Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

VỀ MỘT SỐ THƯ LIỆU CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM- Nguyễn Kỳ Phong


Trong cuộc chiến đấu nào, hiểu nhiều về đối phương cũng là một lợi điểm. Điều đó ai cũng biết. Kẻ hở của đối phương thường đến từ tư tưởng của họ. Đọc sách của người Cộng Sản ta thấy được sự che dấu và ngụy tạo lịch sử. Và chúng ta dùng sách của họ để chất vấn chính họ là một cách tranh luận, chiến đấu hữu hiệu nhất. Một số sách sau đây cho chúng ta một cái nhìn tổng quát vào cơ cấu nhân sự và quân sự của Cộng Sản Việt Nam.

QUYỂN SÁCH CHUNG MỘT BÓNG CỜ
Đây là một tuyển tập hồi ký của nhiều đảng viên, cảm tình viên Cộng Sản. Sách do Nguyễn Văn Linh nhuận bút (đại khái như là chủ bút). Hội đồng chỉ đạo biên tập và ban biên tập gồm những khuôn mặt quan trọng của Cộng Sản ở miền Nam. Quyển sách này cho ta thấy "ai là ai" trong hàng ngũ Cộng Sản ở miền Nam. Nguyễn Hữu Thọ, Trần Văn Trà, Trần Nam Trung, Trần Bạch Đằng, Ung Ngọc Kỳ, v.v. Sách dầy gần 1,000 trang, viết theo loại hồi ký, kể lại những hoạt động của hơn 100 nhân vật. Sách đồng vạch mặt một số cán bộ, cảm tình viên nằm vùng của Cộng Sản Việt Nam. Một vài văn nghệ sĩ hiện sinh hoạt với chúng ta đã là cảm tình viên có tuyên thệ với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN. Sách này tương đương như một niên-giám về Mặt Trận Giải Phóng.

QUYỂN SÁCH LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN SAIGON-CHỢ LỚN, 1945-75
Sách dầy 800 trang, thuộc dạng tuyển-tập. Tương tự như quyển Chung Một Bóng Cờ, nhưng thiên về quân sự hơn. Sách do Võ Chí Công chủ biên (chỉ đạo). Đây là một cuốn sách quí cho bạn nào muốn biết về các nhân vật quân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). Sách ghi nhiều chi tiết quan trọng về nhân sự và guồng máy kháng chiến của Cộng Sản từ thời chống Pháp. Hầu hết các nhân vật hiện thời trong chánh quyền-quân sự đều có tên trong sách.
Chúng ta biết được gốc gác các tay như Cao Đăng Chiếm (viên đại-tá ra lệnh bắt giam cải tạo tất cả quân nhân công chức Miền Nam sau năm 1975). Liên hệ giữa các tay kháng chiến kỳ cựu như Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Lê Duẫn, Võ Chí Công, Trần Văn Trà, Nguyễn Vẵn Linh, Võ Văn Kiệt. Sách có nhiều chi tiết về Bình Xuyên và tại sao Bình Xuyên theo theo Pháp, rồi sao đó lại chống lại Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Hay là tên tuổi các tay đặc công quan trọng chuyên ám sát hiện đang quản trị guồng máy chính quyền tại Saigon-Hà Nội. Sách đồng thời ghi lại các địa điểm bí mật chứa vũ khí cho cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968. Hay nhất là địa chỉ và tên các chủ nhà ở mỗi địa điểm.

QUYỂN SÁCH TỰ ÐIỂN BÁCH KHOA QUÂN SỰ VIỆT NAM
Hơn một ngàn trang từ điển về quân sự và nhân vật quân sự. Tuy nói là quân sự Việt Nam, nhưng sách có liệt kê các tướng lãnh, chiến dịch quân sự của ngoại quốc (thí dụ như thống tướng Nga Veroshilov, chiến dịch Belarussia, chiến dịch Normandie, tên các nhân vật Hoa Kỳ). Sách liệt kê khá nhiều về các tướng lãnh, chiến binh của Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên rất thiên vị: Những tướng lãnh, cựu chiến binh mặc dù lão thành và có tiếng, nhưng vì chống lại Đảng và đường lối cầm quyền của Cộng Sản Việt Nam, nên không được liệt kê vào sách.
Sách do Thượng Tướng Đào Đình Luyện làm chủ biên, và ban biên tập gồm các tướng như Đặng Vũ Hiệp (Tham Mưu Trưởng Mặt Trận B3, Tây Nguyên vào thời 1975), Hoàng Minh Thảo (Tư Lệnh Mặt Trận Tây Nguyên), Nguyễn Thới Bưng (Tư Lệnh Quân Khu 7 và 9 ở Miền Nam). Ngày tháng và lý lịch cá nhân của của các tay quân sự Cộng Sản Việt Nam là một điểm quí của quyển tự điển này.

SÁCH HỒI KÝ CỦA CÁC TƯỚNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong chế độ Cộng Sản, viết sách ghi lại chi tiết lịch sử rất khó. Khó không phải là không có điều kiện viết, mà khó là vì cấp trên (Đảng Cộng Sản Việt Nam) kiểm soát ý tưởng của tác giả. Ở Việt Nam, nhiều tướng lãnh muốn viết nhưng không nhà xuất bản nào dám in, hay xin được giấy phép xuất bản.
Hồi ký quân sự của Cộng Sản Việt Nam phần lớn do các cấp tướng viết. Một số đại tá cũng có sách. Nhưng đây là các đại tá quan trọng của những ngành như Đặc Công và Tình Báo. Đọc sách quân sự của họ ta thấy được nhiều điểm hay, nhưng nhiều khi thấy cười vì tính cách thiếu sự thật và phóng đại của họ. Các ông này viết sách hình như viết theo trí nhớ và không có các con số chính xác trong tay. Nhiều trường hợp họ tiêu diệt số quân Mỹ nhiều hơn số quân Mỹ đang có mặt trong vùng. Hay là họ bắn rớt số trược thăng nhiều hơn số trực thăng được trưng dụng cho một đơn vị.
Chúng ta đọc sách nhưng không vội tin vào sách, nhất là sách của Cộng Sản. Chúng ta đọc sách để so sánh những con số và chi tiết họ đưa ra, và từ đó ta thấy được sự bóp méo lịch sử của những người Cộng Sản.

SÁCH CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP
Đối với tôi, Võ Nguyên Giáp là người viết sách về sử và quân sự tệ nhất so với các tướng khác. Tôi không hiểu ông Bùi Tín thấy gì ở tướng Giáp mà khen ông này đáo để. Ông Giáp có thể là một tướng giỏi về tham mưu (ông ta chưa cầm quân một ngày nào trong đời ông), nhưng về viết sách thì quá tệ. Có tiếng là một giáo sư dạy sử, nhưng lối viết "sử" của tướng Giáp làm cho hậu thế dốt về sử thêm. Tôi đọc một số sách của Võ Nguyên Giáp như, Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên, Điện Biên Phủ, Chiến Tranh Giải Phóng và Chiến Tranh Giữ Nước, và một số sách khác gom góp từ các bài giảng quân huấn, tuyên truyền (đại khái như: Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chủ Tịch, Nhà Chiến Lược Thiên Tài, v.v." ) của Võ Nguyên Giáp. Càng đọc, tôi càng nhận rõ Giáp chỉ là một hảo danh, lây vinh quang trên các chiến hữu khác. Tướng Giáp được chức tư lệnh quân đội nhân dân có vì có học hơn các sĩ quan khác. Nhưng về sự dũng cảm và hào khí của một dũng sĩ thì ông ta hoàn toàn không có. Ông Giáp là một tác giả háo danh: chỉ muốn tên một mình mình được ghi nhớ.
Lấy thí dụ về quyển Điện Biên Phủ. Ðiện Biên Phủ là một chiến thắng chung của Việt Nam. Không phải riêng của những người Cộng Sản. Nhưng khi viết quyển đó, tướng Giáp không nhắc tên đến một đồng đội, tướng lãnh đang xả thân ngoài mặt trận. Sách sử về quân sự mà không có một lời về tư lệnh các quân chủng, sư đoàn hay ai làm cái gì, đánh ở mặt trận nào. Trong khi đó thì hầu như cách 10 trang giấy thì có một lời hiệu-triệu của Tổng Tư Lệnh Quân Đội, bên dưới ký tên là Võ Nguyên Giáp! Đọc sách Võ Nguyên Giáp, trừ khi phải nghiên cứu tài liệu, chỉ tốn thì giờ.
Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp hình như bị hạ bệ từ sau năm 1965. Một phần vì bị nghi ngờ là chủ mưu của nhóm "phản đảng xét lại" (nhóm thân Sô Viết, lên án Stalin. Những nhân vật bị nghi ngờ trong nhóm này như các tướng Nguyễn Văn Vịnh, Đặng Kim Giang). Theo tin tức tình báo của Trung Tướng Philip B. Davision (xếp tình báo, J-2 MACV), ông Giáp bị Ðại Tướng Nguyễn Chí Thanh chỉ trích về tội xa xỉ, khi dùng trực thăng đưa vợ ra tắm ở bờ biển Đồ Sơn. Lê Duẫn và Lê Đức Thọ cũng không thích tướng Giáp (hai quyển sách của Bùi Tín có đề cập sơ về vụ này). Đọc sách Võ Nguyên Giáp thấy không hay. Ông Giáp viết sách quân sự mà thiếu nhịp quân hành.
Một số tướng lãnh tôi đã đọc qua gồm: Từ Đồng Quan Đến Điện Biên của Ðại Tướng Lê Trọng Tấn. Cuộc Tiến Công Chiến Lược Đông XuânĐiện Biên Phủ Chiến Dịch Lịch Sử của Đại Tướng Hoàng Văn Thái, và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Những Bài Chọn Lọc về Quân Sự.
Lê Trọng Tấn (tên thật Lê Trọng Tố) là sĩ quan đánh trận. Sách viết có chi tiết quân sự. Ông ta coi Sư Ðoàn 312 từ trận Điện Biên Phủ, vào miền Nam làm phó tư lệnh cho Ðại Tướng Nguyễn Chí Thanh, sau đó làm tư lệnh trận Hạ Lào năm 1971, rồi làm tư lệnh quân đội Cộng Sản Việt Nam tại Lào. Sách có nhiều chi tiết về thời 1945-54.

Vietnam War: 1954-75

Cuộc Tiến Công Chiến Lược Đông XuânĐiện Biên Phủ Chiến Dịch Lịch Sử của Đại Tướng Hoàng Văn Thái: Tướng Hoàng Văn Thái (tên thật Hoàng Văn Xiêm) thâm niên hơn Lê Trọng Tấn. Khi tưóng Tấn coi Trung Ðoàn 209 của Sư Ðoàn 312 , thì Hoàng Văn Thái đã là tham mưu trưởng cho Võ Nguyên Giáp. Sau Trận Điện Biên Phủ, ông Thái coi cấp quân khu. Tư lệnh Quân Khu 5, rồi sau đó tư lệnh toàn miền Nam. Hoàng Văn Thái viết sách mạch lạc, có tên tuổi, chi tiết kiểm chứng được, có ghi nhiều chi tiết về trận Điện Biên Phủ.
Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh với quyển Những Bài Chọn Lọc về Quân Sự. Có một nguồn tin đồn là tướng Nguyễn Chí Thanh bị ám sát khi ra Hà Nội năm 1967. Vào năm 1967, đang là tư lệnh Miền Nam, Nguyễn Chí Thanh trở về Hà Nội trình diện, và chết bệnh vào sáng ngày 2 tháng 7, 1967. Trong quyển Những Bài Chọn Lọc về Quân Sự, có một bài viết của ông đăng ngày 26 tháng 6. Không biết hai sự kiện này có liên hệ với nhau hay không, và không biết ông về Hà Nội ngày nào, lý do gì. Đây là loại sách lý luận và tuyên ruyền. Không có chi tiết gì đáng nhớ. Tướng Thanh không phải là tướng đánh trận, nhưng là tay lý luận quân sự dữ dằn của Cộng Sản Việt Nam. Nguyễn Chí Thanh có vây cánh trong nhóm xuất thân từ miền Trung (Lê Duẫn là người Quảng Trị như Thanh).

SÁCH CỦA THƯỢNG TƯỚNG TRẦN VĂN TRÀ
Năm 1982, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành một quyển sách có tên là Những Chặng Đường Lịch Sử Của B2 Thành Đồng: Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm, của thượng tướng Trần Văn Trà (thượng tướng là một chức sĩ quan theo truyền thống quân đội Cộng Sản Nga Sô. Chức này trên trung tướng, và dưới đại tướng). Sách ra được một tháng thì bị tịch thu và gây ra một sôi động nhỏ trong giới quân nhân tướng lãnh gốc Hà Nội. Trong sách, ngoài một vài thái độ khó chịu về ban tham mưu quân sự ở Hà Nội, tướng Trà chỉ trích giới quân sự miền Bắc là nhát và đánh giặc kiểu nhà giàu. Theo ông, công chiến thắng ở Miền Nam đến từ mặt trận B2, mà ông là một trong những tư lệnh của chiến trường đó. Cũng theo ông Trần Văn Trà, ông là người đề nghị đánh thẳng vào Ban Mê Thuột thay gì tấn công lẻ tẻ các quận nhỏ.
Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm là quyển thứ 5 trong một bộ sách 5 quyển mà tướng Trà viết với tên Những Chặng Đường Lịch Sử Của B2 Thành Đồng. Ông viết được hai quyển. Quyển thứ nhất có tên Chiến Tranh Hay Hòa Bình (quyển 1 xuất bản năm 1982, quyển 5 xuất bản năm 1992). Chưa kịp hoàn tất bộ sách sử thì tướng Trà đã qua đời vào năm 1996.
So với các tướng khác, ông Trà viết sách mạch lạc hơn. Quyển sách Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm bắt đầu từ giai đoạn 1973, sau Hiệp Định Paris, và chấm dứt lúc Miền Nam thất thủ. Quyển sách có nhiều chi tiết về kế hoạch quân sự của Cộng Sản Việt Nam trong mùa khô 1974-75, và các hoạch định khác cho năm 1976 tiếp theo. Sách của ông Trà xác định ý đồ của phía Cộng Sản mà chúng ta đã biết quá rõ: Hiệp Định Paris chỉ là một cơ hội tốt cho Cộng Sản Việt Nam chỉnh đốn lại kế hoạch toàn thu miền Nam mà thôi.
Trong ba tháng đầu của Hiệp Định, tướng Trà là trưởng ban quân sự, đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở Tân Sơn Nhất. Nhưng vào tháng 6 năm 1974, tướng Trà được lệnh ra trình diện ở Hà Nội để bàn về kế hoạch tấn công miền Nam. Lệnh của Hà Nội là trong thời gian này là Mặt Trận B2 sẽ nhận thêm vũ khí, chiến cụ để trang bị đủ cho một quân đoàn. Trong sáu tháng cuối cùng của năm 1973, Mặt Trận B2 của tướng Trà nhận đuợc 30 ngàn tấn quân dụng. Trong nửa năm đầu 1974, mặt trận B2 lập ra bốn sư đoàn, nâng B2 thành một quân khu, gọi là quân Khu 4, do tướng Hoàng Cầm làm tư lệnh. Thêm vào đó, B2 được chi viện thêm Trung Ðoàn Ðặc Công 429 từ Khu 5, nâng tổng số đặc công lên 16 ngàn người, chia ra làm 6 đoàn bao quanh Saigon.
Ngay trong Saigon-Gia Định thì có toán 316 Biệt Động Nội Thành phụ trách. Thời gian ngưng chiến chỉ là một cơ hội cho Mặt Trận B2 chuẩn bị những kế hoạch lớn. Kế hoạch của tướng Trà là dứt điểm Đồng Xoài, Bù Đốp, và Tây Ninh. Trước khi kế hoạch này được hiện, tướng Trà lại được gọi về Hà Nội vào tháng 11, 1974 để hội kiến với Bộ Tổng Tham Mưu Hà Nội thêm một lần nữa. Cùng đi với tướng Trà là Phạm Hùng, Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Lúc đó Trà đang là tư lệnh Mặt Trận B2 (B2 là phân nửa của miền Nam, B3 là vùng từ cao nguyên về hướng tây, Khu 5 là những tỉnh còn lại, và quân khu Bình Trị Thiên thì riêng biệt), Lê Đức Anh là phó tư lệnh và Trần Độ là chính ủy.
Sự va chạm đầu tiên của tướng Trà (và Phạm Hùng) đối với Ban Quân Ủy Trung Ương (tên gọi của Bộ Tổng Tham Mưu Cộng Sản Việt Nam) xảy ra khi đề nghị đánh Đồng Xoài của tướng Trà bị phản đối. Chẳng những Ban Quân Ủy hản đối, họ còn đánh điện-văn về B2 ra lệnh cho Lê Đức Anh thay đổi kế hoạch B2 đã soạn thảo cho mùa khô 1974, và được Hà Nội chấp nhận, trước khi Trà và Phạm Hùng ra Hà Nội trình diện.

Vietnam War: 1954-75

Nhưng Phạm Hùng và Trần Văn Trà tìm đượ một vị cứu tinh cho kế hoạch của họ: Lê Duẩn. Lúc đó ở Hà Nội, Lê Duẫn là tiếng nói của thẩm quyền (Trà, Phạm Hùng và Lê Duẫn rất gần nhau trong thời gian Lê Duẫn ở miền nam trong thời kỳ chống Pháp). Khi tướng Trà hỏi tại sao kế hoạch đánh Đồng Xoài đã được chấp thuận rồi, bây giờ lại hủy bỏ. Lê Duẫn trả lời là Ban Quân Ủy báo cáo là tướng Trà muốn dùng một lực lượng mạnh (thiết giáp và đại bác 130mm, lúc đó B2 muốn xài pháo 130mm ở chiến trường thì phải có sự đồng ý từ Hà Nội) để triệt tiêu Đồng Xoài và thị xã Phước Long.
Tướng Trà trả lời là B2 đánh Đồng Xoài và các cứ điểm chung quanh rất dễ, không cần một lực lượng mạnh. Lê Duẫn đã biết tướng Trà từ lâu nên cho phép. Và Trà đã ra lệnh B2 đánh Đồng Xoài và Bù Đốp. Đồng Xoài mất ngày 26 tháng 12 năm 1974. Được đà, tướng Hoàng Cầm dùng Quân Ðoàn 4 đánh chiếm Phước Long. Phước Long mất ngày 6 tháng 1 năm 1975. Mất Phước Long, con đường huyết mạch từ Saigon lên Kontum bị tê liệt. Lúc đó Bộ Tư Lệnh B3 của tướng Hoàng Minh Thảo sẵn sàng chuẩn bị đánh Kontum. Cho đến khi tướng Trà có ý kiến.
Tướng Trà phản đối (có ý kiến thì đúng hơn) với Văn Tiến Dũng và Võ Nguyên Giáp khi họ cho phép tướng Hoàng Minh Thảo (Tư Lệnh Mặt Trận B3 Tây Nguyên) mượn một sư đoàn của B2 để đánh Kontum. Ông đề nghị: nếu đánh thì đánh Ban Mê Thuột, vì đó là điểm đối phương không chú ý. Trong khi Quân Ủy cãi tới cãi lui về mục tiêu của họ ở Tây Nguyên, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ nghe theo đề nghị của tướng Trà: Ban Mê Thuột là mục tiêu chánh.
Trong hồi ký của Văn Tiến Dũng (quyển Đại Thắng Mùa Xuân), ông kể lại trong một buổi họp Quân Ủy Trung Ương để quyết định đánh vùng nào ở Tây Nguyên, thì Lê Đức Thọ bất thình lình bước vào phòng họp và "chỉ đạo" các tư lệnh quân sự đang họp: Lệnh là phải đánh Ban Mê Thuột, không được bàn cãi. Sau đó Thọ nhấn mạnh thêm một câu, "Chúng ta có năm sư đoàn ở Tây Nguyên mà đánh Ban Mê Thuột không được là như thế nào?"
Thật ra Cộng Sản Việt Nam huy động nhiều hơn năm sư đoàn để đánh Ban Mê Thuột. Ngày 17 tháng 2, 1975, mặt trận B3 huy động một lực lượng như sau:
  Bốn sư đoàn: 10, 320, 316, và 968
  Bốn trung đoàn: 95A, 95B, 25, và 271
  Năm trung đoàn pháo binh và phòng không
  Một trung đoàn thiết giáp
  Một trung đoàn đặc công
  Hai trung đoàn công binh
Và tất cả là để dứt điểm Ban Mê Thuột. Ngày 4 tháng 3 năm 1975, Trung Ðoàn 95B giả bộ đánh vào Quốc Lộ 19 như muốn tấn công Pleiku. Ngày 10 tháng 3, quân của B3 đánh Ban Mê Thuột, và Ban Mê Thuột mất 10 ngày sau đó.
Kinh nghiệm quân sự của tướng Trà làm nhiều tư lệnh quân sự Hà Nội ghen ghét. Đó cũng là lý do tại sao sách của ông ta bị thâu hồi khi vừa được xuất bản. Trần Văn Trà viết sách rất lý thú, cho độc giả nhiều chi tiết hơn tất cả các tướng lãnh viết sách khác. Ông Trà thích gọi các tướng khác bằng bí danh. Ngoài một số bí danh quen thuộc mà chúng ta đã biết như Anh Ba (Lê Duẫn), Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), qua sách của tướng Trà ta biết đưuọc thêm một số tên khác như, Anh Bốn (Võ Chí Công), Mười Khang, (Hoàng Văn Thái), Chín Vinh (Trần Độ), Sáu Dân (Võ Văn Kiệt), Bảy Cường (Phạm Hùng), Sáu Thọ (Lê Đức Thọ, còn gọi là Sáu Mạnh), và "Sáu Nam" (Lê Đức Anh).
Về quyển Chiến Tranh Hay Hòa Bình (quyển 1 của bộ sách): quyển này không hay lắm. Mấy chục trang đầu trích lại một số tài liệu của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ mà chúng ta đã biết. Một vài chi tiết quan trọng của cuốn này nói về các lực lượng tập kết ra Bắc, và có một thời gian lực lượng này (Sư Ðoàn 335) nổi loạn chống lại Cộng Sản Việt Nam nhưng bị đè bẹp. Sách kể chi tiết về con đường mòn Hồ Chí Minh và khởi thủy của Đoàn 595, 959 và 759, là các đoàn phụ trách đưa người vào Nam. Tiếc là Trần Văn Trà qua đời trước khi hoàn tất bộ sách của ông. Không biết ông ta sẽ nói gì về những năm khốn đốn, 1967-69 của Mặt Trận B2.

MỘT SỐ THƯ LIỆU KHÁC
Dưới đây là một số thư liệu của Cộng Sản Việt Nam mà người viết có cơ hội đọc qua không quan trọng so với những cuốn đã nói đến.
* Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: Từ năm 1966 cho đến nay, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Cộng Sản Việt Nam cho in nhiếu ấn bản về lịch sử quân đội của họ. Ngưòi viết coi qua hai ấn bản (edition), cả hai có nhiều chi tiết khác nhau, và đó là một sự mâu thuẩn trầm trọng khi ghi lại lịch sử. Một ấn bản đến từ Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Ấn bản kia đến từ Viện Quân Sử. Bộ sách này chưa xứng đáng gọi là sách sử vì chi tiết rời rạc và thiếu mạch lạc.
** Lực Lượng Vũ Trang Tây Nguyên: Tây Nguyên là căn cứ của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3. Và B3 đi đôi với tướng Hoàng Minh Thảo. Quyển này do Hoàng Minh Thảo và Đặng Vũ Hiệp đồng soạn. Sách ghi các sự kiện quân sự từ 1954 cho đến 1975. Một chi tiết đáng được để ý là sách ghi rõ ràng về trận đánh vào Quốc Lộ 14, Quốc Lộ 19, và Ban Mê Thuột.
*** Pháo Binh Xuân 1975, Lịch Sử Đặc Công, Lịch Sử Ngành Điện Báo: Như tựa của sách, ba quyển nói về Pháo Binh, Truyền Tin, và binh chủng Đặc Công của Cộng Sản Việt Nam. Cuốn Lịch Sử Đặc Công viết được, ghi lại một số tên tuổi cán bộ đặc cộng Cộng Sản. Võ Viết Dũng, hiện nay (năm 2000) là phó chủ tịch Thành Ủy Sài Gòn (sau Trương Tấn Sang) từng là một đặc công quan trọng của lực lượng đó. Sách có ghi chi tiết về các trận đánh vào kho xăng Nhà Bè, tấn công vào phi trường Pleiku, pháo kích vào phi trưuờng Biên Hòa. Sách có phụ chú về những cán bộ được tuyên dưong anh hùng quân đội nhân dân. Hai quyển về Truyền Tin và Pháo Binh, chỉ là những thư liệu thưòng.

Vietnam War: 1954-75

**** Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Hậu Cần Chiến Dịch Trong Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp, Giải Phóng Quân Huế, 1945: Ba quyển này có nhiều chi tiết về nhũng năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Một số nhân vật có tên trogn sách sau này là các tư lệnh quân sự chính trị quan trọng của Cộng Sản Việt Nam. Trong cuốn Nam Kỳ Khởi Nghĩa, ta thấy Cộng Sản Việt Nam lý luận khi họ triệt tiêu nhóm Đệ Tứ Cộng Sản. Sách nói đến hầu hết các tay cách mạng cũ ở miền Nam như Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Xuyến,Nguyễn văn Kỉnh, v.v. Đây là một "Who's Who" về các tay cách mạng Cộng Sản gốc miền Nam.
Cuốn Hậu Cần Chiến Dịch nói về các công tác hậu cần (tiếp liệu) của Việt Minh/Cộng Sản Việt Nam trong thời kháng Pháp. Sách đưa ra chi tiết về chiến dịch tiếp liệu cho trận Điện Biên Phủ. Qua sách này chúng ta có thể suy đoán Việt Minh/Cộng Sản Việt Nam có bao nhiêu quân khi họ bao vây Điện Biên Phủ. Về quyển Giải Phóng Quân Huế, cũng tương tựa như sách về cuộc kháng chiến ở miền Nam. sách nói về những nhân vật gốc Huế, có ghi lại nhiều nhân vật tên tuổi của Huế trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cách tìm thư liệu Cộng Sản Việt Nam: Ngoài sách vở, người viết nhờ bạn bè mua khi họ có cơ hội. Người viết theo dõi những bản tin của Foreign Broadcasting Information Services. Đây là một co quan của đài Voice of America. Cơ quan này chuyên nghe các đài phát thanh của CSVN và dịch ra Anh ngữ các chi tiết cần cho các cơ quan tình báo Hoa Kỳ. Đây là cơ quan dịch lại các tác phẩm của Trần văn Trà và Văn Tiến Dũng ra Anh ngữ. Từ cơ quan này, chúng ta đọc được nội dung của các kỳ họp chính trị hay trung ương đảng của Cộng Sản Việt Nam.
Các chi tiết về chính quyền và nhân sự của Cộng Sản Việt Nam cũgn có thể tìm thấy trong một ấn bản phát hành bởi National Technical Information Services. Ấn bản hàng năm ghi danh sách của chính phủ Cộng Sản Việt Nam và các tư lệnh quân đội, vùng và các cơ quan quan trọng. Danh sách trung ương đảng cũng đến từ đây. Mặt đầu tài liệu đến từ Bộ Thương Mại (NTIS là một nha của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ) nhưng chắc chắn tin tức đến từ các cơ quan tình báo Hoa Kỳ. NTIS phát hành hàng năm tin tức của tất chính phủ trên toàn thế giới. NTIS bán tài liệu này qua Bộ Thương Mại.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét