tắc ».
Hơn nữa,
không có dân thì làm gì có vua phải chăng qúy vị ?
Vua sẽ trị ai ? Dân chúng như Thầy Mạnh Tử nói là
cái hình đáng sợ, qủa nghiệm thay! Vì thế vua hoặc
các nhà lãnh đạo Thủ Tướng hay Tổng Thống mà trị dân
chẳng xong, làm cho lòng dân bất định, căm thù, xao
động, tất dân sẽ vùng dậy để lật đổ ngai vàng, lật
đổ chế độ, đó là việc dĩ nhiên! Bởi tư ngàn xưa cho
đến thời đại chúng ta, các nhà lãnh đạo Quốc Gia đều
lo ngại, và e sợ cái sức mạnh cùng lực lượng vĩ đại
đó. Do thế, chúng ta thấy mới có chính sách thân dân,
do dân mà có, hầu làm nồng cốt cho việc trị Quốc, an
bang cái thế…
Chúng tôi
nghĩ một nhà lãnh đạo giỏi thì phải có một chính
sách An Dân, làm cho dân được cơm no, áo ấm. Bởi dân
có no ấm, thì Đất Nước mới giàu mạnh, thiên hạ mới
bình trị được Trái lại các nhà lãnh đạo mà làm cho
dân đói khổ, lại còn cướp tài sản ruộng vườn của dân
như phỉ quyền Hà Nội, tất dân tàn, dân bất mãn và
căm thù oán hận, Nước có lắm tệ đoan : trộm cướp,
tham nhũng, hối lộ, gian dối, lừa đảo, trăm thứ tệ
đoan gây ra cho xã hội, lúc đó ắt dân sẽ loạn. Thử
hỏi đâu còn dân để họ cai trị? Các nhà lãnh đạo làm
mất dân tâm, thì mối nguy cho xã hội, vì chẳng mấy
chốc sẽ đi đến sự loạn lạc, trăm thứ đồi bại và tệ
đoan xấu như chúng tôi đã nói trên. Buốn thay và
nhục thay xã hội Việt Nam duới sự cai trị u tối của
Đảng cướp sản Việt Nam, và phỉ quyền Hà Nội hơn mấy
chục năm này là như chúng tôi nói đó.
2. Một Chính Sách An Dân
Qúy vị
thấy thông thường thì nhiều Quốc Gia trên thế giới
đã khôn ngoan áp dụng chính sách An Dân làm trọng
tâm, cùng hệ trọng cho việc trị Quốc, an Dân. Vì một
Nhà Nước đúng nghĩa của nó, thì hằng luôn quan tâm
vì dân, lo toan cho dân tất cả. Xem dân như là gia
đình của mình, như chính là da thịt và máu xương của
minh phải nuôi sống vậy. Bởi dân có no ấm, hạnh phúc,
sống vui tươi, tất họ mới tín nhiệm vào chính thể,
vào chế độ. Họ nghĩ vì họ mà Chánh Quyền đã lo cho
họ có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, ruộng vườn, có đủ
các quyền tự do căn bản, có cuộc sống sung túc thoải
mái. Thử hỏi có người dân nào mà oán hận chế độ và
Chánh Phủ hỉ ? Trái lại, khi Chánh Phủ không lo cho
dân được cơm no, áo ấm thiếu thốn đủ mọi thứ vật
chất, lại trước đoạt tài sản và các thứ quyền căn
bản của dân, thì Nhà Nước nói mà ai tin và nghe,
như Hà Nội, nói một đàng làm một nẻo.
Như qúy vị
rõ vào thời Đông Châu sở dĩ có loạn, vì thiếu chính
sách An Dân, cũng như Trung Hoa dưới thời tổng thống
Trưởng Giới Thạch vào thập niên 30 và 40. Hay nữa,
Việt Nam ta vào những năm 1946-1954 cũng loạn lạc
như thế, nào cảnh xưng hùng, xưng bá : Lê Văn Viễn,
Ba Cụt Lê Quang Vinh, và Nguyễn Văn Hinh vv. Nay thì
với phỉ quyền Hà Nội, muốn cướp ruộng vườn, nhà cửa,
nhà thờ, tu viện, giáo xứ của dân, ngang nhiên cướp
giữa ban ngày ban mặt, dưới cái nhìn của muôn con
mắt thiên hạ nhìn vào. Thế đó, Hà Nội không khác gì
là một thứ thảo khấu, một băng đảng cướp hiện đại,
mang cái nhãn hiệu là « Xã Hội Chủ Nghĩa và Đảng
Cộng Sãn Việt Nam » đã tạo nên sự loạn lạc trong Đất
Nước Việt Nam mấy chục năm qua và hiện nay.
Lại nữa,
thời nay ở các Quốc Gia Á Châu, Phi Châu, Nam Mỹ,
thường có loạn lạc chiến tranh, vì người dân qúa đói
khổ, lại bị hà hiếp bởi cường hào, ác bá như ở Ba
Tây (Brasil), Colombie, một nơi do Chánh Quyền gây
nên.. Do đó mới có các phong trào chống đối, quân
kháng chiến hoặc du kích, mặt trận giải phóng nỗi
dậy vv.. Như ông bà ta nói : « phú qúy sinh lễ
nghĩa, bần cùng khởi đạo tặc » là thế.
Thế đó,
chúng ta muốn An Dân cho có hiệu qủa, lý đương nhiên
chúng ta phải làm cho người dân yêu qúy chế độ, làm
cho lòng dân quy tụ về một mối! Chúng tôi nghĩ lúc
đó, tất người dân sẽ sống chết vì Quốc Gia, vì Dân
Tộc mà không bỏ Nước ra đi, không bỏ chính thể lúc
Nhà Nước bị nguy biến hay gặp giặc ngoại xâm. Đây là
cái chính sách « Thứ Chi », để tạo cho toàn dân quy
hướng về chính thể, về chế độ mà ủng hộ chế độ, ủng
hộ cho Nhà Nước. Chúng ta phải biết làm cho dân
giàu, dân mạnh, dân sống vui tươi qua các công cuộc
khuyếch truơng kinh tế, thương mại, nông nghiệp, văn
hóa và giáo dục vv., bằng các chính sách hợp thời,
hợp thế và phù hợp với mong muốn của lòng dân cùng
đà tiến của nhân loại. Có nghĩa là cơ khí hóa, kỹ
nghệ và kỷ thuật hóa, tự do hóa làm ăn, tôn trọng
các tư tưởng sáng tạo và sáng tạo hóa ý kiến xây
dựng cùng phục vụ Nước Nhà hưng thịnh hoặc dân chủ
hóa toàn bộ các cơ cấu guồng máy của Đất Nuớc. Bởi
một khi dân giàu có, hạnh phúc, đời sống thoải mái
vui tươi, bình an, thì lý tự nhiên người dân tín
nhiệm vào chế độ, vào chính thể của chúng ta, đã lo
nghĩ đến họ và làm cho họ trở nên giàu có cùng hạnh
phúc an bình vui sống : đây là sách « Phú Chi ».
Sách Phú Chi có nghĩa làm cho dân giàu, tất Đất Nước
nên hùng mạnh.
Khi nói đến
các chính Sách này, như là chính sách Trọng Dân, An
Dân, Thứ Chi và Phú Chi hoặc Cầu Hiền Tài hay
«Khoan Mãnh Tương Tế » vv., thì chúng tôi nhớ đến
một người tuyệt tài và kỳ diệu là Tổng Thống Park
Chung Hee (Phát Chính Hy) Nam Hàn. Ông đã đưa Đất
Nước Nam Hàn từ nghèo đói, lạc hậu, nạn hối lộ, tham
nhũng ăn cướp của công dưới triều tổng thống Lý Thừa
Vãn vào thập niên 60, trở thành một cường quốc vế
mọi mặt chính trị, kinh tế, khoa học kỷ thuật và
thương mại, giáo dục vv.. Làm cho dân Nam Hàn ngẩng
đầu lên cao và tự hào với thế giới.
Chúng tôi
xin phép thưa chuyện cùng qúy vị : Park Chung Hee là
người như thế nào mà đã làm được một « kỳ công » như
thế cho Đất Nước và Dân Tộc Nam Hàn ? Tổng Thống
Phát Chính Hee, là mẫu người linh động, hoạt bác,
sống động, cương quyết, giàu nghị lực và quyết tâm,
dám nói và dám làm luôn đi đôi với nhau, cùng mang
một tâm hồn yêu Nước nồng nàn cháy đỏ con tim của
mình. Không những ông chỉ áp dụng triệt để cho ly
tưởng ông đưa ra với bản thân mình, nhưng ngay với
gia đình mình và con cái cũng thế. Ông không gửi con
cái mình đi du học Nước ngoài, đồ dùng trong nhà hay
xe cộ, máy móc, áo quần ông đều dùng đồ của người
dân Nam Hàn sản xuất. Hai chục năm làm Tổng Thống
làm cho Dân Nam Hàn trở nên giàu có và Đất Nước
thành Cường Quốc kỷ nghệ, thế mà khi ông nằm xuống,
ngưòi ta khám phá trong tài khoản đẻ ở ngân hàng chỉ
có khỏang mười ngàn Mỹ Kim.
Trước hết
để làm gương, sau là khuyền khích nên kinh tế và
thương mại của Đất Nước. Ông rất trọng nhân tài và
luôn cầu hiền tài giúp Nước Nhà. Các sinh viên gủi
đi học ở Mỹ, Pháp, Anh vv. Ông đều nhắn nhủ họ hãy
lo học và trở về phục vụ Đất Nước, hãy làm cho Nam
Hàn và dân chúng ta thoát được cảnh nghèo khổ triền
miên và lạc hậu so với các Nước bạn.
Thưa qúy
vị, những gì ông nói hằng đi đôi với hành động, lòng
cương quyết và lòng yêu Nước Nam Hàn. Chúng tôi còn
nhớ sau khi đắc cử tổng thống, ông đã đọc một bài
diễn văn nảy lửa trước một rừng người Nam Han và
sinh viên tại đại học Seoul (Hán Thành) vào năm
1961 rằng « Tôi xin dân Nam Hàn và anh chị em sinh
viên, phải thắt lưng buôc bụng, phải nỗ lực hy sinh,
chịu khó mà làm việc nếu muốn được tồn tại. Làm cách
nào trong vòng 10 năm chúng ta tạo được một nền kinh
tế đứng đầu vùng Đông Nam Á, và sau 20 năm, thì Nam
Hàn sẽ trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới.
Chúng ta sẽ bắt thế giới phải ngưỡng mộ Nam Hàn. Hôm
nay, có thể một số đồng bào anh chị sinh viên ở đây
bất đồng ý kiến với tôi. Tuy nhiên, xin đồng bào và
các anh chị sinh viên đó hiểu cho rằng Tổ Quốc quan
trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi không muốn mỵ dân.
Tôi Park Chung Hee sẽ cương quyết ban hành một chính
sách khắc khổ. Tôi sẽ đem bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp
của công dù chỉ là một đồng (won). Tôi sẵn sàng chết
cho lý tưởng tôi đưa ra ». Hoặc « Xin Đồng Bào nhớ
cho rằng, Dân Tộc Nam Hàn chúng ta đã mất cả thế kỷ
thua sút người ta. Chúng ta không được phép làm mất
thời gian nữa. Chúng ta phải thực hiện mười việc
trong thời gian này, trong lúc đó các nước khác chỉ
thực hiện có một. Chúng ta cần nổ lực tiếp tục làm
việc, trong khi đó các dân tộc khác nghĩ ngơi. Ngày
nay, bánh xe lịch sử quay một vận tốc rất nhanh. Do
đó, khi chúng ta làm việc lười biếng, thì Đất Nước
chúng ta sẽ tụt hậu đàng sau người ta một năm, nếu
làm lãng phí một năm, tất chúng ta sẽ tụt hậu đến
mười năm, hai chục năm hay hơn nữa… »
Đẹp thay
những lời nói cương quyết, chứa chan lòng yêu Nước
và thể hiện một tâm hôn tràn đầy nghị lực và quyết
tâm ! Tổng Thống Phát Chính Hy đã đưa Nam Hàn từ một
Đất Nước dân chúng hầu như chán nãn sau cuộc chiến
tương tàn, sau thời gian bi chế độ tham nhũng của
Tổng Thống Lý Thừa Vãn soi mòn niềm tin và ý chí
sáng tạo. Thế nhưng, qua chính bản thân, và lấy
chính đời sống và cung cách làm việc hết mình của
mình lam gương, để vực dậy niềm tin cho quần chúng.
Từ đó dân Nam Hàn thấy nơi Tổng Thống Phát Chính Hy
một con người chí tình vì dân tộc và Đất Nước, nên
họ đã ủng hộ hết mình các chính sách của ông đưa
ra : như siêng năng làm việc, tiết kiệm, hy sinh cho
Tổ Quốc vươn lên với Thiên Hạ. Từ chánh quyền đến
dân giả ai ai cũng thắt lưng buộc bụng với tâm
nguyện « tất cả cho Tố Quốc ». Dân Nam Hàn làm việc
nhiều, nhưng sống rất thanh đạm, mỗi tuần, mỗi người
nhịn bữa ăn, không hút thuốc lá ngoại quốc, không
uống café (Nam Hàn không có café) vào thời đó. Sản
xuất ra được cái gì tốt đẹp thì ưu tiên cho việc
xuất cảng kiếm ngoại tệ. Như vào năm 1970, Nam Hàn
đã sản xuất được máy truyền hình màu, nhưng từ tổng
thống đến người dân đều sài tivi trắng đen.
Đây là
những mẫu chuyện chúng tôi nghe được khi học ở Đại
Học, và may mắn quen biết được một số anh chi em
sinh viên Nam Hàn, nhờ qua những câu chuyện trao
đổi : Họ kể cho chúng tôi hay về sự ngưỡng phục và
cảm mến cung cách sống của Tổng Thống Phát Chính Hy
vô cùng. Nhờ đó, chúng tôi ghi nhớ và lấy đó như bài
học cho chính mình, làm sao để cho Đất Nước Việt
chúng ta có được cái tinh thần lãnh đạo như Tổng
Thống Phát Chính Hy và Dân Nam Hàn : là « Tất Cả cho
Tổ Quốc và Phải Giải Phóng Dân Việt Nam ra khỏi
nghèo đói, đưa Đất Nước Việt lên hàng Cường Quốc
Kinh Tế » Như Khối G 8. Chỉ có một con đường là
chúng ta cố gắng tranh đấu giải thế cho được phỉ
quyền Hà Nội hại Dân, Bán Nước này, mới hy vọng thực
hiện được cái lý tưởng mình đề ra để phục vụ Đất
Nước và Dân Tộc.
Thực đáng
khâm phục thay, Tổng Thống Phát Chính Hy và Dân Nam
Hàn đã làm được phép lạ kinh tế, kỹ nghệ và khoa học
kỷ thuật. Bằng chứng hùng hốn nhất cho thế giới nể
mặt và ngưỡng phục, là như họ thấy và chúng ta xem
qua các tổ chức Thế Vận Hội vào năm 1994 và Giải Túc
Cấu Thế Giới vào năm 2002 thì tường tận. Không hẳn
chúng ta nể phục, nhưng cả hằng tỷ con tim trên thế
giới đều khâm phục cho một Nam Hàn hiện đại ngày
nay. Tất cả những đồ dùng do họ sãn xuất đã hiện
diện khắp năm châu bốn bể : nào Tivi và máy Vi Tính,
điện thoại di động Sam Sung, LG vv. Rồi xe hơi
Huyndai, tủ lạnh, bếp điện, đến cả kỷ nghệ đóng tàu
thủy hằng nghìn tấn vv., Nam Hàn không thua kém ai.
Xin được
trở lại về chính sách An Dân, như chúng tôi đã nói
sách Phú Chi để làm cho Đất Nước giàu mạnh, dân an
lạc, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta (Chánh Quyền)
cũng phải có các chương trình giáo dục nguời dân,
hầu họ biết thế nào là bổn phận của người công dân,
bổn phận làm người dân đối với Quốc Gia, Dân Tộc và
xã hội nhà. Chúng tôi nghĩ rằng cần có sự giáo dục
như thế, thì người dân mới hiểu rỏ các đường lối
chính trị của Quốc Gia, mà nhiệt tình ủng hộ và yêu
mến chế độ, yêu mến Chánh Quyền. Lúc ấy người dân sẽ
không bị mê hoặc bởi một thứ chủ nghĩa, học thuyết
ngoại lai nào khác, ngoài lý tưởng Quốc Gia mà chúng
ta đề ra. Chúng tôi thiết nghĩ các Chánh Quyền Quốc
Gia trước đây, đã thiếu xót trong sự giáo dục này
chăng ? Thế nên các tay phù thủy cộng sản mới có cơ
hội lợi dụng, lòn vào xã hội quần chúng, rủ rê, tỉ
tê, nên đã mê hoặc được đông đảo người dân theo chủ
nghĩa xã hội của chúng. Như đã nói đây là cái sách
« Giáo Chi » của Tôn Tử Binh Thư, mà chúng ta có thể
xem ở trong thiên thỉ kế có nói về cái đạo trị Quốc,
mà ngài đề cập đến trong sách này.
Chúng tôi
nhận thấy ngày nay nhiều Nước văn minh tiên tiến và
dân chủ, là nhờ vào các nhà lãnh đạo các Nước ấy
biết áp dụng đứng đắn chính sách An Dân này, hầu tạo
nên phú cường đúng như sách Tôn Tử dạy qua các vấn
đế Thứ Chi, Phú Chi cùng Giáo Chi : Điển hình là
Thụy Sĩ, Đức, Anh, Mỹ, Pháp, Gia Nã Đại, Hòa Lan, Na
Uy, Thụy Điển, Ý, Phần Lan, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan,
Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Tân Gia Ba vv.. Và họ
đã thành công lớn! Hơn nữa, bởi các Quốc gia đó, các
Chánh Quyền cùng các nhà lãnh đạo biết yêu thưong
dân, lo nghĩ cho dân được hạnh phúc, nhất là họ hằng
tôn trọng Luật Pháp và Hiến Pháp Quốc Gia mình. Thêm
nữa, họ đã định được lòng dân, làm dân yêu mền chính
thể qua chế độ Dân Chủ.
Chúng ta
đang sống trên Đất Nước họ, nên thấy rõ các Quốc Gia
này làm cho người dân trở thành giàu có tiện nghi
mọi mặt. Dân họ có một đời sống cao vượt bực hơn
nhiều Quốc Gia khác, lại thêm cảnh sống tự do, an
bình, hạnh phúc, qủa hơn rất xa Nước Việt Nam ta
hiện nay dưới sự cai trị và lãnh đạo u tối của tập
đoàn phỉ quyền Hà Nội. Vả nữa, các Chánh Quyền của
các Nước này họ mở rộng các công cuộc giáo dục khai
phóng trình dộ nhận thức và hiểu biết cho người dân
mình trong các học đường, các đại học, để cho người
dân học tập tri thức cùng hiểu biết, đào tạo mình về
các bộ môn khoa học nhân văn, khoa học kỷ thuật,
khoa học chính trị kinh kinh tế, khoa học tôn giáo,
luật học, xã hội, thần học, triết học, văn chương,
mỹ thuật, toán học, vật lý hoá học, y khoa, thiên
văn vv. Họ cùng nhắm mục đích cho người dân hiểu
biết thêm chính trị, và rèn luyện giai cấp trí thức
mà chúng ta gọi là chất xám cho Đất Nước, hầu phụng
sự xã hội, phục vụ cho Dân Tộc mình.
Qúy vị
thấy rõ ràng các nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội, trong
mấy chục năm qua đã không chủ trương được các chính
sách như chúng tôi nói trên. Có nghĩa đã không định,
không an được dân, không làm cho dân giàu, Nước mạnh.
Trái lại, Hà Nội chỉ tạo thêm hận thù chồng chất và
chia rẻ người dân bằng các chính sách độc ác : cải
cách ruộng đất, đấu tố điạ chủ, cải tạo công thưong
nghiệp, diệt trừ mại bản, đổi tiền nhiều lần, để
cướp máu xương người dân, đày dân Miền Nam đi kinh
tế mới nơi khỉ ho cò gáy toàn là đá sỏi, bỏ tủ cả
triệu quân cán chính Miền Nam trong các trại tù khổ
dịch mà chúng gọi là trại « cải tạo », bắt dân vào
các hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, thương
nghiệp vv.., lại còn đi cướp nhà cửa, đất đai ruộng
vườn và tài sản của dân. Một tội diệt chủng và chống
nhân loại của tập đoàn phỉ quyền Hà Nội : là « Tội
Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165.000 Quân Dân Cán Chính Việt
Nam Cộng Hoà » qua Báo Điện Tử của Người Việt Ly
Hương Úc Châu, có dăng bài viết của Đỗ Ngọc Uyển :
« Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lý Và Mang Công Lý
Tới Nạn Nhân ». Do thế, tủi nhục cho Dân Tộc chúng
ta, Việt Nam vẫn còn là một trong những Nước lạc hậu,
chậm tiến và nghèo đói của thế giới. Bởi người dân
Việt Nam mức bình quân hàng năm chỉ uớc khoảng 600
Mỹ Kim, vẫn nằm trong mức nghèo đói và chậm phát
triển. Theo Liên Hiệp Quốc đinh giá PIB của một
người dân dưới 1000 Mỹ Kim là các Quốc Gia Sous
Développement- Undervelopmen-Chậm Phát Triển. Hà Nội
hô hào đổi mới kinh tế hơn hai thập niên nay rồi, mà
kinh tế ì ạch trì tệ không khác chi chiếc xe bò kéo
lúa trên những con đường ổ gà ổ voi. Đau ôi là đau !
Buồn ơi là buồn, tê tái cả cỏi lòng và tủi nhục với
các Quốc Gia bạn qúa !Việt Nam thua cả Nuớc Cam Bốt,
họ đã bóp còi qua mặt chúng ta. Còn các Nước như
Maroc và Congo mà cha ông chúng ta có câu thành ngữ
khinh khi họ là « Tết Congo, Tết Maroc ». Vì ngày
xưa những người lính Lê Dương (Légionnaire) là những
người lính Phi Châu hay các thuộc địa của Pháp, đầu
quân đi vào các binh đoàn này, như một loại lính
đánh thuê, đánh mướn cho Pháp. Cha ông ta ám chỉ sự
nghèo khổ của họ, thân làm linh đánh thuê, đánh mướn,
tất làm gì có Tết mà ăn với nguời ta. Nay thi khác
hẳn, người dân và người lính các Nước này, vừa lái
xe hơi bóp còi vừa vượt mặt xa xe bò Hà Nội trên
đương phát triển kinh tế.. Hà Nội chỉ có thể hít
khói xe hơi của họ xả ra thôi. Bởi họ là những Quốc
Gia có mức bình quân PIB. đầu người là 2000 đến 3000
Mỹ Kim, mà Liên Hiệp đánh giá theo tiêu chuẩn đó để
gọi họ là những Quốc gia trên đường phát triển Sur
La Route Développement-On The Way Development. Do đó,
dưới sự cai trị hà khắc, độc tài, độc đoán, chuyên
chính kèm với sự lãnh đạo u tối của phỉ quyền Hà Nội,
dân Việt vẫn còn nghèo đói triên miên. Ôi thương
thay cho dân Việt ta vẫn còn hiện hữu của nghèo đói
bám mãi.
Nếu qúy ông
Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng,
và cái Bộ Chính Trị của qúy ông còn một chút tự
trọng và thương dân, thì hãy dẹp bỏ cái Đảng u tối
của mấy ông đi ! Và từ đó các ông hãy đồng loạt từ
chức, rút lui cho dân nhờ, để cho những người tài
đức, thực tâm yêu Nước lên nắm quyền, hầu vực dậy
Đất Nước khốn khổ, tạo lại niềm tin, và giải phóng
kiếp nghèo đói triền miên của ngưòi dân Việt đã bao
thế hệ nay : hết đời ông qua đời cha nay đến đời
cháu mà các ông vẫn mãi làm cho họ nghèo đói.
VI.
CHÍNH
SÁCH DỤNG NHÂN VÀ CẤU HIỀN TÀI
Bất
cứ một Quốc Gia nào trên trái đất này, người lãnh
đạo giỏi, tài đức, là người biết dùng người hiền tài,
diệt kẻ dữ, kẻ tàn bạo và các tay nịnh thần, để có
một sách thuật dụng nhân hiệu qủa. Vì đây là một yếu
quyết trong vấn đề trị Quốc, và làm người lãnh đạo
một Quốc Gia cho nên phải biết cách dụng nhân này.
Nếu chúng
ta biết dùng người hiền, kẻ có đức độ và người tài,
tất Nước Nhà được yên ổn cùng hữu ích cho dân chúng.
Bởi các vị đó sẽ quên mình để phục vụ Quốc Gia, Dân
Tộc. Thật sự những người hiền đức tài nhân, thường
là các kẻ trọn đời mình chỉ biết đặt quyền lợi của
Nước trước cái lợi của mình. Họ là người chỉ biết « tiên
thiên hạ chi ưu, nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc, nhi
lạc ». Có nghĩa là họ lo trước cái lo của thiên hạ,
và vui sau cái vui của người ta. Họ là người chỉ vì
người, vì thiên hạ mà thôi. Thế nhưng Hà Nội không
có chính sách dụng nhân này. Họ toàn dùng người của
gia đình và gia tộc, phe cánh hày đảng viên Việt
cộng cả, nắm giữ các công ty lớn Quốc Doanh hay tư
nhân. Mới đây tớ báo Foreign Policy ra ngày
21.01.2010 có bài viết của Bill Hayton với tựa
« Vietnam’s New Money, Đồng Tiền Mới Việt Nam ». Ông
cho biết con gái Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh
Phượng 27 tuồi, chủ tịch công ty đấu tư Vietcapital
lấy Nguyễn Thanh Hoàng 36 tuổi, là chủ tịch công ty
đầu tư IDG Ventures Vietnam. Vốn đầu tư của hai
người gom lại ước chừng 150 triệu Mỹ Kim. Ngoài ra
thị tộc anh chị em của Nguyền Tấn Dũng là chủ nhân
hơn 10 ngân hàng lớn làm ăn lớn của Việt Nam.
Người thứ hai
là Trương Gia Bình, phò mã tên đại tướng Võ Nguyên
Giáp biệt danh là « cầm quần chị em » (vì sau khi bị
Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đá ra khỏi Bộ Tà Trị, còn một
chút vị tình nên ban cho cái chức danh là Phó Thủ
Tướng Trưởng Ban Kế Hoạch Hóa Sinh Đẻ. Bởi vậy dân
gian có thơ rằng : ngày xưa Đại Tướng cầm quân, ngày
nay Đại Tướng cầm quần chị em ). Tên Bình này hiện
thời là chủ tịch công ty tin học F.P.T lớn nhất Việt
Nam. Và người thứ ba ông Bill Hayton nói đến là
Đinh Thị Hoa, sau khi tốt nghiệp MBA-Cao Học Kinh
Doanh tại đại học Harvard về Việt Nam. Khi Hoa về
Nước thì thiết lập công ty Galaxy, lại sở hữu thêm
hãng PR (tiếp thị quảng cáo), là chủ nhân hầu hết
các hệ thống tiệm ăn theo cách Tây Phương tại Việt
Nam, lại có một rạp hát lớn ở Sài Gòn, và cả một
hãng sản xuất phim ảnh. Hoa là con ông lớn Thứ
Trưởng Ngoại Giao. Galaxy là một trong nhiều công ty
khác là sỡ hữu của các con ông lớn, cán nhớn của
Đảng cộng.
Qủa phỉ
quyền Hà Nội áp dụng một loại chính sách hóa gia
đình trị, đảng trị như chúng tôi đã nói qua trong
bài « Chính Trị Nhân Bản . Chúng hay con cái nắm hết
các công ty lớn, các ngân hàng lớn, các hảng xưởng
lớn của Việt Nam hiện nay. Rồi chia chát nhau quyền
lợi kinh tế, chia chát nhau tiền kiếm được và tẩu
tán tài sản kiếm được một cách bất chánh đó ra nước
ngoài bỏ ở các ngân hàng Thụy Sĩ, Lục Xâm Bảo vv. Đó
là thành qủa « đổi mới kinh tế » của tập đoàn phỉ
quyền Hà Nội và cái Đảng thổ phỉ cướp của dân chúng
Việt Nam hơn hai thập niên qua !
Thế đó,
thưa qúy vị cách dụng nhân là vấn đề tối quan trọng,
một chính sách hay, song không có người hiền đức,
tài ba giúp cho thì chính sách ấy sẽ hư đi, làm cho
lòng dân thêm phân tán và căm thù. Vì chính sách này
rất hệ trọng, nên ngày xưa Tể Tướng Quản Trọng đã
nói với Tề Hoàn Công rắng :« Trong Nước có người
Hiền Đức mà không biết là cái hại. Biết người Hiền
Đức lại không dùng là cái hại thứ hai. Dùng họ mà
không dám giao việc lớn và chuyên nhất là cái hại
thứ ba ». Qủa nghiệm thay câu nói của Quản Trọng
Thừa Tướng đối với Đất Nước chúng ta hiện thực. Với
chính sách « ngu dân hóa », Nhà Nước và Đảng Cộng Hà
Nội đã xem thường tri thức, người hiền tài như Mao
Trạch Đông xem trí thức thua cả cục phân. Họ trù
dập, bắt bớ tri thức và kẻ hiền tài, đức độ qua
chính sách tiêu trừ « tri, phú, địa, hào » đào tận
gốc, trốc tận rễ rập khuôn theo đường lối Trung Cộng
thời Mao Trạch Đông, dã tâm không cho người hiền
đức, trí thức tài ba ra giúp Nước với các chương
trình, đề án xây dựng làm cho dân giàu Nưóc mạnh của
họ. Như vậy, qúy vị thấy cầu hiền tài là một việc
đại trọng biết bao cho Đất Nước. Tuy nhiên, chúng
tôi nghĩ cũng có cái khó khăn là phải biết dùng
người, có nghĩa là chúng ta phải rõ sở trường, sở
đoản, tài năng, kiến thức của họ, thì cái tài và sở
trường ấy có thể phát huy đúng tài năng của họ, hầu
ích Nước lợi Dân. Nếu chúng ta không biết dùng tài
năng của họ đó, tất các tài năng này sẽ bị mai một
với thời gian và tuổi tác.
Quả từ
ngàn xưa cho đến thời nay, Quốc Gia có hưng thịnh là
nhờ các hiền tài giúp Nước. Các người hiền tài góp
phần làm ích Quốc lợi Dân không nhỏ. Các nhà lãnh
đạo dầu họ có giỏi mấy đi nữa, cũng không thể biết
hay làm hay được hết. Do thế, các vị ấy cần phải có
những người hiền tài giúp tay vào guồng máy chính
trị, hầu Quốc Gia mới thăng tiến được. Chúng tôi
nhận thấy phải là bậc Minh Quân, Lương Tướng mới
được người hiền tài giúp Nước. Chúng ta thấy Châu
Văn Vương biết trọng dụng Khương Tử Nha mà làm nên
nghiệp Nhà Châu. Tề Hoàn Công tạo dựng được nghiệp
Bá là nhờ tài điều binh, khiển tướng, an dân, định
quốc của Quản Trọng. Qủan Trọng là bậc Tướng tài mới
có được những hiền tài Thập Bằng, Tân Tô Võ, Nịnh
Thích, Bào Thúc Nha phò giúp cho. Hay như chúng ta
thấy Lưu Bang nếu ông không dụng được hiền tài giúp,
thì làm sao ông lập nên được Nhà Hán lừng danh thiên
hạ. Vì Tào Thám, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín, đều
là các bậc hiền tài hơn người. Qủa như Lưu Hán Bang
không biết trọng dụng các vị này, thì họ Lưu chắc
chắn khó trở nên Nhà Hán, mà suốt đời ông chỉ là anh
Đình Trưởng một làng nhỏ vô danh mà thôi, không ai
biết đến.
Thời thế
nào cũng thế, xưa cũng như nay : chúng ta xem trong
thời đại Quốc Xã, tàn ác như Hitler, ông cùng biết
đến sách dụng nhân, mà đã trọng dụng Rommel,
Ribbentrop, Himler, Goering, để lập nên một Đức Quốc
Xã hùng mạnh làm khuynh đảo cả Âu Châu. Hoặc các cựu
Tổng Thống Mỹ, như J.F.Kenedy có được một ban tham
mưu hùng hậu, gồm các người tài nhân giỏi về quân
sự, an nình, kinh tế, giáo dục, xã hội, luật pháp,
chiến thuật và chiến lược. Còn Tổng Thống Johnson
ông có dến 18 bộ óc nhân tài giúp cho. Rồi đến
Reagan, ông có biết bao nhân tài giúp cho trong
chiến lược « Chiến Tranh Các Vị Sao-Stars War » làm
cho Liên Sô phải sụp đồ tan tành khi theo đuôỉ sự
chay đua vũ khí chiến lược với Mỹ. Trong 8 năm cầm
quyền ông đã đề nghị Quốc Hội Mỹ một ngân sách
khoảng 2000 tỷ Mỹ Kim cho Bộ Quốc Phòng, để chế tạo
các loại vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại hóa
quân lực Mỹ bằng các loại chiến đấu cơ, máy bay bỏ
bom, trực thăng chiến đấu, hàng không mậu hạm,
radar, súng ống, hỏa tiên liên lục địa vv. bằng kỷ
thuật cao, và độ chính xác. Thế đó « bất chiến tự
nhiên thành » là vậy! Rồi đến Tổng Thống Bush Cha
cũng như Bush con cũng vậy, bên cạnh các ông có
nhiều cố vần tài ba trong đường hướng ngoại giao
cũng như quân sự, nên mới thắng hai cuộc chiến tranh
với Taliban và Sadam Hussen. Nay đến thời Tổng Thống
Obama, bên cạnh ông cũng có nhiều người hiền tài
giúp ông. Nói tóm lại, các ông đều có những hiền tài
giúp cho mà thành danh tiếng để đời. Vả nữa, sở dĩ
Nước Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh lạ thường, một
phần lớn là họ biết trọng dụng nhân tài và ưu đãi
người hiền tài , những nhà tri thức và tài nhân, rồi
cho các vị ấy có đất dụng võ. Người Mỹ và Chánh Phủ
Mỹ biết trả lương bội hậu cho các nhân tài một cách
xứng đáng với các tài năng của họ như về các ngành
chính trị, kinh tế, thương mại, khoa học kỷ thuật, y
tế, luật pháp vv..
Vì thế,
người lãnh đạo giỏi là người khôn ngoan biết xử thế,
có con mắt nhận diện con người. Có nghĩa biết trọng
dụng người hiền đức tài ba cùng ngay thẳng, và loại
tức thì kẻ gian tà nịnh hót cùng sám tấu tào lao.
Bởi người hiền đức tài ba và ngay thẳng làm ích rất
nhiều cho Đất Nước cùng Dân Tộc. Trái lại, kẻ gian
tà, phường nịnh hót, sàm tấu và người hài lòng chỉ
làm hại cho Nước, cho Dân thôi. Vậy, muốn cho Đất
Nước bền vững, thì ta phải làm sao cho an dân, và
biết dụng nhân cho đắc nhân tâm, ắt Nước Nhà được
hùng mạnh, dân thái được giàu sang. Nói tóm lại,
những người làm chính trị giỏi, là biết nhìn ra,
trông rộng, hầu tạo nên một thế đứng cho cục diện
tương lai … Theo chúng tôi nghĩ, thì cuộc tranh đấu
chính trị của chúng ta hôm nay cũng như trong tương
lai, có lợi hay không là do vào các đấng làm chính
trị, lãnh đạo các Đảng phái có thực tâm yêu Nước,
yêu Dân chí tính và có một kiến thức uyên bác biết
trông rộng, nhìn xa chăng… ? Nhất là, cần có chính
sách An Dân, Dụng Nhân, Cầu Hiền Tài như chúng tôi
đã nói trên, thì hy vọng mới gặt hái được thành qủa
tốt đẹp cho Nước Nhà.
VII.
CHÍNH
SÁCH TỰ LỰC VÀ TỰ CƯỜNG
Kính thưa Qúy Vị,
Qủa như
qúy vị nghĩ, qúy vị muốn có một đời sống độc lập để
tự tạo sự nghiệp và cơ nghiệp cho mình, thì chúng
tôi nghĩ không gì hay bằng qúy vị biết tự lực lấy
mình. Đây là một yếu quyết tự lập thân, nếu qúy vị
không muốn bị ràng buộc với ai hoặc bị thiên hạ đè
nén.
Cũng thế,
một Quốc Gia muốn vững mạnh, muốn tạo cho mình thế
đứng mạnh, có tiếng nói được người người lắng nghe
trên Thế Giới Năm Châu hoặc trên diễn đàn Liên Hiệp
Quốc, thì không gì bằng phải biết tự cường, từ vị
Quốc Trưởng đến Toàn Dân đồng lòng tự xây dựng lấy
Quốc Gia mình. Trái lại, Quốc Gia đó lúc nào cũng
chỉ ỷ lại, cậy dựa vào cái thế mạnh của người Nước
ngoài, cho dẫu họ là đồng minh với mình đi nữa, thì
sớn muộn gì Quốc Gia đó cũng bị người ta bóp chẹt đủ
điều và thường đi đến chỗ là thuộc hẳn ngoại bang.
Đây là lý lẽ tất nhiên không ai chối cãi được. Bài
Học của ông Thiệu với Mỹ, cũng như bài học Hồ Chí
Minh và phỉ quyền Hà Nôi hiện nay với Trung Cộng là
cụ thể.
Trước hết,
chúng tôi xin thuật lại câu chuyện cụ thể của Nước
Đằng vào thời Đông Châu, để cho chúng ta thấy rõ cái
lý tự lực cùng tự cường quan trọng như thế nào.
Văn Công Nước
Đằng Với Thầy Mạnh Tử
Vào một
buổi đẹp trời Văn Công Vua Nước Đằng xin vấn kế Thầy
Mạnh Tử như sau
- Thưa Thầy,
Thầy biết Nước Đằng chúng tôi là một Nước nhỏ, ở vào
cái thế gọng kìm của hai Nước lớn Tề và Sở. Kể về
phận thì phải lụy cả hai Nước, còn kể sức thì ta
không thể chịu được cả hai. Như thế, theo Thầy ta
phải làm sao, chiều Tề hoặc chiều Sở ? Qủa thực ta
không biết nương tựa vào Nước nào cho Nước Đằng ta
được yên ổn. Vậy ta kính nhờ Thầy có mưu kế vẹn toàn
nào khá hay, xin kính giúp cho ta xem.
Thầy Mạnh
Tử đáp lời
- Theo tôi
nghĩ, việc Nước mà cứ trông cậy vào người ta, thì
không thể vững được : nếu ngài chiều Tề thì Sở giận,
mà chiều Sở thì Tề giận, mưu ấy tôi chưa nghĩ kịp.
Song tôi nhận thấy hiện tình Nước Đằng chỉ còn một
cách là mình hãy cứu lấy mình. Tự mình giữ lấy Nước,
có nghĩa bằng cách đào hầm cho sâu, đắp thành chận
địch cho cao. Thêm ngài hãy huấn luyện quân lính cho
giỏi thiện chiến, cai trị một cách công minh, chính
trực hầu tạo thế cấu kết dân tâm, để cùng một lòng
với dân mà giữ Nước, thì dân theo gương đó mà nhiệt
tình giữ Nước không nở bỏ Vua, bỏ giang sơn vậy. Thế
là ta cùng lấy lòng dân hầu giữ lấy Đất Nước, tự
cường mà lo toan việc Nước. Còn việc chiều Tề hay
chiều theo Sở thì tôi không thể quyết cho ngài được.
Vua Đằng
sau khi nghe các lời chỉ giáo của Thầy Mạnh Tử thì
mới mở mắt và trí hiểu rằng, tiên vàn phải biết tự
lực và tự cường hầu giữ lấy Nước Nhà. Qủa nhiên, Văn
Công Vua Đằng tất tất nghe theo lời Thấy Mạnh Tử mà
thực hành nên giữ được Đất Nước. Từ đó, Tề và Sở
ngại không còn lăm le, mưu toan để cướp lấy Nước
Đằng nữa. Nhờ vậy Nước Nhà được bình an.
Qua câu
chuyện này, chúng ta nhận thấy Văn Công Nước Đằng
qủa là con người không ra gì. Thân làm Vua một cỏi,
chúa tể của một Nước, nhưng không biết lo cấu kết
với dân tâm mình, để nhờ vào sức mạnh của dân mà
dựng cho Nước hùng cường - Thế nhưng, ông lại cứ
nghĩ đến đi trông cậy vào người. Cái lạ đời la thế!
Cũng vậy, chúng tôi thấy một số người Việt chúng ta,
các Hội Đoàn hay các Đảng Phái Việt ta xưa cũng như
nay, họ cứ trông ngóng chờ Mỹ, Pháp, Liên Hiệp Âu
Châu vv., giúp hay bật đèn xanh cho thì làm. Chúng
ta nên bình tâm nghĩ lại, cứ trông cậy và ỷ lại vào
người, tất nhiên sẽ bị người ta trói buộc vào các
điều kiện của họ, hoặc bị sai khiến làm lợi cho
người ta, chớ ai dại gì mà giúp không công cho mình.
Vì viện trợ nào cũng có mặt trái của nó như Mỹ,
Pháp, Trung Cộng vv..
Do đó,
chúng tôi nghĩ rằng : cái sách giao tế và trông cậy,
chớ không phải thần phục với Nước mạnh, vì đây là
chỉ là cái thế nhất thời tùy giai đoạn mà thôi! Còn
cái chính sách biết tự cường, tự lo lấy mình và lo
cho Quốc Gia, thì đây mới là chính sách bảo đảm vĩnh
cửu cho Dân, cho Nước được bình an. Tuy nhiên ở đây,
chúng ta nhận xét Văn Công Vua Nước Đằng chỉ lo nghĩ
đến thần phục Nuớc Mạnh (không khác gì phỉ quyền Hà
Nội ngày đêm lạy lục, thần phục bọn Rợ Hán Trung
Cộng), mà không ưu tư nghĩ đến việc làm cho Nước
mình mạnh, Dân mình hùng cường, mới thật là người có
trí lớn, người nhìn xa trông rộng. Vua Nước Đằng qủa
đã quên, có sức mạnh nào bằng sức mạnh của lòng dân!
Chúng tôi tự nghĩ thật Văn Công biết lo cấu kết dân
tâm, và biết dùng các sách luợc dựng Nước bằng các
đường lối « Thứ Chi, Giáo Chi, Phú Chi » cho người
dân biết được nghĩa Nước, yêu chính thể, hiểu được
cái đạo làm người và làm giàu mạnh cho mình - do
thế, thì người dân sẽ đồng một lòng, một ý cùng
quyết tâm sống chết với Đất Nước vậy. Khi được như
thế rồi, thì Nước Đằng chẳng cần gì trông cậy vào Tề
hay Sở, để bị người ta bó buộc, chè ép, và mình thì
bị lệ thuộc cho nhục Quốc thề. Ôi Vua Nước Đằng chờ
cho Thầy Mạnh Tử giảng nghĩa cho mới mở mắt ra mà
biết cái sức mạnh của Nước mình đang có, để ngăn
chận giặc, thì thật là người dở, người tồi!
Riêng Thầy
Mạnh Tử, chúng ta thấy qủa là Bậc Hiền Trí, là người
tri mưu có một, mới có thể mở mắt, mở trí cho Vua
Nước Đằng biết giữ Nước và dựng Nuớc.
Do từ đó,
chúng ta hiểu rằng một Nước mà biết Tự Cường Tự Tạo
cho Đất Nước mình một thế đứng vững chắc, thì các
Nước lân bang, các bạn đồng minh hay ngoại quốc, họ
mới không dám khinh thường chúng ta. Còn nhân dân
trong Nuớc, tất khỏi phải tủi hổ cho số phận làm
giống dân « tầm gửi ». Khi chúng ta biết tự lực, tự
cường, tự tạo thì không có một Nước nào dám xem
khinh ta. Họ không dám xâm lấn vào chủ quyền của
Quốc Gia chúng ta, mà chúng ta cũng chẳng bị Nước
nào trói buộc, hoặc đòi hỏi yêu sách này nọ, hầu xâm
phạm vào Chủ Quyền và Quyền Hành của Quốc Gia. Do
vậy, nếu Văn Công Vua Nước Đằng không chịu nghe và
thực hành theo lời chỉ giáo của Thầy Mạnh Tử, ông cứ
khăng khăng theo cái chủ trương trông cậy nhờ người,
thì Nước Đằng không còn là Nước Đằng nữa, vì dã mất
hết Chủ Quyền rồi.
Qúy vị
thấy những điều chúng tôi nói đây, thì chúng ta thấy
rõ rằng : ta mà ỷ lại vào kẻ khác, thì lẽ dễ bị sai
khiến, lệ thuộc vào người ấy. Còn một Nước mà chỉ
biết dùng cái sách lược trông cậy vào ngoại quốc như
Mỹ, Pháp, Trung Cộng vv., tất Nuớc đó sẽ bị trói
buộc và mất chủ quyền, ôi không còn gì là thể thống
của Quốc Gia, tự hào của Dân Tộc nữa.Tuy nhiên, vì
hoàn cảnh ngặt nghèo năm trong tư thế kẹt phải trông
nhờ vào người ta, thì nên chỉ trong một giai đoạn
tạm thời mà thôi. Nhưng ít nhất Quốc Gia đó, phải
biết tạo cho Nước mình một thế đứng vững phần nào,
để khỏi bị lép vế, khỏi bị người ta đưa vào cái thế
trói buộc và bắt bí - Thế đó, tài ba, mưu trí, đảm
luợc, hay hoặc dở của người Lãnh Đạo là ở chỗ này.
Chúng ta
xem không hẳn cái gương Nước Đằng vào thời Đông Châu
xưa mới như thế. Song ngày nay, chúng ta thấy nhiều
Nước cũng lâm vào trường hợp này, hoặc bao nhiêu
người lãnh đạo rơi vào cái thế như Văn Công xưa
kia : Như trường hợp của ông Thiệu, Ông Bảo Đại, ông
Hồ Chí Minh và Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và
Nguyễn Tấn Dũng hiện nay. Xin trở về xa hơn trong
lịch sử Đất Việt, thì chúng ta có Trần Ích Tắc và
Gia Long. Các vị này đã chẳng chịu nghĩ đến biết tự
lực, tự cường và cấu kết với toàn dân để đánh và
diệt cộng sản, đánh và đuổi Pháp hay đánh và đuổi
quân Tàu ra khỏi bờ cỏi. Song họ lại đi cấu kết,
trông nhờ vào ngưòi ta nên đã làm cho Nước Việt
chúng ta bao lần điêu đứng lầm than và khốn đốn.
Những người tối dạ, kém trí này (nói như ngôn ngữ
của ngưòi Việt bên nhà, là đầu óc « toàn bả đậu »)
đã ví quá ỷ lại, trông cậy và tín phục người ngoài,
cho nên mới bị người ta trói buộc, kẹp chặt, bắt ép
đủ điều…Điền hình cụ thể là bọn bá quyền Bắc Kinh
bắt ép phỉ quyên Hà Nội đủ diều : nay chúng đòi ký
giấy dâng Đất, mai chúng đòi dâng Biển, mốt chúng
bắt ký hợp đồng cho khai thác quặng mỏ, cho dân tàu
phù vào làm ăn ở Nuớc ta, ngày nữa chúng đòi thuê
rừng Nước ta vv. Lại nũa, bọn thồ phỉ Tàu cộng ngang
nhiêm xâm lần đất đai, biển cả đi đi lại lại coi như
không, còn nữa, chúng lại cướp bóc, bắn chết và đánh
đập các ngư phủ Việt hiền hoà. Chúng xem thường chủ
quyền Đât Nưóc ta đến thế là cùng ! Thế nhưng, Hà
Nội và Bộ Chính Trị, và Đảng gian của chúng cứ cúi
mặt, khom lưng răm rắp tuân theo những yêu sách, đòi
hỏi của bọn bá quyền Rợ Hán Bắc Kinh. Lý thực họ là
người chẳng biết tri thức thời cơ thuận dân, hòa
Nước, nên mới tạo ra nhiều đổ vỡ, lắm đau thương,
tạo nên vô vàn cảnh éo le, chảy máu mắt và bi đát
cho Nước nhà thế đó.
Các Ông Dương
Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Bảo Đại, Hồ Chí Minh,
Gia Long Không Biết Tự Cường Và Tự Lực
Người Việt
chúng ta, nhất là người Miền Nam không ai lại không
rõ các ông Bảo Đại, ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn
Thiệu, tạo được nghiệp, lên được Vua, Quốc Trưởng,
Tổng Thống, Chủ Tịch Nước, đều là nhờ các bàn tay
phù thủy Nước Ngoài, là Pháp, Mỹ, Nga, Trung Cộng
vv.. Nhờ người mà các ông mới làm Vua, Chủ Tịch,
Tổng Thống. Chúng ta thấy như ông Minh vì hàm lon
« Đại Tướng » mà chạy theo Mỹ để lật đổ nền Đệ Nhất
Cộng Hòa và hèn hạ, bí ổi sát hại Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, làm đổ vỡ tất cả
nhũng Quốc Sách Diệt Cộng, Chính Sách Tự Cường, Tự
Lực của Tồng Thống Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô
Đình Cẩn.
Cái xuẩn
động của ông Minh, đã dốt về binh thư, chiến thuật
và chiến lược, lại còn ấu trĩ và ngu dốt về chính
trị khi đối đấu với Hồ Chí Mình và Đảng cộng tinh
ranh, gian trá và lắm mưu mô, lừa đảo: Một trong cái
ngu phá của ông Minh là ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến
Lược, là một Quốc Sách Tự Lực và Tự Cường bảo vệ
thành lũy cho xóm làng có dân sinh sống. Hà Nội và
Việt cộng phải điên dảo ví Quốc Sách Ấp Chiên Lược
này, chúng không thể nằm vùng, và không có được sự
tiếp tế, hay bám trụ, ẩn náu được, hầu phá hoại Miền
Nam. Cái ngu thứ hai của ông Minh, lá bắt bỏ tù
nhiều Anh Em Cần Lao cùng những Anh Em làm viêc
trong «Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung », mà ông
Ngô Đình Cẩ đã co công lập nên, họ là những chiến sĩ
tình báo và diệt cộng hữu hiệu, phá tan bao cơ sở
nằm vùng của Hà Nội cài lại Miền Nam sau ngày Hiệp
Định 54. Chính khi Tổng Thống Diệm, Ông Nhu và Ông
Cẩn chết, thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã nói
Mỹ và Dương Văn Minh đã giúp cho chúng ta. Chúng nó
ngu diết đi các ông ấy, giúp chúng ta dễ chiến thắng
Miền Nam hơn – Và lịch sử đã chứng mình những điều
nói này.
Còn ông
Thiệu thì khéo cúi lòn lấy điểm với Mỹ mà họ giúp
cho trị vì 9 năm. Ông chỉ là con cờ cho một sách
lược của Mỹ, là một sự đổi chác của Ngũ Giác Đài và
Toà Nhà Trắng với cộng sãn Nga, Trung Cộng, Hà Nội
cho quyền lợi của họ. Cũng như ông Minh, ông Thiệu
trong 9 năm trị vì không biết tự lực, tự cường cho
Miền Nam. Không chịu bắt chuớc học hỏi chính sách tự
cường, tự lực như Tổng Thống Diệm, hay nữa là Tổng
Thống Phát Chính Hy mà chúng tôi đã có nói qua ở
phần trên.
Ông Bảo
Đại cũng thế, không khá gì hơn. Ông ta từ nhỏ đến
lớn sống ở Pháp và học ở Pháp, rồi nhờ người Pháp
đưa về mà lên ngôi Vua trị vì. Nhưng ông chỉ như một
cái xác « bù nhìn », không có quyền, không có thực
lực gì cả. Vì thật ông Bảo Đại chẳng phải tự sức, tự
lực của mình mà dựng Nước Nhà, thế nên bị người ta
trói buộc, tước đoạt hết quyền hành. Họ đưa ông lên
ngôi báu để làm một vị Vua bù nhìn mà thôi. Nếu ông
khôn ngoan tự tạo cho mình thế tự lực, liên kết được
lòng dân về một mối, sống hòa mình với dân, chịu
chia sẻ cay đắng, ngọt bùi với dân, nằm sương, nếm
mật với dân, hầu tạo cho mình cái thế đứng vững
trong giai đoạn ấy, thì nhân dân Việt Nam sẽ hết
mình với ông, tạo cho ông một thế Nước lúc đó.Từ đó
giúp ông một uy thế, và một thế đứng trên chính
trường ngoại giao quốc tế cho Việt Nam. Nhờ đó,
người Pháp đâu dám có thể lạm quyền, có thể ngông
ngang và lộng hành như vậy.
Bảo Đại
không thực tâm yêu Nước, yêu Dân chí tình. Không có
đưọc một sự cộng tác đồng lao cộng khồ với dân. Hầu
như cả cuôc đời của ông chỉ có « trai gái, cờ bạc và
ruợu chè », hết sống tại Cannes ỏ Pháp, thì ở Hông
Kông, lại đêm ngày trong các sòng bạc Casino. Mọi
công việc ông giao khoán cho các ông Thủ Tướng mà
ông sắc phong như ông Ngô Đình Diệm, ông Trần Trọng
Kim, ông Nguyền Văn Tâm, ông Nguyền Văn Xuân vv.. Vả
nữa, đường đường là một Quốc Trưởng mà lại giao du
với tên Chúa Trùm Du Đảng khét tiếng Bảy Viển tức Lê
Văn Viễn của những thập niên 30-50, làm « bảo kê và
bảo vệ » cho hầu hết các phong trà ca nhạc, các cửa
hàng làm ăn của các thương gia, tài phiệt Tàu -Việt
ở Sài Gòn-Chợ Lớn, Bãy Viển có Nhà Hàng Đại Thế
Giới (casino) vv. Bảy Viễn là người như thế, mà Bảo
Đại lại phong quân hàm Thiếu Tướng cho, là nhờ một
sự cống nộp cho Bảo Đại nửa triệu Mỹ Kim để trác
táng ăn chơi với các tình nhân của mình (Xin xem
Liêm Anh : Bảy Viễn Một Đời Ngang Dọc, trang
495-496, Đai Nam Xuất Bản). Ông không có được sự sĩ
khí anh hùng như các đấng tiên vương, làVua Hàm
Nghi, Thành Thái và Duy Tân.
Rồi đến
ông Hồ Chí Minh, là người tệ hơn cả và đám thuôc hạ
của ông bây giờ cũng thế. Miệng thì nói « không
gì qúy hơn độc lập tự do », nhưng thực ra họ cũng
chỉ là những người làm theo lệnh của quan thầy Trung
Cộng, Nga Sô, chẳng tự lực, tự cường nỗi lấy gì. Họ
Hồ hay đám đàn em Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức
Thọ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đến Nguyễn Văn
Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Phan Văn
Khải và Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết cùng Nguyễn
Tấn Dũng hiện nay, cũng phải cam phận làm thân « tầm
gửi » vào thế lực của Trung Cộng, Nga Sô – Nay là
Tây Phương và đám Tư Bản rừng rú, để được họ viện
trợ các loạị vũ khí cho hoặc đem quân qua giúp cho
như Trung Công, để đánh chiếm Miền Nam. Còn ngày nay
thì có tiền để bỏ vào ngân hàng, nuôi Đảng cộng và
chia ghế quyền lực với nhau. Nhờ vậy, phỉ quyền Hà
Nội mới bóp chết hết các thứ tư do của người dân, và
khủng bố, bắt bớ các tiếng nói đối lập và những
người yêu Nước, tranh đấu cho dân chủ và chủ quyền
Quốc Gia như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Trần Huỳnh Duy
Thúc, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh
Nghiêm, Lê Công Định, Lê Thăng Long, Phạm Anh Kim,
Trần Khải Thanh Thủy Thủy vv..
Chúng ta
thấy trước đây Hồ Chí Minh hay đám thuộc hạ ở Bắc Bộ
Phủ phải tất tất tuân lệnh Liên Sô và Trung Cộng,
cùng rập khuôn theo các chính sách của họ đề ra :
như cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ, diệt trừ tư
sản mại bản, triệt hạ trí thức văn nghệ vv.. Ngày
nay thì có « chính sách đổi mới kinh tế » nữa nạc,
nữa mở, hơi tạp nhạp bắt chước Đặng Tiểu Bình, chẳng
ra cái gì, chì vỗ béo cho túi tiền các quan chức lớn
và gia đình của chúng.
Thế đó,
chúng ta thấy ông Hồ cùng đám thuôc hạ của ông, hoặc
ông Thiệu cũng như ông Khiêm, và đám người thân cận
các ông quá bị lệ thuộc vào người Nước ngoài. Tương
lai xứ sở của mình, mình không thể quyềt định được,
lại do các tay tổ đàn anh như Mỹ, Pháp, Nga, Trung
Công vv., định đoạt cho số phận Việt Nam của chúng
ta. Các ông đó vì không có được sĩ khí của người
biết tự trọng, lại thiếu đi chính sách Tự Lực, Tự
Cường cho nên Việt Nam ta mới nên nông nỗi như ngày
nay. Hơn nũa, ngay cái tên cha mẹ mình đặt ra là
Nguyễn Tất Thành, mà ông Hồ còn chối bỏ tên họ cúng
cơm của minh, nhận đại cái tên Hồ Chí Minh vớ vẫn
nào đó của bọn Rợ Hán Trung Cộng, thì Hồ Chí Minh là
người như thế nào, xin qúy vị và đồng bào Việt phẩm
nghị cho ? Là con người thì có cội, có nguồn, không
mang họ cha, thì mang họ mẹ khi mình có cha me đặt
tên cho. Một người vong quốc như Hồ Chí Mình, chối
bỏ Họ Tên của mình , của gia tộc, của Dân Tộc, thế
mà Phỉ Quyền Hà Nội xưa cũng như nay tôn thờ, học
hỏi « tư tưởng » bất hiếu, phản dân tộc, vô ơn, bội
nghĩa với Đấng Sinh Thành, và giòng máu Việt. Ông
Thiệu, tệ hại hơn, ông lại đi nuôi tên tình báo cao
cấp Huỳnh Văn Trọng trong Dinh Đôc Lập của mình,
không khác gì rước phỉ quyền Hà Nội vào Miên Nam
trong nay mai thôi. Vậy ông Thiệu là ai ? Có góp
công sức cho Hà Nội làm sụp đổ Miên Nam chăng ? (xin
xem Trần Trung Quân : Lái Buôn Tổng Thống, Tinh Báo
Chiến Lược Tại Dinh Độc Lập, Nam Á xuất bản 1990,
trang 157-158).
Qúy vị khi
nhìn lại lịch sử Nước Nhà vào những thế kỷ trước
đây, để suy gẫm sâu xa về chính sách này. Qúy sẽ
thấy buồn lắm thay : một Gia Long kém trí nhìn xa,
không biết tự lực cấu kết lấy nhân tâm để chống lại
Tây Sơn, mà chỉ lo đi cầu khẩn hết Xiêm La đến Pháp,
lo van nài cầu lạy Giám Mục Bá Đá Lộc, nhờ ông ta
cầu viện Nước Pháp giúp cho mình hầu thắng quân Tây
Sơn. Đề rồi không ngờ rằng mấy chục năm sau cái chết
của Gia Long, thì ngưòi Pháp đã theo vào lập nên chế
độ đô hộ ngót gần một thế kỷ dài trên Giang Sơn
chúng ta. Gia Long đã vô hình chung tự « rước voi về
dày mả tổ » như Trần Ích Tắc đời Trần xưa kia. Nếu
như ngày xưa đó Gia Long biết tự lực và tự cường mà
lo cấu kết với nhân tâm hầu chống lại Tây Sơn, thì
nay bộ mặt Nước Việt Nam chúng ta đã đổi khác nhiều
lắm! Cũng thế, nhìn lại mấy chục năm qua thì Hồ Chí
Minh chỉ biết cậy dựa vào Nga cộng, Tàu cộng và làm
theo lệnh quan thầy, để rồi rước cái đại họa cộng
sãn vào cho Đất Nước, và nó còn kéo dài mãi cho Dân
Tộc chúng ta đến ngày hôm nay.
Bởi thế,
lãnh đạo mà không biết tự lực hầu tạo cho mình cái
thế vững, cứ trông ngóng và ỷ lại vào người, thì lại
nguy hiểm không kém gì Quốc Gia không biết tự cường.
Do đó, chúng tôi nghĩ các Đoàn Thể, Hội Đoàn và Đảng
Phái chính trị mà không tạo cho mình một thế đứng,
tạo cho mình được tiếng nói có người nghe, hay tạo
cho mình uy thế - cứ ỷ lại trông chớ vào Mỹ, Pháp,
Liên Hiệp Âu Châu vv. giúp cho hoặc « bật đèn xanh »
cho chúng ta, thì cũng sẽ bất ứng như vậy thôi.
Chúng ta ôn lại bài học Miền Nam : ông Thiệu và các
cố vấn thân cận ông qúa ỷ lại và trông chờ vào sự
giúp đỡ các nguồn viện trợ vũ khí cũng như tài chánh
và kinh tế … Sự kém trí và tối dạ chính trị của ông
Thiệu và các cố vấn của ông như Hoàng Đức Nhã,
Nguyển Tiến Hưng đặt trọn tin tưởng vào sự hứa
« lèo » qua các lá thư của tay đại bịp Nixon sẽ giúp
Miên Nam đến cùng, không bỏ rơi ông và Miền Nam. Cái
khờ và lãnh đạo tồi của ông Thiệu và đám thân cận
ông ở chỗ này : không biết lo tự lực, tự cường cho
mình, cho Quốc Gia đánh cộng, diệt cộng, lại còn
tham nhũng, ăn hối lộ, vơ vét tiền và tài sản của
Nước Nhà, đào ngũ, chạy trốn khì Miền Nam đang dầu
sôi, lửa bỏng một mất một còn với Hà Nội.
Từ ý nghĩa
chúng tôi nói đây, là các đoàn thể tôn giáo, hội
đoàn hay đảng phái chính trị của chúng ta hôm nay,
chẳng biết tự lực, tự cường cùng tự quyết (hoạch
định các chính sách, chủ trương của mình), thì tất
dễ tan rã, phân hóa, bị người giật dây chỉ huy, chi
phối không còn tính cách độc lập, song chỉ còn là
một công cụ của người xử dụng mà thôi. Đây là bài
học các đòan thể tôn giáo ta trước năm 1975, và sau
1975 cũng thế, như Công Giáo yêu Nưóc, Phật Giáo yêu
Nước, mà người dân gọi là Quốc Doanh. Bất cứ Đảng
Phái hoặc Tổ Chức, Mặt Trận Chính Trị nào mà chẳng
tự lực nỗi mình, hoặc chẳng tạo cho mình một thế
đứng uy tín, lại không được hậu thuẫn quần chúng tán
trợ, thì tất chẳng được bền lâu.
Chúng ta
xem cái gương của các Nước Anh, Pháp, Đức, Nhật ,
các Nước này trong thời Đê Nhị Thế Chiến đã bị tàn
phá nặng nề, như Đức và Nhật nhiều thành phố hầu như
hoang tàn. Thế nhưng, các Nước này nhờ vào các vị
lãnh đạo giỏi, với một lòng yêu Nước nồng nàn như
Winston Churchill, Charles De Gaulle, Konrad
Adenauer, hợp cùng với dân chúng họ, họ biết tự
cường, tự lực lấy mình nên sau bao năm xây dựng và
tái thiết, thì Pháp và Anh đã trở thành một trong
năm cường quốc mạnh về vũ khí nguyên tử, cũng như họ
tạo cho mình được một quân lực hùng mạnh làm cho thế
giới phải kính nể. Còn Đức và Nhật, thì trở thành
một trong mười cường quốc giàu mạnh về kinh tế cùng
khoa học kỹ thuật. Do thế, chúng tôi nghĩ một Chánh
Phủ biết tự quyết lấy vận mạng mình cũng như vận
mạng Quốc Gia, mà lo tự cường cho Đất Nước, biết lo
cho dân được giàu có, sung túc và an thái, thương
dân, nghĩ đến dân truớc hết, thì người dân sẽ hết
lòng vì họ và Dân Tộc. Và Chánh Phủ không vì cá nhân,
gia đình, bè phái, tham nhũng .. không tham sân, si,
dục… Song họ chỉ tâm niệm một lòng cấu kết lấy dân
tâm để giữ gìn Đất Nước và tạo lực tự cường cho Quốc
Gia, thử hỏi làm sao Mỹ, Pháp, Nga, Trung Cộng vv.,
lung lạc được ta, chè ép được chúng ta hỉ ?
Vì là
chuyện đại trọng và sự sinh tồn cho Đất Nước, chúng
tôi nghĩ rằng chúng ta (các vị lãnh dạo) phải cố
công nắm cho được nhân hòa là có lực mạnh rồi, thì
chẳng cần trông cậy vào một ai cả! Xin hãy tự lực
cho mình trước đi, chớ bao giờ trông cậy và ỷ lại
vào ai cả (Mỹ, Pháp, Trung Cộng vv.). Bởi cái thân
làm « tầm gửi, nô bộc, tay sai » không ra thể thống
gì! Chúng ta phải biết đó mà phòng thân, lo xa cho
Quốc Gia, Dân Tộc mình.
VIII.
ĐỂ KẾT
LUẬN
Thưa qúy vị,
Cái Thuật
Trị Quốc và Giữ Nước đòi hỏi ở người lãnh dạo, là
ngưởi cầm lài vận mạng Quốc Gia, Dân Tộc, cần có một
trí sáng suốt, một đức độ và tài năng hơn người, một
kiến thức uyên bác, để có thể khôn ngoan biết áp
dụng các chính sách như « Diệt Thượng, Trị Hạ, Khoan
Mãnh Tương Tế, chính sách Trọng Dân, An Dân, Dụng
Nhân, Cầu Hiền tài, chính sách Tự Lực, Tự Cường và
Tự Quyết » mới hy vọng Đất Nước được bình an, người
dân an lạc hạnh phúc, Quốc Gia giàu có hùng cường.
Một người lãnh đạo giỏi, là người biết tùy thời, tùy
cơ mà áp dụng các chính sách nói trên cho hiệu qủa,
hầu đưa đẩy Quốc Gia, Dân Tộc thăng tiến.
Nhà lãnh
đạo và chính trị giỏi, khôn ngoan, là nên biết nương
thế vào nhân dân mà an trị. Thế nương nhân dân,
nghĩa là tỏ lòng nể trọng người dân, giúp đỡ người
dân khi họ túng thiếu, và bảo vệ nhân dân như tài
sản, của cải cùng sự sống của họ.
Thêm nữa,
Thuật Trị Quốc và Giữ Nước, cũng đòi hỏi người lãnh
đạo khôn ngoan, biết nương thế mà vươn lên – Nên
tránh cho mình cùng Quốc Gia cái hiểm họa bị xâm lấn
hoặc đè bẹp. Nhà lãnh đạo tài ba, khôn ngoan, thì
tạo cho Đất Nước một thế liên kết đồng minh, để nhờ
vào các Nước mạnh hay nhiều Nước giúp mình, hầu
tránh cho Đất Nước cái hiểm họa bị các Nước khác ăn
hiếp. Điển hinh là Trung Cộng, Đài Loan, Phi Luật
Tân, ngang nhiên đi chiếm các đảo trong Quần Đảo
Trường Sa và Hoàng Sa của ta, rồi đưa quạn đội ra đó,
tuyên bố chủ quyên là đảo của họ.
Chúng ta
thấy ngày nay như các Nước Đông Âu : Ba Lan, Hung
Gia Lợi, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, Bun Ga Ri, Slovanie
vv. cùng Nhiều Nưóc nhỏ cựu Liên Sô và Đông Âu, gia
nhập vào Cộng Đồng Âu Châu hay Khối Nato, để nương
thế nhau mà sống, mà sinh tồn. Nhìn lại chúng ta,
thì có Khối Đông Nam Á truớc đây đã liên kết với
nhau, nương thế nhau để tránh cái hiểm họa cộng sản
nhuốm đỏ. Ngày nay, thì một Trung Cộng ỷ thế mạnh,
nuôi mộng bá quyền lam Bá Chủ Á Châu, họ ngang nhiên
cướp Trường Sa cùng Hoàng Sa của ta. Do đó, đòi hỏi
chúng ta phải khôn ngoan dựa vào cái thế liên kết và
nương thế này, hầu tránh cho Đất Nước khỏi bị Tàu
cộng lấn át, xâm lấn thêm bờ cỏi. Chúng ta nên nhớ
nắm lòng liên kết và nương thế sức mạnh của người
khác (Mỹ, Pháp, Liên Hiệp Âu Châu) để khống chế lại
họ. Chớ không phải thần phục và qụy lụy như phỉ
quyền Hà Nội đối với Bắc Kinh hiện nay, làm nhục cho
vong linh Tiên Tổ có công dựng Nước, bảo vệ Nước, và
đánh đuổi quân giặc xâm lăng ra khỏi bờ cỏi.
Chúng tôi
uớc gì những giòng suy tư đưa ra về Sách Thuật Trị
Quốc và Giữ Nước này, sẽ giúp cho qúy vị hiểu rõ tầm
đại trọng của nó về các chính sách có lợi cho Nước,
ích cho Dân mà chúng tôi đã cố gắng khảo cứu học hỏi,
và rút ra những kinh nghiệm đau thương của Lịch Sử
Việt Nam, mà cố gắng luận qua. Chúng tôi mong rằng
chớ gì các nhà lãnh đạo, các vị làm chính trị, cầm
quyền trị Quốc, hiểu được những ích lợi của các
chính sách chúng tôi đã luận đây, áp dụng cho Dân
Tộc được nhờ, cho Nước Nhà được cất cánh bay cao
trên con đường dân chủ, thịnh vượng và hùng mạnh. Đó
là tâm nguyện và tâm vọng cùng lòng gắn bó của chúng
tôi đối với Quê Hương cùng Đất Nước Việt muôn đời
kính yêu!
Viết Xong Đêm
Mồng Hai Tết Nguyên Đán Kính Tổ Tiên, Ông Bà Và Cha
Mẹ
Canh Dần , Ngày Hai Tháng Giêng Năm 2010
Thân Chào Quyết Thắng
Nam Giao Lê Thiện Bình
NHỮNG SÁCH
BÁO THAM KHẢO
- Mộng Bình
Sơn :« Ôn Cố Trí Tân », Nhà Xuất Bản Bùi Viện, Sài
Gòn 1974.
- Mộng Bình
Sơn :« Đông Châu Liệt Quốc », Nhà Xuất Bản Zieleks,
Houston 1978.
- Nguyễn Duy
Hinh :« Binh Thư Tôn Tử », Nhà Xuất Bản Văn Hữu, Sài
Gòn 1973.
- Nghiêm Xuân
Hồng :« Từ Binh Pháp Tôn Ngô Đến Chiến Lược Nguyên
Tử », Nhà Xuất Bản Quan Điểm, Sài Gòn 1966.
- Viện Sử
Học :« Binh Thư Yều Lược, Hổ Tướng Khu Cơ », Nhà
Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1977.
- Thanh Lan
& Võ Ngọc Thanh :« Nhân Vật Đông Châu, Chính Trị Đạo
Đức Cổ Nhân », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Thanh Niên Xuất
Bản, Sài Gòn 1968.
- Ngô Tỵ :« Mưu
Lược Chính Trị Đông Phương », Nhà Xuất Bản Sống Mới,
Sài Gòn 1972.
- Mã Nguyên
Lương & Lê Xuân Mai :« Khổng Minh », Nhà Xuất Bản
Khai Trí, Sài Gòn 1968.
- Nguyễn
Hiến Lê :« Chiến Quốc Sách », Nhà Xuất Bản Lá Bối,
Sài Gòn 1973.
- Nguyễn Tứ
Qúy :« Chính Trị Cổ Nhân », Nhà Xuất Bản Khai Trí,
Sài Gòn 1965.
- Nguyễn Văn
Ngọc & Tử An Trần Lê Nhân :« Cổ Học Tinh Hoa »,Nhà
Xuất Bản Thọ Xuân, Sài Gòn 1962.
- Phạm Tất
Đắc Biên Dịch :« Học Thuyết, Tư Tưởng, Đường Lối
Chính Trị Của Quản Tử Tức Quản Di Ngô Hay Quản
Trọng », Việt Nam Quốc Học Tùng Thư Xuất Bản, Sài
Gòn 1960.
- Nguyễn Văn
Thọ :« Khổng Học Tinh Hoa », Nhà Xuất Bản Khai Trí,
Sài Gòn 1970.
- Khổng
Tử :« Xuân Thu Tập Truyện », Dịch Giả Hoàng Khôi,
Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản , Sài Gòn 1969.
- Khổng
Tử :« Tứ Thư Luận Ngữ », Dịch Giả Đoàn Trung Côn,
Trí Đức Tòng Thơ Xuất Bản, Sài Gòn 1950.
- Mạnh Tử :«
Mạnh Tử Chu Hy Tập », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Xuất Bản,
Sài Gòn 1968.
- Mạnh
Tử :« Tứ Thu Hà », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Xuất Bản, Sài
Gòn 1968.
- Nguyễn Cả &
Lê Sơn Cương :« Nghệ Thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy », Nhà
Xuất Bản Khai Trí 1972.
- Hoàng Văn
Lạc & Hà Lạc Việt :« Nam Việt Nam 1954-1975 Những Sự
Thật Chưa Hề Nhắc Tới », Xuất Bản Mỹ Quốc 1990.
- Nguyễn Tiến
Hưng & Jerrold L. Schecter :« Hồ Sơ Mật Dinh Độc
Lập », Ed. Happer & Row, New York 1986.
- Nguyễn
Tiến Hưng :« Khi Đồng Minh Tháo Chạy », Nhà Xuất Bản
Hứa Chấn Minh, San Jose 2005.
- Lưu Kiệt &
Phong Đảo, Biên Khảo và Dịch Thuật : « Những Mẫu
Chuyện Lịch Sử Nỗi Tiếng Trung Quốc 10 Đại Thừa
Tướng Trung Quốc », Nhà Xuất Bản Thanh Niên, Sài Gòn
2002.
- Vũ Đại
Quang & Bùi Hữu Hồng, Biên Soạn và Dịch Thuật :« 100
Nhân Vật Ảnh Huởng Lịch Sử Trung Quốc », Nhà Xuất
Bản Trẻ, Sài Gòn 2001.
- Lê Trọng
Quát :« Việt Nam Đi Về Đâu? Huyền Thoại Và Sự Thật »,
Văn Nghệ Xuất Bản, San Jose 2003.
- Cao Thế
Dung & Lương Khải Minh :« Làm Thế Nào Để Giết Một
Tổng Thống », Đông Phương Tái Bản, Sài Gòn 1970.
- Nguyễn Văn
Minh :« Dòng Họ Ngô Đình Uớc Mơ Chưa Đạt », Hoàng
Nguyên Xuất Bản, California 2005.
- Nguyễn Hữu
Duệ :« Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đinh
Diệm, Tác Giả Tự Xuất Bản, San Diego 2003.
- Minh Võ : «
Ngô Đinh Diệm Lời Khen Tiếng Chê », Thông Vũ Xuất
Bản, California 1998.
- Trần Trung
Quân :« Lái Buôn Tổng Thống, Tình Báo Chiến Lược Hà
Nội Tại Dinh Độc Lập », Nhà Xuất Bản Nam Á, Paris
1990.
- Lý Tòng Bá :«
Hồi Ký 25 Khói Lửa » Tác Giả Tự Xuất Bản, California
1996.
- Liêm Anh :«
Bảy Viễn Một Đời Ngang Dọc », Nhà Xuất Bản Nguồn
Việt Tái Bản, Đức Quốc… ?
- Hoàng Quốc
Kỳ. « Ma Đầu Hồ Chí Minh », Mặt Trận Quốc Dân Xuất
Bản, Úc Đại Lợi 1995.
- Trần Khải
Thanh Thủy :« Hồ Chí Minh Nhân Vật Trăm Tên - Nghin
Mặt », Nhà Xuất Bản Tân Văn, Đông Kinh-Nhật Bản
2008.
- Gert
Buchheit :« Hitler Chef De Guerre », Ed. Walter
Beckers, Bruxelles 1999.
- Những Bài
Báo Trong Tập Sách Nhỏ Về « Lễ Giỗ Cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm 1963-2004 » Mỹ Quốc 2004.
- Minh Võ :« Cái
Chết Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ». Báo Người Việt
ngày 28.10.2004.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét