Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

NGƯỜI VIỆT NAM & “ĐẠO GIÊ-SU” - NMQ - 2



 Nguyễn Mạnh Quang


CHƯƠNG 1



I.- SƠ LƯỢC MỘT VÀI NÉT VỀ BỘ MĂT THẬT CỦA GIÁO HỘI LA MÃ
Binh thư Tôn Tử viết “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng”. Đã xác nhận Vatican hay Giáo Hội La Mã là kẻ thù lâu dài nhất, bám chặt nhất, nguy hiểm nhất, thâm độc và dã man nhất đối với dân tộc Việt Nam, thì dân tộc Việt Nam cũng phải biết rõ bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã như thế nào! Trong bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã, chúng tôi đã dành ra cả Phàn I và Phần II gồm 6 mục với tổng số 17 chương sách để nói về sự thật ghê tởm của một số khá nhiều tín lý Ki-tô cũng như bộ mặt thật của cái thế lực mà học giả Da-tô Henri Guillemin gọi là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”, văn hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn” và một học giả Da-tô khác là ông Charlie Nguyễn gọi là “đạo bịp” và “đạo máu”.
Trong chương sách này, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược về một vài nét độc đáo của cái xí nghiệp buôn thần bán thánh này để giúp cho độc giả có cái nhìn tổng lược nhưng rất trung thực về một số lời dạy của Chua Bố Jehoivah và của Chúa Con Jesus cùng một số trong những khu rừng tội ác của Giáo Hội mà giáo dân người Việt luôn luôn coi như là tổ quốc thân thương của họ để rồi hết lòng tuân phục và cúc cung phục vụ, trong khi người Âu Châu đã biết rõ bộ mặt thật ghê tởm của nó, “khiếp sợ nó, tránh xa nó như tránh hủi”.[i]

A.- LỜI DẠY VÀ HÀNH ĐỘNG PHẢN NHÂN LUÂN VÀ BẠO NGƯỢC TRONG GIÁO HỘI LA MÃ
Giáo Hội La Mã luôn luôn rao truyền và dạy dỗ tín đồ rằng ông Chúa Con Jesus là Chúa Cứu Thế, nhân từ, bác ái, nhưng trong Tân Ước, sách Matthew (10: 34-37) viết rõ ràng những lời ông Chúa Con Jesus này rao truyền và dạy dỗ người đời toàn là những điều phản nhân luân, đại nghịch bất đạo. Dưới đây là những lời dạy phi luân quái đản này được ghi rõ ràng trong Tân Ước như sau:
Ta đến đây không phải mang lại sự bình an, mà là mang gươm dáo. Ta đến để con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng và làm cho người trong nhà trở thành thù địch chống lại nhau. Kẻ nào yêu kính cha mẹ hơn ta thì không đáng gì đối với Ta, và kẻ nào yêu thương con cái hơn Ta cũng không đáng gì đối với Ta. ” Nguyên văn: “Do not think that I came to bring peace on earth. I did not come to bring peace but a sword.” “For I have com to set a man against his father, a daughter against her mother, and a daugher-in-law against her mother-in–law.” “And a man’ s foe will be be of his own household.” “He who loves father or mother more than Me is not worthy of Me. And he who loves son or daughter more than Me is not worthy of Me.” Matthew (10: 34-37).
Những lời dạy mất dạy phản nhân luân này được các nhà lãnh đạo Giáo Hội học thuộc lòng và theo đó mà hành xử rồi lại ra lệnh và dạy dỗ tín đồ cũng phải học thuộc lòng và cũng phải theo đó mà hành xử. Bằng chứng là:
"Năm 1232, Giáo Hoàng Gregory IX (1227-1241) thiết lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là Inquisition… Cha con tố các nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội. Giáo Hoàng Paul IV (1555-59) tuyên bố: "Nếu bố tôi là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu sống ông ta luôn" v.v..” [ii]
Những lời dạy trong Cựu Ước cũng như ở trong Tân Ước và lời dạy của Giáo Hội cho chúng ta thấy rõ bản chất cũng như chủ trương và hành động của Giáo Hội đều là những gì lừa dối, bịp bợm, bạo ngược, độc ác, dã man, phản dân tộc, phản quốc, phản nhân luân và luôn luôn chống lại nhân loại. Ấy thế mà Giáo Hội lại luôn luôn tự phong là “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là “Hiền Thê của Thiên Chúa Hiện Làm Người”, rằng đạo Ki-tô La Mã là đạo cữu rỗi, đạo của bác ái, đạo của tình thương, v.v… Rõ ràng là Giáo Hội ăn ngang nói ngược, ăn không nói có, gian manh bịp bợm đến cùng cực của gian manh và bịp bợm. Nói về những ác tính ghê tởm này Giáo Hội La Mã, Giáo-sư Lý Chánh Trung ghi lại trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc như sau:
"Ngay trong thời vàng son của Phật Giáo Ấn Độ, dưới triều Hoàng Đế Asoka, chính nhà vua này đã ban hành và cho khắc lên đá một sắc chỉ khuyến cáo sư khoan dung giữa các tôn giáo:
“Chúng ta không nên chỉ tôn kính riêng tôn giáo của mình mà kết án tôn giáo cúa người khác, trái lại, chúng ta phải tôn trọng tôn giáo của kẻ khác (…). Làm như vậy, chúng ta vừa làm sáng danh tôn giáo của mình, vừa giúp ích cho tôn giáo của người khác. Làm ngược lại là đào mồ chôn tôn giáo của mình, đồng thời làm hại tôn giáo của người khác.
Trong Giáo Hội Công Giáo thì trái lại, khuynh hướng đóng kín và tự mãn hiện diện ngay trên bình diện tập thể, vì Giáo Hội đã tự ý thức mình như một dân tộc được Thiên Chúa chọn lựa và giao cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Giáo Hội là con đường độc nhất đưa tới Thiên Chúa: "Ngòai Giáo Hội không thể có sự cứu rỗi" (hors de l' Église, point de salut).
Hậu quả của quan niệm ấy là tính cách bất khoan dung (intolérance) của Giáo Hội Công Giáo: Giáo Hội đã được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ Giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. [Đây chỉ là quyền tự ban, vì bản chất Giáo Hội là một ngụy giáo hội] Tất cả những gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích chánh thức của Giáo Hội chỉ có thể sai lầm. [Trong quá khứ, không biết đã có bao nhiêu lần, Giáo Hội đã giải thích sai lầm] Mà Giáo Hội có quyền [quyền ở đâu ra] và có bổn phận tiêu diệt sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hòan thành sứ mạng cứu rỗi của mình [Quyền năng “Cứu rỗi” của Chúa Giê-su đã bị dẹp bỏ trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, vậy “sứ mạng cứu rỗi” của Giáo hội là cái gì?]. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng bạo lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "tà thần", đốt sách vở ngọai đạo và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo", nếu không chịu sửa sai. [Giáo Hội đã theo đúng luật của Thượng đế trong Cựu Ước]
Những hành động nói trên không phải bắt nguồn từ một khuynh hướng đế quốc mà từ cái ý thức rất chân thành và nghiêm chỉnh của Giáo Hội về sứ mạng cao cả của mình. [Đây chính là điều mà ông Nguyễn Văn Trung cho rằng Giáo Hội bị cái “chước cám dỗ làm điều thiện” (sic)]Thật là cảm động khi nhìn lại cái ý chí sắt đá mà Giáo Hội đã giữ được nguyên vẹn qua bao cuộc thăng trầm trong gần hai ngàn năm lịch sử, để thi hành mạng lịnh cuối cùng của Đức Kitô: "Các con hãy ra đi dạy dỗ các dân tộc". [Giáo sư Lý Chánh Trung không biết rằng câu này là Giê-su nói “sau khi chết”, và các dân tộc có cần đến một giáo hội như giáo hội Công giáo dạy dỗ không?] Điều đáng buồn là một số phương pháp mà Giáo Hội đã dùng đến để dạy dỗ các dân tộc có tính cách phản giáo khoa. [không phải là phản giáo khoa mà là phi đạo đức]
Sự bất khoan dung khiến cho, trong quá khứ, Giáo Hội không bao giờ chấp nhận tự do trong nội bộ của mình cũng như trong xã hội loài người nói chung. Trong nội bộ Giáo Hội, người Công Giáo không có quyền có ý kiến riêng mà luôn luôn phải theo lời dạy của giáo quyền. Có một ý kiến riêng là đã "lạc đạo" rồi như Giám-mục Bossuet viết: "Người lạc đạo" (hétérique) là người có một ý kiến theo nguyên nghĩa. Mà có một ý kiến là gì? Là một tư tưởng riêng, một tình cảm riêng. Nhưng người Kitô hữu là người Công Giáo nghĩa là con người phổ biến (universel), con người không có tình ý riêng tư mà luôn luôn phải tuân theo tình ý của Giáo Hội không một chút do dự.” [Nhưng nếu tình ý của Giáo hội tương phản với tình ý của dân tộc thì sao?] Trong xã hội loài người, Giáo Hội không bao giờ công nhận cho các tôn giáo khác hoặc cho những người không công giáo cái quyền ăn nói ngang hàng với mình, bởi các lý do giản dị là chỉ có Giáo Hội mới có sự thật mà chỉ có sự thật mới có quyền ăn nói. Người sai lầm thì chỉ có mỗi một quyền sửa sai. [Đây chẳng qua chỉ là một điều tự tôn của Giáo hội trong thời Trung Cổ. Ngày nay đã không còn bất cứ một giá trị nào.]
Trong thông điệp ngày 29-4-1814 gửi Đức Giám-mục địa phận Troyes, Đức Giáo Hoàng Pie VII viết “Người ta lẫn lộn sự thật với sự sai lầm, người ta đặt Hiền thê thánh thiện và tinh tuyền của Đức Kitô (tức Giáo Hội Công Giáo) [John Calvin đã gọi Giáo Hội Công Giáo là “con điếm điên dại” (fool harlot) thay vì là hiền thê của Chúa] ngang hàng với những giáo phái lạc đạo và ngay cả với bọn Do Thái bất tín”. Đức Giáo Hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là ”thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi...”.
Tóm lại, ít nữa là trước Công Đồng Vatican II, lý tưởng của Giáo Hội vẫn là thời vàng son Trung Cổ trong đó Giáo Hội có đủ thế lực để giành độc quyền dạy dỗ các dân tộc.
Tôi nghĩ rằng chính sự bất khoan dung nói trên (ngòai những lý do khác) đã khiến cho Giáo Hội va chạm nặng nề với các dân tộc Á Đông và đã không thành công mỹ mãn trong việc rao giảng tin mừng tại vùng này. Sau bốn thế kỷ giảng đạo với những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á Đông theo đạo thật là ít oi, ngoại trừ xứ Phi Luật Tân. Lý do căn bản của kết quả khiêm tốn ấy phải chăng là người Á Đông, khi theo đạo phải ly cách với cộng đồng dân tộc chính vì Giáo Hội đã xem các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm, tội lỗi, do đó gần như bắt buộc người Á Đông phải lựa chọn giữa dân tộc và Giáo Hội. Ngày nay hầu hết mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo, giết đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn.”
Lựa chọn giữa tôn giáo và dân tộc: trong lịch sử có lẽ chỉ có người Công Giáo là phải đương đầu với tình cảnh đau đớn như vậy!” [iii]
Qua bản văn sử trên đây, chúng ta thấy “Giáo Giáo Hội đã xem các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm và tội lỗi” và “Giáo Hội cho ràng Giáo Hội có quyền và có bổn phận tiêu diệt sự sai lầmbằng cách dùng bạo lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "tà thần", đốt sách vở ngọai đạo và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo", “để bảo vệ sự thật hầu hòan thành sứ mạng cứu rỗi của mình”.
Mà những dân tộc theo tôn giáo và văn hóa khác với đạo Da-tô phải sửa sai như thế nào thì mới theo đúng ý của Giáo Hội?
Phải chăng theo đúng ý của Giáo Hội La Mã là các dân tộc Á Đông phải từ bỏ nền văn hóa Khổng Mạnh tùy theo cương vị trong mối ngũ thường mà hành xử theo nguyên tắc “trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng để sống theo nền đạo lý phản nhân luân như lời dạy của ông Chúa Con Jesus trong Matthew (10: 34-37) và lời Giáo Hội dạy tín đồ rằng: “Cha con tố các nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội”?
Rõ ràng Giáo Hội không những chỉ ăn ngang nói ngược, gian manh, bịp bợm, ăn không nói có, mà còn có những thành tích về tội ác chống lại nhân lọai hết sức dã man và cực kỳ tàn ngược, khiến cho toàn thể nhân dân thế giới đều phải ghê tởm. Biết rõ điều này, cho nên, trong những năm gần cuối cuộc đời, mỗi lần thánh du đến một quốc gia nạn nhân nào của Giáo Hội, Giáo Hòang John Paul II cũng phải xin lỗi lia lịa. Tính ra từ năm 1992 cho đến năm 2000, ông giáo hòang này đã xin lỗi nhân dân các quốc gia nạn nhận của Giáo Hội đến cả trên dưới 100 lần. Có lẽ Giáo Hòang John Paul II cảm thấy, xin lỗi như vậy cũng chưa đủ để làm cho nguôi lòng căm giận hận thù của nhân dân thế giới. Cho nên, ông mới cho tổ chức một buổi lễ vô cùng trọng thể tại Quảng Trường Peter trong kinh thành Rome vào ngày 12/3/2000, để chính ông và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican đứng ra chính thức cáo thú tội ác với Chúa về những rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua của Giáo Hội.
Người Trung Hoa thường nói “giang sơn dị cải, bản chất nan di”. Cái bản chất xấc xược, ngược ngạo, ăn ngang nói ngược, quay quắt, lắt léo, lật lọng và lươn lẹo của Giáo Hội La Mã quả thật là “nan di”, hết thuốc chữa. Cái bản chất này đã ăn sâu vào trong huyết quản và tâm não của tất cả các vị chức sắc trong Giáo Hội từ giáo hoàng cho đến các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican xuống tới các hồng y, giám mục và linh mục cũng như bọn văn nô Da-tô tại khắp các địa phương. Cũng vì thế mà ngay trong buổi lễ cáo thú tội ác vào ngày 12/3/200, có hàng trăm triệu con mắt từ khắp mọi nơi trên thế giới theo dõi qua các đài truyền hình mà Giáo Hoàng John Paul II và các ông chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican cũng vẫn lươn lẹo bằng cách chỉ xin lỗi với Chúa mà không có một lời nào nói với các dân tộc nạn nhân để xin lỗi, nhận lỗi và nhận lãnh trách nhiệm bồi thường những thiệt hại cho họ về cả tinh thần lẫn thể chất và vật chất. Giáo Hội La Mã lưu manh và lượn lẹo là thế đó!
Nói về đặc tính lươn lẹo của Giáo Hội La Mã, học giả Da-tô Phan Đình Diệm, viết trong bản văn "Những Lời Bàn" về "Mea Culpa Bài 3" (Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm vào ngày Chủ Nhật 12/3/200) như sau:
LỜI TÁM: Trong 7 Chương tội mà Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh cáo thú, có nhiều tội danh phải kể là "vượt tội" mang cấp số cộng hay cấp số nhân. Ví dụ: Giáo Hội phạm tội A, muốn giấu kín và bưng bít tội A, Giáo Hội nhắm mắt phạm thêm tội B để bảo vệ tính bí nhiệm của tội A. Giáo Hội bị cuốn hút vào quy luật đổ giây chuyền của những con bài dominos, Giáo Hội phạm thêm tội C để bảo vệ các tội A và tội B... Thử tưởng tượng từ ngày Giám-mục Pierre Cauchon (đồng âm với con heo) thiêu sống Bà thánh Jeanne d' Arc, cho đến ngày Bà được phong thánh là hơn 400 năm, các tòa giảng của Giáo Hội trên khắp cõi Âu Châu phải ăn gian nói dối và vu oan giá họa cho Bà bao nhiêu lần? Giết Bà cũng một tay Giáo Hội, phong thánh cho Bà cũng một tay Giáo Hội, nhưng có mấy ai được may mắn như Bà. Hầu hết các trọng tội mà Giáo Hội phạm tại các "Tòa Điều Tra Dị Giáo" là tội đẻ ra tội theo cấp số cộng và cấp số nhân." [iv]
Đọan văn trên đây cho chúng ta thấy bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã hết sức trắng trợn, hết sức siêu việt và hết sức tinh vi. Nói cho rő hơn, bộ máy tuyên truyền này có biệt tài "đổi trắng thay đen, nói có thành không, nói không thành có, quay quắt, lắt léo, lươn lẹo, lật lọng và bịp bợm" hết sức trắng trợn. Hết sức siêu việt vì rằng khi hành xử như vậy mà Giáo Hội vẫn thản nhiên, không tỏ ra một chút gì thẹn thủng đối với lương tâm và đối với mọi người. Hết sức tinh vi ở chỗ tất cả những gì do bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội đưa ra đều được thi hành theo sách lược “Tăng Sâm giết người” (nhắc đi nhắc lại nhiều lần) và sách lược “cả vú lấp miệng em” (dùng tất cả các phương tiện truyền thông (từ rao truyền ở trong nhà thờ, báo chí, truyền đơn, cho đến truyền thành, truyền hình, rỉ tai) và nhiều khi còn sử dụng cả những thủ đoạn hăm doạ hay khủng bố những người nào dám vạch trần sự thật (về việc làm bỉ ổi của Giáo Hội) với thâm ý để cho họ (nạn nhân) hiểu rằng "theo ta thì sống, chống ta thì chết". Siêu vịệt ở chỗ mỗi khi đưa ra một luận điệu gian dối nào để lừa bịp thì cán bộ và tín đồ Da-tô đều răm rắp thi hành vô điều kiện như trên mà không cần biết hậu quả của nó sẽ làm cho người đời ghê tởm và phỉ nhổ cả Tòa Thánh Vatican mà họ một lòng tôn thờ vinh và cúc cung phụng sự.
Những kỹ thuật hay tài nghệ ăn không nói có và lươn lẹo trên đây của Giáo Hội La Mã đều được truyền dạy cho tất cả tín đồ Da-tô ngoan đạo của Giáo Hội. Cũng vì thế mà trong các cuốn sử do những tín đồ Da tô ngoan đạo người Việt biên soạn, chúng ta sẽ thấy KHÔNG CÓ một lời nào nói đến bàn tay tội ác của Giáo Hội La Mã ỏ Âu Châu trong suốt thời Trung Cổ từ ngày 20/5/325 cho đến giữa thế kỷ 19, KHÔNG CÓ một lời nào nói đến bàn tay tội ác của Giáo Hội ở các thuộc địa Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha từ cuối thế 15 cho đến giữa thế kỷ 20, tại các thuộc địa Pháp ở Châu Phi và Châu Á từ đầu thế kỷ 19 cho đến giữa thế kỷ 20, và riêng ở Việt Nam trong suốt thời kỳ từ năm 1553 cho đến ngày 30/4/1975.
Vì bản chất và vì chịu ảnh hưởng sâu nặng những lời dạy mất dạy trong Cựụ Ước cũng như những lời dạy phản nhân luân trong Tân Ước và những lời dạy lưu manh của Giáo Hội cùng với những thủ đoạn lươn lẹo bóp méo sự thật như trên, cho nên trong Giáo Hội La Mã từ những vị chức sắc cao cấp nhất là giáo hoàng cho đến các hống y, giám-mục trong giáo triều Vatican và các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục cũng như các sư huynh tại các giáo khu, giáo phận, họ đạo (xóm hay làng đạo) hay trong các dòng tu đều sống và hành xử theo đúng như những lời dạy mất dạy của Chúa Cha Jehovah, Chúa Con Jesus và Giáo Hội La Mã.

B.- GIÁO HOÀNG VÀ TU SĨ SỐNG ĐỜI PHÓNG ĐÃNG LOẠN LUÂN DÂM LOÀN
Giáo Hoàng cũng như giới tu sic các cấp trong Giáo Hội từ các hồng y, giám mục cai quản giáo phận và các linh mục quản nhiệm các họ đạo đều có quá nhìều quyền hành, nhiều đến nỗi Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) đã phán rằng “Không ai có quyền phán xét Giáo Hoàng (The Pope can be judged no one)” và “Giáo Hoàng có quyền truất phế các vua chúa nằm dưới quyền thống trị của Giáo Hội (The Pope alone has the right to depose emperors and kings)”[v]. Và quyền hành của các hồng y, tổng giám mục và linh mục cai quản các giáo phận và các họ đạo tại các quốc gia cũng rất lớn và rất nhiều, lớn và nhiều đến nỗi nhân dân dưới quyền thường gọi họ là “các nhà độc tài áo đen” hay “bọn lãnh chúa áo đen” và người Pháp gọi là “bọn quạ đen”.
Quyền hành sinh tội ác và sinh hủ hóa. Quyền hành càng lớn và càng nhiều thì tội ác càng nặng, càng chồng chất và tình trạng hủ hóa càng trầm trọng. Đây là quy luật lịch sử và xã hội. Trong Giáo Hội La Mã, các giáo hoàng và giới tu sĩ cũng khống thoát ra khỏi quy luật lịch sử này. Có ở trong chăn mới biết chăn có rân. Không ai biết rõ tội ác và tình trạng hủ hóa của các giáo hoàng và giới tu sĩ Da-tô bằng chính các tu sĩ và giáo dân của Giáo Hội. Vì thế Giáo Hội mới tìm cách che giấu, bưng bít tội ác và tình trạng hủ hóa trong Giáo Hội bưng bít bằng cách dạy dỗ giáo dân rằng:
Vâng lời quý hơn của lễ”.
“Phải tuyệt đối trung thành với Giáo Hội”.
“Phải triệt để tuân hành những lời dạy hay lệnh truyền của các đáng bề trên”.
“Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết”.
“Cha (linh mục) là đại diện của Chúa”. “Phải coi Cha như Chúa”. Những gì Cha nói và hành động là nói và hành động theo ý Chúa, hay nói theo ý Chúa và hành động theo ý Chúa”.
“Nếu các Cha có làm gì sai trai, thi đã có Chúa phán xét”, là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán và nói hành nói tỏi các Cha.
“Bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu các Cha, tức là bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu Chúa và sẽ Chúâ trừng phạt đàng xuống gỏa ngục đời đời”.
Những lời dạy trên đây đều ẩn chứa đụng những thủ đoạn bịp bơm vừa răn đe, vừa hù doạ để khủng bố tinh thần khiến cho giáo dân ngoan đạo (cuồng tín) dù có chứng kiện tận măt những hành động tội ác của các Cha, thì cũng phải nín thin thít để cho các Cha tiếp tục hành xử vì rằng các Cha hành xử theo Ý Chúa.
Như vậy là nhờ những lời dạy trên đây của Giáo Hội, các ngài có thể tha hồ hủ hóa, tha hồ sống đời dâm ô, và tha hồ lao vào hố sâu tội ác mà không sợ tín đồ nạn nhân làm rùm beng. Dưới đây là một chuyện có thật 100% trong khu rừng tội ác của các ngài được các học giả Âu Mỹ sưu tầm và được học giả Da-tô Charlie Nguyễn ghi lại như sau:
“Đối với những thiếu niên của những gia đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo luôn luôn được chúng coi là những người thánh thiện (holy men) và có uy tín hơn cả cha mẹ của chúng. Khi bị các tu sĩ lạm dụng tình dục, chúng không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la mắng hay trừng phạt. Năm 1992, một số nhà tâm lý học đã phỏng vấn 15 em nhỏ ở Lafayeete, Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục. Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh mục hăm dọa: "Nếu tố cáo sẽ bị Chúa đầy xuống hỏa ngục" hoặc "mày phải câm miệng, nếu không, quỷ sẽ bắt mày!" Mấy bé gái bị linh mục sờ mó đã khai: "Cha nói Chúa đã chọn con để giúp cha biết cái đó thế nào!"
Trong chương này có một chuyện đáng chú ý. Đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo phận Joliet, Illinois. Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý để rước lễ lần đầu thì cô đã bị cha xứ là Ed Staphanie dụ dỗ hôn hít sờ mó. Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ dâm cho ông ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với cô. Lúc này cô tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha khẳng định giao cấu với cha không có tội vì đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine không thể chịu đựng được nữa nên nói với cha mẹ ý định tố cáo nội vụ trước cảnh sát. Linh-mục Ed Stephanie thấy nguy nên trình sự việc với Tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục này cho người đến trao cho gia đình Cristine số tiền 450 ngàn đô-la để mua sự im lặng.”[vi]
Người Việt Nam ta có câu nói:“cái kim buộc trong giẻ, lâu ngày cũng lòi ra”. Cho nên, dù là Giáo Hội đã dạy dỗ tín đồ “có bổn phận phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoài biết.”[vii], nhưng cuối cùng, bằng mọi cách trong các phương pháp điều nghiên, các nhà viết sử đã tìm ra và biết được những gì mà Giáo Hội dạy dỗ tín đồ của Giáo Hội cần phải giấu kín rồi ghi vào trong sách sử lưu lại cho người đời biết rõ những sự thật này. Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta mới biết được những rặng núi tội ác của Giáo Hội cao chất ngất và trùng trùng những hàng chục rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Câu chuyện trên đây về em bé gái Cristine Clark thuộc giáo phận Joillet, Illinois bị Cha Ed. Staphanie dụ dỗ là tan nát cả đời hoa và những gì được trình bày dưới đây chỉ là một vài hạt cát trong những rặng núi tội ác này của Giáo Hội. Sách Babylon Mystery Religion dành hẳn Chương 12 với tựa đề là Papal Immorality trong đó tác giả kể ra những màn kịch của hơn 20 giáo hoàng ("Đức Thánh Cha") đại diện Chúa Kitô "ăn no rửng mỡ", rồi "ấm cật dậm dật phao câu", rồi thanh toán lẫn nhau bằng những thủ đoạn vô cùng kinh khủng mà tác giả cuốn sách này cho là "kinh khủng độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người" (sheer horror has never been duplicated in the annals of human history). Xin mời quý vị theo dõi những sự kiện này qua các tài liệu và sách sử với những đoạn văn nguyên bản như sau:
"Thêm vào những bằng chứng hiển nhiên cho chúng ta thấy rằng nhân cách và đức độ của rất nhiều ông giáo hoàng không xứng đáng đựợc gọi là giáo hoàng. Một số các ông giáo hoàng có những hành động hủ hóa, sa đọa, đê tiện và bỉ ổi đến nỗi ngay cả những người ngoại đạo cũng cảm thấy xấu hổ cho các Ngài. Các ông giáo hoàng thường hay phạm những tội ác như ngoại tình, làm tình một cách bất bình thường với đàn ông, bán thánh, hiếp dâm, giết người và say sưa tuý lúy. Những người thường cao rao là "Đức Thánh Cha", là "Đại Diện của Chúa Kitô", là "Giám Mục của các ông giám-mục" mà lại mang đầy những tội ác như vậy, nghe ra thật là rùng mình! Những ai đã thấu hiểu lịch sử của chế độ giáo hoàng và Giáo Hội La Mã đều biết rõ hơn ai hết, rằng không phải tất cả các ông giáo hoàng đều thánh thiện cả." Nguyên văn: “In addition to the conclusive evidence that has been given, the very character and morals of many of the popes would tend to identify them as successors of pegan priests, rather than representatives of Christ or Peter. Some of the popes were so depraved and base in their actions, even people who professed no religion at all were ashamed of them. Such sins as adultuery, sodomy, simony, rape, murder. and drunkeness are among the sins that have committed by popes. To link such sins with men who have claimed to be the "Holy Father", "The Vicar of Christ", and “Bishop of bishops", may sound shocking, but those acquainted with the history of the papacy well know that not all popes were holy men." [viii] .
Sách Gia Tô Thực Dân Sử Liệu (The Documented History of Catholic Colonialism) viết:
"Giáo Hoàng Felix III (483-492) trong thời gian là giáo hoàng có tới 3 người con (3 người con này đều chết cả…)" "Giáo Hoàng Hormidas (514-523) đã kết hôn với bà Marouzia và có một nguời con trai với bà này…" "Giáo Hoàng Adrian II (867-872) sống chung với vợ và con gái ở điện Lateran." "Giáo Hoàng Sergius III (904-911) vốn là một giám-mục có người vợ, tên là Mazouzia và đã có một người con trai với bà này. Tới năm 904, khi lên ngôi Giáo Hoàng, ông ta mới lấy hiệu là Sergius III. Nhờ sẵn có thế lực của cha mẹ, mấy chục năm sau, người con trai này trở thành Giáo Hoàng John XI (931-936)". "Giáo Hoàng John XII (955-963) đã từng loạn luân với em gái và bị chết vào ngày 14-5-964 khi đang … với một cô nhân tình..." "Giáo Hoàng Leo VIII (963-964) chết đột ngột vì bị máu xâm trong lúc đang phạm tội thông dâm.", "Giáo Hoàng Benedict IX (1033-1044) lên ngôi lúc 12 tuổi, đã từng giết người, thông dâm ngay giữa ban ngày, cướp bóc tiền bạc của những người hành hương mộ thánh tử đạo… bị dân La Mã tống xuất khỏi La Mã…", "Giáo Hoàng Pius II (1458-1464) có hai người con hoang, từng công khai nói chuyện về các phương pháp dụ dỗ đàn bà." "Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) loạn luân với bà chị ruột và có một người con trai với bà này..." "Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) có tới bẩy hay tám người con trai với nhiều bà khác nhau. Nhiều vợ và nhiều con quá, ông phải tìm cách tăng thêm 26 chức vụ thư ký trong giáo triều để bán với giá mỗi chức là 62,400 đồng duca." "Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) tên thật là Borgia, một con quỷ đã công khai loạn luân với hai người em gái và loạn luân luôn với cả con gái ruột tên là Lucretia (that monster who lived in public incest with his two sisters and his own daughter from whom he got a child). Đặc biệt hơn nữa, ngày 31-10-1501, ông cho tổ chức một bữa tiệc cực kỳ dâm loạn ở ngay trong điện Vatican với 50 cô gái trẻ đẹp khiêu vũ khỏa thân để mua vui cho thực khách.." [ix] .
Những bản văn trích dẫn trên đây cho chúng ta thấy rõ những tác phong và những việc làm thương luân bại lý, bất nhân, phi luân, bạo ngược và đại nghịch bất đạo của các ông mang chức thánh trong Giáo Hội La Mã phát xuất ngay từ những nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội, rồi các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican cũng như trong các giáo khu, giáo phận và họ đạo tại các địa phương ở khắp nơi trên thế giới cứ theo gương đó mà hành xử theo quy luật hình chóp nón hay kim tự thấp, nghĩa là càng xuống cấp thấp, các cán bộ thừa hành càng tự do tung tác, càng tha hồ ăn no rửng mỡ và càng phóng tay hà hiếp người dân thấp cỏ bé miệng. Kể từ đó cho đến ngày nay, những hành động kinh tởm "trời không dung đất không tha" này không những đã không bị Giáo Hội lên án, mà trái lại, chính những người lãnh đạo cao cấp nhất trong Giáo Hội còn chủ trương hành động như thế. Vì vậy mà trong gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội mới luôn luôn bao che, tán dương và khích lệ bọn cán bộ chân tay của Giáo Hôi hăng say lao đầu vào hố sâu tội ác bằng cách phong thánh và vinh danh những tên tội đồ khốn kiếp lên hàng "Đức Thánh Cha" "thánh con", "thánh lớn" và "thánh nhỏ" để cho giáo dân noi theo mà "sống đạo theo đức tin Kitô". Theo các bản sử trên đây và nhiều tài liệu sử khác, chúng ta thấy một số những bộ mặt thật vô cùng ghê tởm của khá nhiều các Đức Thánh Cha trong Giáo Hội La Mã:
1.- Giáo Hoàng John XII (955-963) đã từng loạn luân với em gái và bị chết vào ngày 14-5-964 khi đang làm tình với một cô nhân tình. (Một con quỷ dâm dục và loạn luân.)
John XII lên ngôi Giáo Hoàng khi mới 18 tuổi, được mô tả như một kẻ vô đạo thất học… “ông đã từng loạn luân với em gái ông” [He commited incest with his sister.” [x]
Sách Catholic Encycopedia đã miêu tả Giáo Hoàng John XII như là:
Một người đàn ông, lỗ mãng, vô đạo đức, sống trong tòa lâu đài Lateran được dư luận xem như “nhà thổ”. Ông là bại liệt vi hành động thông dâm.” Nguyên văn: “A coarse, immoral man whose life was such that the Lateran was spoken of as a brothel.” He was stricken paralysis in the act of adultery.” [xi]
2.- Giáo Hoàng Leo VIII (963-964) chết đột ngột vì bị máu xâm trong lúc đang phạm tội thông dâm. (Thông dâm với ai, nếu không phải là thông dâm với nữ tín đồ ngoan đạo siêng năng đi nhà thờ?)
3.- Giáo Hoàng Benedict IX (1033-1044) lên ngôi lúc 12 tuổi, đã từng giết người, thông dâm với nữ tín đồ ngay giữa ban ngày, cướp bóc tiền bạc của những người hành hương mộ thánh tử đạo bị dân La Mã tống xuất khỏi La Mã. (Một con quỷ dâm dục.)
4.- Giáo Hoàng Pius II (1458-1464) có hai người con hoang, từng công khai nói chuyện về các phương pháp dụ dỗ đàn bà. (Vừa là ma cô vừa là quỷ dâm dục.)
5.- Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) sống chung và làm tình với người em gái ruột sinh ra một người con tên là Pietro Riario. (Một thằng ma cô và loạn luân).
6.- Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) tên thật là Borgia, một con quỷ đã công khai loạn luân với hai người em gái và loạn luân luôn với cả con gái ruột tên là Lucretia (that monster who lived in public incest with his two sisters and his own daughter from whom he got a child). Đặc biệt hơn nữa, ngày 31/10/1501, ông cho tổ chức một bữa tiệc cực kỳ dâm loạn ở ngay trong điện Vatican với 50 cô gái trẻ đẹp khiêu vũ khỏa thân để mua vui cho thực khách. (Một thằng bạo chúa vừa loạn luân vừa dâm loàn.)
7.- Môt ông linh mục đường đường mang chức thánh lại làm tình với mẹ ruột của ông ta. Sự kiện này được sách Vicars of Christ viết nơi trang 406:
"Năm 1064, một giáo sĩ xứ Orange ở Pháp đã thông dâm với người vợ thứ hai của thân phụ ông ta. Giáo Hoàng Alexander (1061-1073), không những đã không bãi chức của ông giáo sĩ này, mà vẫn còn để cho ông ta tiếp tục rước lễ. Ngài cho rằng ông giáo sĩ này đã không phạm tội có gia đình chính thức. Hai năm sau, một giáo sĩ ở Padua thú nhận là đã loạn luân với người mẹ ruột. Giáo Hoàng (Alexander) đã đối xử rất tử tế với ông giáo sĩ này và để mặc cho ông giám mục quản nhiệm địa phương tùy ý quyết định nên hay không nên để cho ông ta tiếp tục phụng vụ. Đối với Giáo Hoàng Alexander II (1061-1073), thông dâm hay loạn luân vẫn còn thích hơn là có một giáo sĩ chính thức có gia đình." Nguyên văn:"A priest of Orange in France committed aldultery with his father's second wife in the year 1064, Pope Alexander (1061-1073), instead of dismissing him, refused even to deprive him of holy communion. Liniency was called for because he had not committed matrimony. Two years later, a priest from Padua confessed to incest with his mother. The pope deal very kindly to him and left it to his bishop to decide whether he should continue in the ministry or not. For Pope Alexander II (1061-1073)], adultery even incest was preferable to a priest marrying.") [xii].
Không biết cuộc làm tình loạn luân này có làm cho bà mẹ của ông ta mang bầu hay không. Nếu có, bà ta sẽ sinh ra một đứa nhỏ. Đứa nhỏ này ở vào trường hợp giống y hệt như trường hợp Chúa Bố Jehovah, Chúa con Jesus và Chúa Mẹ Maria.
8.- Bản văn trên cũng cho chúng ta thấy một ông linh mục khác cũng đường đường mang chức thánh mà làm tình loạn luân với người vợ thứ hai của bố. Lại một vấn đề được nêu lên giống như ở trên. Nếu bà mẹ ghẻ của ông linh mục này mang bầu và sinh ra một đưa nhỏ, thì đứa nhỏ này cũng ở vào trương hợp của Chúa Bố Jehovah, Chúa Con Jesus và Chúa Mẹ Maria.
9.- Tu sĩ Da-tô được quyền "an ủi" những bà vợ có chồng xa nhà:.
"Ở Avignon, Giáo Hoàng John XXII tham lam cho phép các tu sĩ được giữ tình nhân với điều kiện phải đóng thuế. Ngay cả các ông tu sĩ trong trắng (không có tình nhân - NMQ) cũng phải đóng thuế trong trường hợp họ ngả vào trong vòng tay của một người đàn bà." ["In Avignon, the avaracious John XXII allowed priests to keep their mistresses on payment of a tax. Even the few chaste priests had to pay up just in case they, too, fell into the arms of a woman." [xiii]
10.– Trong xã hội Da-tô (xin hiểu là trong các xóm đạo, làng đạo), "cứ 2 trong 5 (40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ." (two out of five bastards were born to the clergy):
Một bản thống kê cho biết: một xứ có 900 ngàn dân mà có tới 3 ngàn tu sĩ; và cứ 2 trong 5 (40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ." ("One amazing statistic emerges: in a country of 900,000 people, there were 3,000 clergy; and yet two out of five bastards were born to the clergy.") [xiv] :
Không biết tại sao sử gia Peter de Rosa lại gọi những đứa trẻ này là "con hoang" (bastards). Thiết nghĩ rằng phải nên gọi chúng nó là "những đứa con của các ngài mang chức thánh" hay là "những ông thánh con" của Giáo Hội La Mã. Nói theo ngôn từ của Bà Hồ Xuân Hương, thì "ông thánh con" này chính là thành quả của những đàn cá "thồng rồng" của các ngài "mang chức thánh" mang đến thả vào "những cái giếng thánh tân" của nữ tín đồ Da-tô.
Có tới 40% những đứa con hoang ở trong các cộng đồng Da-tô. Những đứa con rơi này thực ra llà những đứa con rơi (con hoang) do các ông giáo hoàng thông dâm với nữ tín đồ (như đã nói ở trên) và những đứa con rơi của các hồng y, giám mục và linh mục làm tình với các nữ tín đồ trong họ đạo và với bà nữ tu ở trong các nữ tu viện (như đã nói ở trên), nếu những đừa này may mắn, không bị các ngài hay các bà giết chết ngay từ lúc mới chào đời.
Dĩ nhiên là người đời hay nhân dân thế giới chỉ có thể biết được những hành động bạo ngược, độc ác, dã man, loạn luân, phi luân của các ngài khi mà những hành động đó đã được ghi lại trong sách sử hay phơi bày ra trước công luận. Còn những gì bị bưng bít, bị giấu nhẹm, thì chúng ta không thể nào biết được. Căn cứ vào việc Giáo Hội luôn luôn dạy dỗ và nhắc nhở con chiên (tín đồ) của Giáo Hội phải giấu kín những việc làm tội lỗi trong Giáo Hội như nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn kể rõ cho chúng ta biết trong tác phẩm Xóm Đạo nơi trang 320, chúng ta có thể suy ra rằng còn rất nhiều những chuyện kinh thiên động địa hay đại nghịch bất đạo khác của các nhà lãnh đạo và toàn thể mọi người trong giới tu sĩ trong Giáo Hội La Mã vẫn còn nằm ở đằng sau tấm màn bí mật.
Ông Chúa Con Jesus được Chúa Bố Jehovah phái xuống trần gian chịu chết để chuộc tội tổ tông cho loài người và được Giáo Hội gọi là Chúa Cứu Thế (Christ). Vì vậy mà ông Jesus trở thành đối tượng thờ phượng của Giáo Hội và tín đồ Da-tô. Giáo Hội thường cao rao tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là “đại diện duy nhất của Chúa Bố Jehovah và Chúa Con Jesus ở trên cõi trần gian này” và “ngoài Giáo Hội sẽ không có cứu rỗi”. Chức năng của ông Chúa Con Jesus và của Giáo Hội quan trọng như vậy. Cho nên, vì đã thờ phương Chúa Jesus Ki-tô, phải sống theo đức tin Ki-tô, và vì phải tuyệt đối vâng lời và trung thành với Giáo Hội, tu sĩ các cấp từ giáo hoàng cho đến các hồng y, giám mục, linh mục, sư huynh và tín đồ cũng đều phải triệt để vâng lời và sống đùng theo những lời dạy của ông Chúa Con Jesus trong Matthew (10: 34-37) và lời Giáo Hội dạytín đồ rằng: “Cha con phải tố các nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội.”.
Cũng vì thế mà các ông giáo hoàng và tu sĩ trong Giáo Hội đã có những hành động phản nhân luân, sống đời đĩ điếm, loạn luân, dã man như đã trình bày ở trên, và tất cả những tín đồ Da-tô cuồng tín người Việt đã mất hết những đức tính cao đẹp “trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và dũng” của nền văn hóa Á Đông, và trở thành những quân vong bản, phản dân tộc và phản quốc mà chính những hành động của họ trong lịch sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay đã nói lên sự thực này.
Trên đây là nói về các giáo hoàng, các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatícan và các tu sĩ Da-tô Âu Châu. Về những tội ác loạn dâm sờ mó trẻ em và thông dâm với nữ tín đồ Da-tô của các ông tu sĩ Da-tô Hoa Kỳ, thiết tưởng tin tức loan truyền qua các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v.. ở Bắc Mỹ từ mùa xuân năm 2002 cho đến nay và khởi đầu từ giáo phận Boston thuộc tiểu bang Massachusetts cho đến các Giáo Phận Spokane, Seattle, Oregon, Los Angeles, Covington, Ky, Philadelphia, Sacramento, Oakland, Orange, Louisville v.v…, cũng đã quá đầy đủ rồi.
Ấy là chưa kể các nữ tín đồ đã có chồng con vẫn có thể được các ngài chiếu cố. Đây là những trường hợp thông dâm như đã nói ở trên. Giáo hoàng là những người rất ít có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với nữ tín đồ mà vẫn có thể thông dâm với họ, huống hồ là các giám mục, đặc biệt là các linh mục, những người hàng ngày thường giao thiệp trực tiếp với nữ tín đồ, thì tất nhiên là rất dễ dàng có nhiều cơ hội thông dâm với họ. Không biết khi mà hàng ngày các báo chí, các đài truyền hình và truyền thanh dồn dập loan truyền tin tức về những chuyện các ngài tu sĩ Da-tô sờ mó các trẻ em rước lễ và thông dâm với các nữ tín đồ ngoan đạo cùng với những tin tức về các giáo khu phải bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân bị các ngài làm tình vô tội vạ như vậy, các nam tín đồ Da-tô có cảm thấy choáng váng hay không? Về phần các nữ tín đồ “nạn nhân” của ngài mang chức thánh thì rõ ràng là:
Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai?
Và còn hàng rừng chuyện động trời khác nữa! Nói làm sao hết đước!
Đây tình trạng chung ở trong các cộng đồng Da-tô. Tín đồ Da-tô càng ngoan đạo thì càng dễ dàng cho các ngài mang chức thánh sờ mó, làm tình với các trẻ em vị thành niên, đặc biệt là các trẻ em rước lễ, và càng dễ dàng thông dâm với nữ tín đồ. Tín đồ Da- tô người Việt được xếp vào loại “siêu ngoan đạo” (siêu cuồng tín) giống như tín đồ Da-tô người Tây Ban Nha trong thời Trung Cổ. Do đó, tình trạng này càng trầm trọng hơn cả. Trước tháng 4/1975, khi còn ở Việt Nam, nhờ dựa vào chính quyền Bảo Hộ Liên Pháp – Vatican 1862-1945 và nhờ dựa vào các chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu, tát cả các giám mục và linh mục Việt Nam đều là các ông lãnh chúa quyền lực bao trùm lên trên các nhà cầm quyền thế tục tại các địa phương. Nhờ vậy, các ngài mới có quyền lực cưỡng bách giáo dân “có bổn phận phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoài biết”. Vì thế mà những hành động tội ác về vấn đề này của các ngài không bị phơi bày ra trước ánh sáng công luận và công lý.
Tất cả những gì trình bày trên đây đều là truyền thống và cũng là nếp sống văn hóa trong đạo Ki-tô La Mã, giống như nếp sống văn hóa nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong nền đạo lý Khổng Mạnh ở Đông Phương. NẾU những truyền thống hay nếp sống văn hóa nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong nền đạo lý Khổng Mạnh đã trở thành bản chất của người dân Đông Phương rồi tự động thể hiện ra thành những thái độ, ngôn ngữ, cử chỉ và hành động trong cung cách hành xử đối với mọi người xung quanh một cách rất tự nhiên, THÌ những truyền thống hay nếp sống văn hóa bịp bợm, bạo ngược, cả vú lấp miệng em, ăn không nói có, loạn luân, loạn dâm, đĩ điếm, mở nhà thổ, biến Nhà Chúa thành “nhà chứa”, biến nhà “Nhà Thờ” thành ‘nhà thổ” để lấy tiền tiêu sài, biến các nữ tu viện thành “ổ điếm” để cho “các ngài mang chức thánh” đến đó để “mua vui” trong đạo Ki-tô La Mã cũng trở thành bản chất của Giáo Hội và của tín đồ Da-tô rồi cũng tự động thể hiện ra thành ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ và hành động trong cung cách hành xử của họ đối với mọi người xúng quanh một cách rất tự nhiên.
Giang sơn dị cải, bản chất nan di. Bản chất của người dân Đông Phương là sống theo quy tắc đạo lý nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Dù có trải qua trăm năm nô lệ giặc Tây, cái bản chất này cũng không bao giờ biến mất. Tương tự như vậy, những bản chất ghê tởm trên đây trong xã hội Da-tô La Mã cũng sẽ không bao giờ biến mất, nó sẽ mãi mãi sống ở trong lòng người tín hữu Da-tô ngoan đạo (cuồng tín) và sẽ bùng ra khi nào có cơ hội thuận tiện, trừ phi “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” hay “cái tôn giáo ác ôn này” này bị giải thể không còn nữa.
Ngày nay, ở trong nước, thời thế đã thay đổi, các chế độ đạo phiệt Da-tô ở miền Nam Việt Nam đã bị hủy diệt, quyền lực của Giáo Hội không còn nữa, và tại hải ngoại, hầu hết người dân Việt đều sống ở các nước tự do dân chủ mà quyền tự do tôn giáo được bảo đảm bằng điều khoản “tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền” được ghi vào trong hiến pháp. Thực trạng này đã làm cho các hồng y, giám mục và linh mục chỉ có giá trị trong giờ làm lễ khi họ đứng trước bàn thờ mà thôi. Đồng thời, thực trạng này cũng làm cho các ông tu sĩ Da-tô mất hết khả năng quyền lực để cưỡng bách tín đồ “có bổn phận phải giấu kín những chuyện tội lỗi” của các ngài, của Giáo Hội La Mã và của Tòa Thánh Vatican. Cũng vì thế mà những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua và những chuyện động trời về đời sống bê bối thối tha của các ngài như đã trình bày ở trên mới được phơi bầy ra trước công luận và công lý.
Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Không ai biết rõ những việc làm tội ác và đời sống bê bối thối tha của các giáo hoàng và của các tu sĩ các cấp trong đạo Da-tô bằng chính các ông tu sĩ và các ông trí thức trong đạo Da-tô. Sự thực là tất cả những chuyện động trời mà chúng tôi kể lại ở trên cũng như ở trong bộ sách LỊch Sử và Tội Á của Giáo Hội La Mã và ở trong các ấn phẩm khác đều do chính các nhà trí thức cũng như các ông tu sĩ và tín đồ Da-tô nạn nhân của các ngài khui ra công bố cho thiên hạ biết, chứ không phải là những người thuộc các tôn giáo khác. Riêng về những chuyện động trời của các ngài tu sĩ Da-tô Việt Nam ở hải ngoại cũng do các tín đồ và tu sĩ Da-tô trong cộng đồng Da-tô người Việt ở hải ngoại phơi bày hay công bố cho thiên hạ biết, chứ không phải là những người Việt thuộc các tôn giáo khác. Một trong những nhà trí thức Da-tô này là Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn (địa chỉ giao dịch với tòa soạn của tờ báo này là P.O. Box 8394, Fountain Valley, CA 92728 USA). Ông lính mục này viết trong tờ Tận Thế Số Ra Mắt nơi trang 27 (15/6/2002) như sau:
"Những ai đã biết, đọc và nghe về những ác quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che, ủng hộ, ca tụng và đi xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc trừng phạt: …. Và rồi Lucifer sẽ lôi xuống thẳng hỏa ngục để chung sống với những linh mục tội lỗi, dâm bôn, và phạm thánh mà các đương sự mù quáng gọi là “CHA”. ...
A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN (Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức Mầu, Châu Xuân Báu, Vũ Minh Nghiễm, Đinh Ngọc Quế, Nguyễn Văn Phan, Phạm Quốc Hưng, Nguyễn Tất Hải, Đinh Minh Hải, Phan Phát Huồn, Nguyễn Trường Luân, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Đức Thành, Bùi Quang Tuấn, và Nguyễn Văn Mới.
B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles: Trần Công Nghị, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v...
C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange County: Nguyễn Đức Tiến, Mai Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tuyên, Phạm Ngọc Tuấn, Chu Vinh Quang, Nguyễn Văn Luân, Đỗ Thanh Hà, Vũ Tuấn Tú, Ngô Văn Trọng, Mai Thành Hân, Xuân Nguyên Hồ, Trần Văn Kiểm, Đinh Viết Thục, Bùi Công Minh, Nguyễn Trọng Tước, tức Nguyễn Tầm Thường, v.v...
D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: Đinh Đức Đạo (Đức Ông giám đốc văn phòng thờ quỷ Rôma), Phan Tấn Thành (giáo sư thờ quỉ, Rôma), Cao Minh Dung (Đức Ông, nhân viên Bộ Ngọai Giao tòa... quỷ!), Nguyễn Văn Phương (Chủ Tịch Liên Đoàn thờ Qủy, Riverale, Georgia) Lê Xuân Thượng (Đức Ông thờ quỷ cái Trần Thị Liễu, (Houston, Texas), Đào Quang Chính (Houston, Texas), Nguyễn Ngọc Tư (Houston, Texas), Nguyễn An Ninh (Eastpointe, MI), Hoàng Xuân Nghiêm (Tổng Thủ Quỹ Liên Đoàn Thờ Quỷ, (Wyoming, MI), Phạm Văn Tuệ, Trần Cao Tường, Vũ Hân (Marrero, LA), Việt Châu (Chủ Nhiệm Nguyệt San Thờ Quỷ, Gretna, LA), Nguyễn Đức Huyên (Giám Đốc đền thơ Quỷ), Nguyễn Văn Dậu (giáo sư thờ Quỷ, Metairie, LA) Phạm Quốc Hùng (Wichita, KS), Phan Đình Cho (Gíao-sư đại học thờ quỷ, Washington DC), Nguyễn Thanh Long (Silver Sprin, MD), Trần Quí Thiện (Arlington, VA), Nguyễn Huy Quyền (Glen Ellyn, IL), Trịnh Thế Hùng (Chicago, IL), Đỗ Quang Biên (hưu trí thờ quỉ cái: Mầu, San Diego, CA)... (Còn tiếp với vô vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng Công ở Carthage, MO, đã lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24 Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua, và Đại Hội thứ 25 sắp tới. Chính Đức Mẹ sẽ đánh tan đại hội bịp này.)" [xv]
Trong tờ Tận Thế Số 2 – 15 Tháng Bảy 2002, nơi trang 31, Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn viết:
"Thật không ngờ một linh mục bệnh hoạn có thể trở thành một con người viết những điều mạnh mẽ như vậy, đó là chửi thẳng vào mặt ác quỷ Nguyễn Đức Mầu, kẻ dơ bẩn đã ăn nằm với không dưới 100 đàn bà mất nết từ Việt Nam sang tới Hoa Kỳ (đọc Thư LM Nguyễn Thanh Sơn gửi Cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế ở Roma, trong "Quyền Năng Đức Mẹ Diệt Trừ Satan III") và ác quỷ Trần Công Nghị, kẻ dâm thú cũng đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư đốn trên 35 năm qua, từ Việt Nam sang Roma, tới Hoa Kỳ, trong số đó có hai (2) ma nữ lõa lồ: CAO THỊ MỸ LỆ (từ năm 1975 tại Portland, Oregon), con gái Cao Đăng Tường, cháu "yêu dấu" của Cao Đăng Minh, Dòng Chúa Cứu Thế (tên này cũng đã có con trai khôn lớn), và hiện nay đang ăn nằm với "con điếm nhớp nhúa nhất thủ đô tỵ nạn)" là DIAMOND BÍCH NGỌC. Đôi song ca đã và đang hát rất mùi với nhau, trong chương trình lứa đôi Thiên Chúa và Đức Mẹ mang nhãn hiệu rỗng tuếch: "Sống Tin Giữa Dòng Đời", trên đài Little Sàigon Radio." [xvi]
Căn cứ vào bản văn trích từ tờ Tận Thế Số 2 ở trên, cô Cao Thị Mỹ Lệ (con Cao Đăng Tường, cháu ruột yêu dấu của Linh-mục Cao Đăng Minh) và cô Diamond Bích Ngọc là hai nữ tín đồ được hai ngài Linh-mục Cao Đăng Minh và Trần Công Nghị tận tình chiếu cố. Theo tín tức được phổ biến rộng rãi trong các nhóm điện thư trong mấy năm vừa qua, thì nữ tín đồ Diamond Bích Ngọc là người đã ăn ở với Linh-mục Trần Công Nghị giống như vợ chồng trong nhiều năm, rồi cơm không lành canh không ngọt đã đưa nhau ra chốn pháp đình để phân xử.
Còn nữ tín đồ Cao Thị Mỹ Lệ là người tình của Cha Trân Công Nghị hay của Cha Cao Đăng Minh? Vấn đề này xin để cho quý vị trong cộng đố Da-tô Oregon, Portland lên tiếng thì mới rõ thực hư như thế nào!
Nếu cô Cao Thị Mỹ Lệ là người tình “chung chăn chúng gối chung gương giang hồ” của Cha Trần Công Nghị, thì chẳng hóa ra Cha Trần Công Nghị tham lam quá, có tới hai bà trong cùng một thời gian?
Nếu cô Mỹ Lệ là người tình đồng sàng đồng mộng của Cha Cao Đăng Minh thì chẳng hóa ra chú cháu nhà nó tò tí mùi mẫn với nhau theo truyền thống loạn luân, giống như các Giáo Hoàng John XII (955-963), Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484), Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503), một giáo sĩ ở Padua thú nhận là đã loạn luân với người mẹ ruột, như đã trình bày ở trên.

C.- NHÀ THỜ HAY NHÀ THỔ? NHÀ CHÚA HAY NHÀ CHỨA?
Bộ mặt thật của các Đức Thánh Cha cũng như giứo tu sĩ trong Giáo Hội La Mã ghê tởm là như thế đó. Thế cũng chưa hết! Ghê tởm hơn nữa là Giáo Hội La Mã còn ban cho các tu sĩ (các ngài mang chức thánh) cái đặc ân được giữ nhân tình với điều kiện phải đóng thuế. Ghê tởm hơn thế nữa là Giáo Hội còn cấp giấy phép bọn Tú Bà mở nhà chứa (nhà thổ) để các giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican lấy tiến hưởng thụ, sống đời xa hoa, phóng đãng, đĩ điếm “miệt mài trong cuộc truy hoan”. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự thật ghê tởm này:
"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) can tội loạn luân (incest) ăn ở với chị (em) gái sinh ra đứa con trai tên là Pietro Riario và cũng là giáo hoàng đầu tiên cấp giấy hành nghề mở "nhà chứa" (nhà thổ) tại Kinh Thành La Mã. Nhờ vậy mà mỗi năm, ông thu hoạch được 30 ngàn tiền ducats. Ông cũng thâu hoạch được những khoản tiền khá lớn bằng cách đánh thuế các tu sĩ nào muốn công khai sống với tình nhân (bạn gái). Tệ hơn nữa, ông còn làm tiền bằng cách bán giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các bà có chồng xa nhà, v.v..." Nguyên văn: "Sixtus ' favourite was Pietro Riario, whom the historian Theodor Griesinger believed was his son by his own sister.... Sixtus was the first pope to license the brothels of Rome; they brought him in thirty thousand ducats a year. He also gained considerably from a tax imposed on priests who kept a mistress. Another source of income was granting privileges to rich men "to enable them to solace certain matrons in the absence of their husbands." [xvii]
Đồng thời, các viện nữ tu cũng được Giáo Hội biến thành những ổ điếm để cho các giám mục và linh mục đến đó giải quyêt sinh lý. Sự kiện này cũng được sách Vicars of Christ ghi lại rõ ràng như sau:
"Tình trạng nam nữ chung chạ bừa bãi lan tràn trong khắp các nam và nữ tu viện. (Thánh) Ivo Chartre (1040-1115) cho biết toàn thể các nữ tu viện chỉ là những nữ tù nhân mang danh là "các dì phước" mà thôi. Họ thường là những đứa trẻ bị gia đình bỏ rơi và thực sự đã trở thành những cô gái điếm." Nguyên văn: "Promiscuity was rife in monasteries and convents. The great Ivo of Chartres (1040-1115) tells of whole convents with inmmates who were nuns only in name. They had often abandoned by their families and were really prostitutes."[xviii]
"Trong thế kỷ thứ 9, nhiều tu viện là những sào huyệt của những người đồng tình luyến ái; nhiều nữ tu viện là những ổ điếm (nhà thổ) nơi mà những trẻ sơ sinh đều bị giết rồi đem chôn ở ngay trong đó. Các sử gia nói rằng từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, Tây Phương không giết các trẻ sơ sinh nhiều như vậy, ngoại trừ ở trong các nữ tu viện. Hội Nghị nhóm họp ở Aix- la- Chapelle vào năm 836 đã công khai thú nhận điều này. Về phần các ông tu sĩ Da-tô thèm khát làm tình (giải quyết vấn đề sinh lý), họ thường bị tố cáo về tội ác loạn luân đến nỗi rằng họ bị cấm không được ở cùng nhà với mẹ, cô hay dì và chị em gái của họ. Những trẻ sơ sinh do hậu quả của các vụ loạn luân thường bị chính các ông tu sĩ giết chết. Con số này rất nhiều và đã được một vị giám mục người Pháp ghi vào hồ sơ. tài liệu." Nguyên văn: "In the ninth century, many monasteries were the haunts of homosexuals, many convents were brothels in which babies were killed and buried. Since the end of the Roman Empire, historians say that infanticide was probably not practised in the West on any great scale - except in convents. The Council of Aix-la-Chapelle in the year 836 openly admitted it. As to sex-starved secular clergy, they were so often accused of incest that they were at length forbidden even to have mothers, aunts or sisters living in their house. Children, the fruits of incest, were killed by the clergy, as many a French prelate put onrecord." [xix] )
Bản văn sử trên cho chúng ta thấy những đưa trẻ sơ sinh do kết quả của các cuộc làm tình của các linh mục và giám mục với các bà nữ tu bị các ngài sát hại và chôn giấu ở ngay trong các tu viện.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ, ngoài những hành động trời không dung đất không tha như (1) loạn luân, (2) biến các nữ tu viện thành nhưng ổ điếm để cho các nam tu sĩ đến giải quyết vấn đề sinh lý, (3) sát hại các trẻ em sơ sinh do các cuộc làm tình vụng trộm (thông dâm) giữa các ngài vơi các các bà nữ tu hay với các bà vợ của các nam tín đồ, Giáo Hội còn có cả chính sách kinh tài bằng cách cho mở "nhà thổ" (nhà chứa), rồi cấp giấy phép hành nghề cho những người hành nghề "chủ ổ điếm" (mụ tú bà) và cho các chị em gái giang hồ hành nghề để lấy tiển mở rộng ảnh hưởng hay quyền lực của "nhà thờ" (Nhà Chúa). Với hành động như trên, Giáo Hội đã biến “Nhà Thờ” thành “nhà thổ”, biến “Nhà Chúa” thành “nhà chứa” và các ngài mang chức thánh từ Giáo Hoàng cho đến các ông linh mục bạch đinh trở thành những “thằng trùm đĩ”, giống như một thứ Tú Bà trong xã hội tội ác. Đây là một trong những nét độc đáo của cái Giáo Hội luôn luôn cao rao là "Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền" và là "Hiền Thê của Thiên Chúa Làm Người"! Hội Thánh gì mà lại làm những việc xấu xa đê tiện khốn nạn như vậy! Căn cứ vào những việc làm khốn nạn này, thiết tưởng phải gọi Giáo Hội La Mã là "Hội Thánh Nhà Thổ". Có gọi như vậy, thì mới đúng với ngôn ngữ của loài người!
Nhà Thờ mà làm kinh tài bằng cách cho cách cho phép mở "nhà thổ" (nhà chứa) và cấp giấy phép hành nghề cho những người hành nghề "chủ ổ điếm", thì tất nhiên là phải có "quảng cáo" và phải có "những người đưa mối". Một khi mà Giáo Hội đã chủ trương cho mở các “nhà chứa” (nhà thổ) để lấy tiền là Giáo Hội đã biến “Nhà Thờ” thành “Nhà Thổ” và “Nhà Chúa” thành “Nhà Chứa”, thì Giáo Hội phài huy động tất cả những mọi người trong Giáo Hội từ các hồng y, giám mục, linh mục cho đến tín đồ tham gia vào các công việc quảng cáo và chiêu hàng mời khách hay kiếm mối. Người Việt Nam ta có một từ ngữ đặc biệt để chỉ cho những hạng người làm cái nghề "quảng cáo" chiêu hàng mời khách cho cái nghiệp vụ này là "những quân ma cô".
Chao ôi! Giáo Hội La Mã thường cao rao là "Hiền Thê của Thiên Chúa Hiện Làm Người" mà lại đi làm cái nghề ma cô như vậy thì quả thật là nhục nhã cho "Thiên Chúa Làm Người"! Chúa Jesus ơi! Người ta thường nói Ngài có những phép mầu và phép lạ gì ghê gớm lắm mà sao Ngài lại để cho người "Hiền Thê" của Ngài đi làm cái nghề ma cô đốn mạt như vậy?
Bộ mặt thật của các ông tu sĩ Da-tô là như thế đó!
Tất cả cho chúng ta thấy bộ mặt thật của nền đạo lý của Giáo Hội La Mã! Không biết trong lịch sử loài người có nền đạo lý nào khốn nạn và quái đản như vậy không?
Một cách tổng quát: Những bản văn sử được trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng gần như tất cả các ngài mang chức thánh trong Giáo Hội La Mã từ ông linh mục quản nhiệm một xóm đạo hay thuộc một dòng tu được chỉ định phụ trách một công việc nào đó cho đến các ông giám mục, tổng giám mục, hồng y và nhất là các ông nắm giữ những chức vụ cao cấp nhất trong Giáo Hội được gọi là "Đức Thánh Cha" đều là những quân "đạo đức giả" (hypocrites), đều can tội chống lại nhân loại qua những hành động vi phạm nhân quyền, cố ý hủy diệt nền văn minh của nhân loại, hủy diệt mọi thứ tình yêu thiêng liêng cao quý của con người như tình yêu lứa đôi trai gái, tình yêu vợ chồng, tình yêu giữa cha mẹ đối với con cái, giữa con cái đối với cha mẹ và anh em đối với nhau, hủy diệt luôn cả tình yêu đối với bà con láng giềng, đối với quốc gia dân tộc để thay thế vào đó bằng tình yêu đối với Giáo Hội được ngụy trang bằng “tình yêu Thiên Chúa”, được cụ thể hóa bằng “lòng tuyệt đối trung thành đối với Tòa Thánh Vatican” và “triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đáng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã”. (Chúng tôi sẽ trình bày rõ những tội ác này ở trong Mục IV, Phần II trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.)
Còn những tội sống đời bê bối thối tha, loạn luân, dâm loàn của các ngài thì quả thật là những chuỵện quá bình thường đối với họ và rất phổ quát trong Giáo Hội La Mã. Bình thường và phổ quát đến nỗi Giáo Hoàng Sixtus III (432-340) khi bị bắt đem ra xử về về tội dụ dỗ một bà nữ tu, thì ông ta vẫn ung dung và thản nhiên dùng ngay lời Chúa Jesus nói ngày xưa để biện minh cho cái tội dụ dỗ "dì phước" thành người tình của ông ta bằng câu nói trong Tân Ước rằng "Trong đám các ngươi, kẻ nào tự thấy mình không có tội thì hãy nhào ra mà liệng đá vào người người đàn bà đáng thương này trước nhất". Chuyện này được Giáo-sĩ Peter de Rose kể lại trong cuốn Vicars Of Christ (trang 403) với nguyên văn như sau:
"When Pope Sixtus III (432- 40) was put on trial for seducing a nun, he ably defended himself by quoting Christ's words, "Let him who is without fault among you throw the first stone." [xx]
Bàn văn trên đây cho chúng ta thấy rằng, vào thời đó (giữa thế kỷ 5), nếu giáo hoàng có tội, thì tu sĩ và tín đồ Da-tô còn có quyềnbắt ông ta đem ra pháp đình xử lý. Như vậy, vào thời đó, quan niệm công bằng trong pháp lý ở trong đạo Da-tô hay trong Giáo Hội La Mã gần giống như cái nguyên tắc đạo đức "thiên tử phạm pháp thì đồng tội như thứ dân" trong chế độ quân chủ theo quan niệm Nho Giáo ở Đông Phương. Thế nhưng, "miệng kẻ sang có gang có thép" và "cái lưỡi không xương nhiều đường uốn éo", nhất là cái miệng và cái lưỡi của cái thế lực luôn luôn cao rao là đại diện duy nhất của Chúa Bố Jehovah và Chúa Con Jesus. Cũng vì thế mà sau đó, Giáo Hội mới đưa ra những biện pháp hữu hiệu hơn, sắt máu hơn để bịt miệng những người nào còn có ý muốn xoi mói vào những hành động tội ác của Giáo Hội và nhòm ngó vào cuộc đời ăn chơi phóng đãng loạn luân, dâm loàn của các ngài. Những biện pháp đó là:
1.- Ban hành quyết định nói cho giáo dân và mọi người biết rằng:
a.- Giáo hoàng có quyền truất phế có quyền truất phế các vua chúa nằm dưới quyền thống trị của Giáo Hội. (The pope alone has the right to depose emperors and kings.)
b.- Không ai có quyền phán xét giáo hoàng. (The pope can be judged by no one.)
c.- Cha (linh mục) là đại diện cho Chúa. Phải coi Cha như Chúa. Nhũng gì Cha nói và hành động là nói theo ý Chúa và hành động the ý Chúa. Nếu các Cha có làm điều gì sai trái, thì đã có Chúa phán xét. Là con chiên ngoan đạo, không được bàn tán hay nói hành nói tỏi các Cha.
d.- Bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu các Cha tức là bàn tán, nói hành nói tỏi và nói xấu Chúa. Làm như vậy sẽ bị coi như là phá đạo, là chống Chúa và sẽ bị Chúa trừng phạt đầy xuống hỏa ngục đời đời chẳng cùng.
e.- Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo biết. Kẻ nào không tuân hành sẽ bị coi như là kẻ "phá đạo" hay "rối đạo".
2.- Thiết lập Tòa Án Dị Giáo (Inquistions) để xử lý và có quyền xử tử tất cả những phần tử bị cho là phá đạo, chống Chúa, rối đạo và tà giáo.
3.-Tín điều giáo hoàng không lầm lẫn.

D.-THANH TOÁN VÀ TÀN SÁT LẪN NHAU ĐỂ TRANH GIÀNH QUYỀN LỰC
Từ ngàn xưa, trong xã hội loài người, bất kỳ trong phạm vi họat động nào, hễ có quyền lực là có tranh chấp, thanh toán và tàn sát lẫn nhau để chiếm giữ quyền lực, và quyền lực càng lớn, thì tình trạng tranh chấp, thanh toán và tàn sát lẫn nhau càng quyết liệt và càng đẫm máu. Người Trung Hoa có kinh nghiệm này sớm nhất và nhiều nhất cho nên họ đã ghi nhận tình trạng này bằng một bài thơ dưới đây:
Nhất đăng cửu ngũ,
Lục thân tình tuyệt
Phụ tử phản mục
Thủ túc tương tàn,
Thiên lương bất tại.
Tạm dịch: Một lần lên (ngôi vua) nắm quyền trị dân, tình cảm đối với những người thân thương (cha, mẹ, anh, em, vợ, con) không còn nữa, cha con bất hòa, anh em tàn sát lẫn nhau, và những lương tính trời ban cho cũng mất hết..
Giáo Hội La Mã là một trung tâm quyền lực nắm trọn cả thế quyền lẫn thần quyền, quyền hành bao trùm gần trọn cả Tây và Nam Âu, bao trùm luôn cả các thuộc địa của ba đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp ở các Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á, thì tất nhiên là vấn đề thanh toán và tàn sát lẫn nhau để chiếm giữ quyền lực càng xẩy ra nhiều hơn và càng quyết liệt ghê gớm hơn. Tình trạng này đã xẩy ra ngay từ thế kỷ 4, cho đến ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Sách sử không những chỉ ghi lại những chuyện tranh chấp thanh toán lẫn nhau đề giành giật quyền lực rồi tàn sát phe chiến bại để trả thù, mà còn ghi lại đầy đủ cả những chuyện các ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican sống đời phóng đãng, lọan luân, dâm loàn hết sức là kinh khủng, tất cả đều tinh vi, đều thâm độc, đều dã man đến cùng độ của dã man, càng về sau mức độ dã man càng tinh vi và càng siêu việt.
Vì chịu ảnh hưởng sâu nặng bởi những lời dạy cực kỳ ghê tởm trong Cựu Uớc cũng như trong Tân Ước như Leviticus (26:1-18), Deteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20), và Matthew (10: 34-37), những ác tính xấu xa như tị hiềm, ganh ghét, rồi chia bè lập đảng đánh phá tàn sát lẫn nhau để tranh giành quyền lực đã trở thành bản chất của các nhà lãnh đạo Giáo Hội La Mã cũng như của mọi người trong giới tu sĩ và giáo dân cuồng tín. Bản chất ghê tởm này đã ăn sâu vào trong thói quen suy tư rồi thể hiện ra trong ngôn ngữ và biến thành hành động của tất cả mọi người trong xã hội Da-tô. Đặc biệt là từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ vào năm 476, tình trạng này lại càng trở nên khốc liệt hơn. Quyền lực của Giáo Hội càng cao càng nhiều, và tài sản của Giáo Hội càng to lớn, thì những ác tính xấu xa trên đây càng có nhiều cơ hội bùng ra thành hành động. Vì thế mà kể từ đó, sự xung đột tranh chấp và thanh toán lẫn nhau càng xẩy ra nhiều hơn và càng khốc liệt hơn trước. Muốn biết rõ tình trạng này như thế nào, chúng ta chỉ cần nhìn vào danh sách các giáo hoàng trong cuốn Vicars of Christ của Giáo-sĩ Peter de Rosa Dubli, Ireland: Poolbeg Press Ltd., 2000), rồi đếm xem có bao nhiêu ông ngụy giáo hoàng (antipopes) để suy nghiệm ra là có bấy nhiêu lần các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican chia bè lập đảng tàn sát thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ngôi vị giáo hoàng. Theo tài liệu này, người viết tính ra tới 37 ông ngụy giáo hoàng, tức là có tới 37 lần các ông mang chức thánh cao cấp nhất trong Giáo Hội chia thành hai hay ba phe đảng, mỗi phe, chiếm cứ một vùng xưng hùng xưng bá, thành lập giáo triều riêng, tự xưng là chính thống, gọi đối phương là ngụy, rồi phát động những chiến dịch tấn công "diệt tận gốc, trốc tận rễ "các phe thù địch và những thành phần đối kháng, y hệt như tình trạng nước Việt Nam ta vào thời Thập Nhị Sứ Quân trong thế kỷ X, thời Nam Triều - Bắc Triều (1533-1592), thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1627-1775), và trong những năm 1954-1975.
Ngoài 37 lần chia phe chia phái, lập đảng rồi tàn sát tiêu diệt lẫn nhau như vậy, lại còn có rất nhiều vụ các vị chức sắc cao cấp trong giới lãnh đạo của Giáo Hội ngấm ngầm thanh toán và tàn sát lẫn nhau hết sức tinh ví và hết sức dã man để tranh thắng và chiếm giữ ngôi vị giáo hoàng. Người viết xin ghi lại chuyện các ngài thanh toán lẫn nhau xẩy ra vào thời điểm mà quyền lực còn bị kiềm chế bởi Hoàng Đế Lã Mã. Chuyện này được sách Vicars of Christ ghi lại như sau:
"Sự thù nghịch bộc phát thành những cuộc chiến tiêu diệt lẫn nhau thường xẩy ra vào khi có giáo hoàng qua đời. Thi dụ, khi (Giáo Hoàng) Liberius (352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm hai phe, mỗi phe chọn một người của phe mình lên kế vị. Ursinus là giáo hoàng của một phe và Damasus là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở ngoài đường phố, phe Ursinus yếu thế, chạy vào trong nhà thờ St Mary Major (thường gọi là Thánh Đường Đức Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe Damasus tiến tới, trèo lên nóc nhà thờ đục lỗ, rồi dùng ngói và đá liệng xuống tấn công phe Ursinus. Đồng thời, một toán khác của phe Damasus tấn công vào trong qua cửa chính. Khi lọt được vào trong, hai bên ra sức chém giết lẫn nhau liên tiếp trong ba ngày. Cuối cùng, có tới 137 xác chết khiêng ra ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của phe Ursinus. Ursinus bị bắt cho đi sống lưu vong, nhưng tội ác ở trong thánh đường Mary Major là vết nhơ trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi trong sách sử." Nguyên văn: “Bitter rivalries often showed themselves on the death of a pope. For example, when Liberius (352-366) died in 366, two factions elected a successor. Ursinus was one pope. Damasus was the other. After a lot of street fighting, Ursinus ‘ followers locked themselves in the recently completed basilica of St Mary Major, known as “Our Lady of Snow”. Damasus’ supporters climed on the roof, made a hole in it and bombarded the occupants with tiles and stones. Others meanwhile were attacking the main door. When this caved in, a bloody fight ensued for three days. At the end of it, 137 bodies were carried out, all of them followers of Ursinus. Ursinus was sent into exile by the emperor’s representative, but the crime in Mary Major was a permanent blot on Damasus’ copybook.”] [xxi].
Sau này, kể từ năm 476 trở về sau, việc các ngài thanh toán và tàn sát lẫn nhau càng xẩy ra thường hơn, càng nhiều hơn, càng quyết liệt hơn và càn dã man hơn. Sách Lives of the Popes ghi lại như sau:
“Sau khi Giáo Hoàng Benedict VI (973-974) bị ngụy Giáo Hoàng Boniface sát hại, giám mục địa phận Sutri, ở gần Viterbo, được bầu lên ngôi tức là Giáo Hoàng Benedict VII (974-983) với sự ủng hộ của Hoàng Đế Otto II của nước Đức, của phe đảng ủng hộ đế quốc Đức và của các gia đình quý tộc tại Ý Đại Lợi. Benedict VII, lúc đó là Giám mục địa phận Sutri được tôn phong lên ngôi Giám-mục tại kinh thành Rome (tức là Giáo Hoàng) vào tháng 10 năm 974. Tân Giáo Hoàng liền triệu tập hội nghị để rút phép thông công ngụy Giáo Hoàng Boniface VII (974 và 985). Nhưng rồi, vào mùa hè năm 980, Boniface VII khởi loạn chống lại Benedict VII, buộc Giáo Hoàng Benedict VII phải chạy khỏi kinh thành Rome và cầu cứu Hoàng Đế Otto, nhưng mãi đến tháng Ba năm sau mới ổn định.” Nguyên văn: “After Benedict VI (973-974) was murdered by the antipope Boniface VII, Benedict VII, then bishop of Sutri, near Viterbo, was elected pope with the support of the emperor Otto II and the pro-imperial party and aristocratic families of Rome. He was consecrated as bishop of Rome sometime in October 974. The new pope immediately convened a synod at which the antipope Boniface VII was excommunicated. However, Boniface mounted a revolt against Benedict VII in the summer of 980, forcing the pope to leave the city. The pope appealed to the emperor, but it took until the following March to be restored.”] [xxii] .
Sách Babylon Mystery Religion viết:
"Giáo Hoàng Sergius III (904-911) đã sát hại vị tiền nhiệm để nhẩy lên ngôi vị giáo hoàng. Sách sử Giáo Hội La Mã cho biết cuộc đời mang đầy tội ác của ông về chuỵện ông sống công khai với bà Marozia và có nhiều con ngoại hôn với người đàn bà này. Sử gia Baronius gọi ông là “con qủy râu xanh” và sử gia Gregorovius thì gọi ông là “tên tội đồ khủng bố”... Những năm Giáo Hoàng Sergius III tại vì là những năm khởi đầu cho thời kỳ “bọn gái điếm lộng hành và tháo túng Tòa Thánh Vatican” (904-963)." Nguyên văn: “Pope Sergius III (904-911) obtained the papal the papal office by murder. The annals of the church of Rome tell about his life of open sin with Marozia who bore him several illegitimate children. He was described by Baronius as a "monster" and by Gregorovius as a "terrorizing criminal." ....The reign of Pope Sergius III began the period knơwn as "the rule of the harlots" (904-963)").[xxiii]
Sự thanh toán lẫn nhau không phải chi xẩy vào khi có giáo hoàng qua đời, mà còn thường xẩy ra trong những cuộc hội họp bàn thào về một vấn đề gì rồi vì tranh giành nhau chiếm ưu thế, họ cũng tàn sát lẫn nhau hết sức dã man. Đọan văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này và cuộc sống đàng điếm thối tha của giai cấp tu sĩ được mệnh danh là những người mang chức thánh của Giáo Hội La Mã:
Khi có cuộc họp của một số đông các tu sĩ của Giáo Hội La Mã thì địa điểm nhóm họp phải là nơi gần sông hay hồ lớn để liệng xác người (bị thanh toán) xuống đó. Hồ Constance đã tiếp nhận tới hơn năm trăm xác người (bị thanh toán); Con sông Rhine cũng là nơi tàng chứa rất nhiều bí mật. Một điều kiện khác nữa là nơi các Ngài hội họp phải đủ rộng rãi có thể chứa được một số lớn gái điếm để phục vụ cho nhu cầu sinh lý của các Ngài mang chức thánh của Giáo Hội,. Việc làm này còn khẩn cấp hơn là vấn đề quân sự và giá tiền lại rẻ hơn. Vào lúc cao độ của Hội Đồng, có tới hơn một ngàn hai trăm gái điếm ở tại Constance (nơi Hội Đồng nhóm họp) làm việc cả ngày lẫn đêm để phục vụ cho nhu cầu sinh lý của các Ngài." Nguyên văn: “When the clergy met in large number, it was always wise to choose a town near water – lake or river – for disposing of the bodies. Lake Constance received over five hundred while the Council was in ssession; the Rhine, too, hid many secrets. Another requirement was that the meeting place had to be large enough to accommodate the vast number of prostitutes who found the clergy required their services more urgently than the military and paid keener prices. At the height of the Council, there were to be over twelve hundred whores in Constance working round the clock." [xxiv]
Cũng trong sách Vicars of Christ, nơi trang 11, có đọan văn sau đây:
"Họ băng qua con sông Tiber, con sông mà trong nhiều thế kỷ đã được sử dụng vừa làm cống rãnh tiêu thụ rác rưởi của Kinh Thành Rome vừa làm mồ chôn người không chính thức. Có lẽ, ngoài Trung Hoa ra, Tiber là con sông có nhiều xác người nhất bị nhận chìm trong một ngày. Sáng hôm nay, dòng sông này lờ đờ mang mầu xám giống như màu áo của một giáo sĩ Franciscan." Nguyên văn: They cross the Tiber, which for centuries served the city as both sewer and and unofficial cemetery. Probably Tiber has claimed more lives than any river ouside China; thousands have drowned their in a day. This morning, it is slggish and brown as the habit of a Franciscan."] [xxv]
Trong bài viết The Popes (Các Giáo Hoàng) đã đưa lên sachhiem.net trong tháng 12/2007, Giáo-sư Trần Chung Ngọc kể ra một số các giáo hoàng đã sử dụng bạo lực thanh toàn các vị tiền nhiệm hay đối thủ để giành chiếm ngôi vị giáo hoàng hay dùng tiền bạc mua chuộc các thể lực có ảnh hưởng để được đưa lên nắm giữ ngôi vị này. Dưới đây là bản văn của Giáo-sư Trần Chung Ngọc:
“1.- Giáo hoàng Honorius trị vì từ năm 625 đến năm 638. Ông ta bị Công Đồng Hòa Hợp Tôn Giáo thứ sáu (680-681) kết án là kẻ lạc đạo. Ông ta cũng bị kết án như vậy bởi Giáo hoàng Leo II cũng như bởi mọi Giáo hoàng khác cho đến thế kỷ 11.
2.- Năm 769, Giáo hoàng Stephen IV lên ngôi nhờ một đoàn quân đánh thắng vị Giáo hoàng tiền nhiệm. Stephen ra lệnh quất roi lên vị Giáo hoàng thù nghịch, móc mắt ông ta ra, đánh bể đầu gối ông ta, rồi cầm tù ông ta cho đến khi chết. Rồi Giáo hoàng Stephen kết án một người thứ hai phải chết từ từ bằng cách mỗi ngày xẻo một ít thịt của ông ta cho đến khi chết.
3.- Giáo hoàng Leo V chỉ trị vì có một tháng (Tháng 7, 903). Hồng Y Christopher bắt giam ông ta rồi lên làm Giáo hoàng. Rồi Christopher lại bị Hồng Y Sergius bắt giam. Sergius giết cả hai, Leo và Christopher trong khi họ đang bị giam trong tù. Ông ta cũng giết những Hồng Y nào chống đối ông ta.
5.- Giáo hoàng John XII trị vì từ 955 đến 963. Ông ta là một tên tàn bạo. Ông ta quá trác táng đến độ những người đương thời nói rằng ông ta đã biến Dinh Lateran thành một cái Ổ Điếm. Ông ta nâng cốc rượu chúc mừng quỷ. Khi đánh bạc, ông ta cầu đến những Nam Thần và Nữ Thần trong dân gian. Ông ta bị giết bởi một người chồng ghen tuông khi bắt quả tang ông đang ăn nằm với vợ mình.
6.- Trong thế kỷ 10, một người đàn bà giầu có quý phái tên là Marozia [Thật ra Marozia chỉ là một cô gái điếm xinh đẹp, theo giám mục Peter de Rosa trong cuốn Vicars of Christ: “A beautiful Whore”. Chi tiết về Marozia tôi đã trình bày trong bài “ĐÂY !! NHỮNG ‘ĐỨC THÁNH CHA’….] trong vòng 8 năm đã đưa 9 người lên ngôi vị giáo hoàng. Để có thể làm được điều này, cô ta cũng phải loại trừ những giáo hoàng đương vị. Hai giáo hoàng bị bóp cổ chết, một người bị úp gối đè lên mặt làm ngạt chết, và 4 người biến mất trong những hoàn cảnh bí mật. Một trong các giáo hoàng là con của Marozia với một giáo hoàng. [Trong cuốn Vicars of Christ, Peter de Rosa gọi những triều đại của các giáo hoàng này là “triều đại điếm trị” (Pornocracy). TCN]
7.- Năm 1003, Giáo hoàng Silvester II bị Giáo hoàng kế vị, John XVII, giết. Bảy tháng sau, John bị đầu độc chết.
8.- Giáo hoàng Benedict VIII trị vì từ 1012 đến 1024. Ông ta hối lộ để mua chức giáo hoàng. Ông ta có một lực lượng riêng “những người của giáo hoàng”, nổi tiếng về tra tấn, làm tàn tật và ám sát. Khi Benedict chết, em của hắn lên nắm quyền và trở thành Giáo hoàng John XIX. Hắn ta tự phong làm linh mục, rồi làm giám mục, và đội vương miện của giáo hoàng trong cùng một ngày. John chết trong những trường hợp đáng nghi ngờ.
9.- Năm 1095, Giáo hoàng Urban II kêu gọi tổ chức cuộc Thập Ác Chinh để lấy lại Jerusalem (Thánh địa) từ người Hồi giáo. Đây là một cuộc “thánh chiến”. Giáo hoàng nói các Thập Ác Quân được tha mọi tội lỗi, và nếu họ chết ở trận địa họ sẽ là các thánh tử đạo. Khi những Thập Ác Quân tràn qua Âu Châu để đi tới Jerusalem, chúng tàn sát người Do Thái ở Âu Châu. Khi chúng tới Jerusalem, chúng thật là bạo tàn trong cuộc chinh phục thị trấn. Nhiều người Hồi giáo bị chặt đầu, một số bị tra tấn rồi thiêu sống. Đó là bắt đầu cuộc xung đột giữa khối Hồi giáo và Tây phương, kéo dài cho tới ngày nay. Những Giáo hoàng về sau kêu gọi tổ chức những cuộc Thập Ác Chinh khác. Mới đầu họ nhắm vào những người Hồi giáo, nhưng cuộc Thập Ác Chinh thứ tư (1198) là chống những người Ki Tô theo Chính Thống Giáo ở Constantinople.
10.- Giáo hoàng Benedict IX trị vì từ 1032 đến 1044, và từ 1047 đến 1048. Ông ta mua chuộc để lên làm Giáo hoàng. Ông ta phung phí tài sản của triều chính Giáo hoàng vào những gái điếm và những cuộc tiệc tùng hoang tàng, và ông ta đã ra lệnh ám sát nhiều người. Dân chúng thành Rô-ma ghét thậm tệ Benedict đến độ, trong hai trường hợp, ông ta phải chạy trốn khỏi Rô-ma. Benedict bán chức Giáo hoàng cho Giáo hoàng Greory VI. Một điều kiện của sự mua bán này là ông ta được tiếp tục sống trong Dinh Lateran, với một mức lương bổng cao. Benedict kéo những gái điếm vào đầy Dinh Lateran.
11.- Năm 1298, Giáo hoàng Boniface VIII ra lệnh giết mọi đàn ông, đàn bà, trẻ con và súc vật trong thành phố Palestina của nước Ý. Ông ta nổi tiếng về đích thân tra tấn, tàn sát, và hung ác.
12.- Giáo hoàng Clement VI trị vì từ 1342 đến 1352. Ông ta ra lệnh tàn sát toàn thể một thành phố Ý. Ông ta sống rất mực xa hoa. Ông ta thú nhận công khai là đã bán những chức tước trong giáo hội và dùng sự đe dọa cũng như hối lộ để chiếm quyền lực. Clement mua một lâu đài của Pháp, nổi tiếng về những gái điếm ở trong đó.
13.- Giáo hoàng Alexander VI (Giáo hoàng giòng họ Borgia) trị vì từ 1492 đến 1503. Ông ta được biết có những hành động sát nhân, hối lộ, và bán các chức vụ có quyền trong giáo hội Ca-tô. Ông ta thích sống xa hoa. Cuốn sách về kho tàng nghệ thuật của Vatican có hình ông ta mang bộ y phục có dát vàng và đeo nhiều đồ trang sức. Đó là những hạt trai, ngọc thạch, viên ngọc bích lớn, và các đồ trang sức khác. Cái mũ ba tầng (vương miện của giáo hoàng) là bằng vàng, với ba hàng với những đồ trang sức lớn. Alexander có bốn người con với những nhân tình của ông ta. Con ông ta, Cesare, được biết là thuộc loại có những mưu đồ giết người ngầm có thể làm tình tiết âm mưu trong một kịch bản. Theo cuốn “Tự điển Oxford về các giáo hoàng”, Cesare và Alexander giết người để tịch thu tài sản của họ. Giáo hoàng Alexander bị người ta ghét đến độ khi ông ta chết, những linh mục đến cầu nguyện cho ông ta bị các lính canh gác Dinh xua đuổi, và xác ông ta không có ai canh chừng.
14.- Giáo hoàng Julius II trị vì từ 1503 đến 1513. Ông ta hối lộ để lên làm giáo hoàng. Ông ta là con người liều lĩnh và tàn bạo. Ông ta nổi tiếng là trác táng, say rượu, rất nóng giận, lừa dối và độc tài.
15.- Giáo hoàng Leo X trị vì từ 1513 đến 1521. Ông ta pha trộn tín ngưỡng dân gian với Ki Tô Giáo. Ông ta cho diễn lại màn Chúa Ki Tô bị đóng đnh trên thập giá và huyền thoại cổ xưa. Ông ta trang trí Rô-ma với đầy những vật quý báu của giáo hội và tượng các thần Hi Lạp nam nữ. Ông ta đặt một bức tượng của chính ông ở thủ đô Rô-ma, và bắt dân chúng phải chào bức tượng đó.
16.- Giáo hoàng Gregory VII trị vì từ 1073 đến 1085. Ông ta đòi hỏi các vua chúa phải hôn chân ông ta. Gregory và những Giáo hoàng nối tiếp ông ta dùng những tài liệu ngụy tạo để tạo thêm quyền lực của giáo hoàng. Một số tín đồ Ca-Tô Rô-ma toan tính phanh phui ra những sự ngụy tạo này, nhưng vì vậy họ bị vạ tuyệt thông. Tuy nhiên, giáo hội chính thống (orthodox) đã ghi lại tất cả và viết ra những thông tin chi tiết về những văn kiện ngụy tạo này. (Để biết thêm về điều này xin đọc Chương về “Những Tài Liệu Ngụy Tạo và Quyền Lực Giáo Hoàng”)
Mua bán chức vụ lan tràn trong giới giáo sĩ. Điều rất thông thường là các linh mục bỏ tiền ra để mua chức giám mục hay tu viện trưởng. Giáo hoàng Gregory VII nói là ông ta biết có hơn 40 người lên ngôi Giáo hoàng bằng cách mua chuộc.
17.- Giáo hoàng Innocent III trị vì từ 1198 đến 1216. Ông ta nói Giáo hoàng là người cai trị thế giới và là cha của các vua chúa. Ông ta cho rằng mọi linh mục và giám mục đều phải tuân lệnh của Giáo hoàng ngay cả khi Giáo hoàng ra lệnh cho họ làm điều gì ác. Giáo hoàng Innocent muốn diệt trừ những người lạc đạo Albigensian sống ở Pháp. Ông ta bắt vua Pháp giết nhiều trăm ngàn công dân Pháp. Những người Albegensian và Ca-Tô sống trong cùng một vùng ở Pháp. Giáo hoàng Innocent ra lệnh giết tất cả mọi người trong vùng đó, kể cả những tín đồ Ca-Tô. Đó là cuộc Thập Ác Chinh Albegensian, hay cuộc tàn sát Albegensian. Giáo hoàng ban cho những quân Thập Ác Chinh Albegensian một sự giải tội đặc biệt, bảo đảm với họ rằng nếu họ chết ở chiến trường, họ sẽ được giải hết tội và sẽ được lên thiên đường.
Đôi khi có hai hoặc nhiều hơn người tự nhận là Giáo hoàng trong cùng một lúc. Tất cả những người này đều có những người theo. Cuối cùng thì một người được tuyên bố là Giáo hoàng, còn những người kia là ngụy giáo hoàng (antipope). Trong nhiều thế kỷ, những sách của Ca-Tô Rô-ma viết khác nhau về ai được coi là giáo hoàng thực sự. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều sự đồng ý hơn về ai là Giáo hoàng và ai là ngụy Giáo hoàng. Theo Tự Điển Bách Khoa của Ca-Tô, có tới 30 ngụy Giáo hoàng. [Các bạn có thể đọc về điều này trên Internet].[xxvi]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã và của các nhà lãnh đạo của “tôn giáo ác ôn này”. Ấy thế mà Giáo Hội lại vẫn cao rao tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền” và là “Hiền Thê Của Thiên Chúa Hiện làm Nguời.” Chả trách này, học giả Da-tô Charlie Nguyễn mới gọi đạo Da-tô là “đạo máu” và “đạo bịp”[xxvii]
Tòa Thánh Vatican nói láo trắng trợn như vậy mà tín đồ Da-tô cuồng tín người Việt vẫn tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào Tóa Thánh Vatican, vẫn tôn vinh là “cửa vào nước Chúa” của họ, vẫn triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội và tuân hành vô điều kiện, vô điều kiện đến nối họ đành lòng phản lại tổ quốc, phản lại dân tộc, và lớn tiếng bảo nhau “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”. Họ quả thật là những người vong bản, phản dân tộc, phản quốc mà không biết ngượng với lương tâm, không biết nhục. Đúng là những quân vô liêm sỉ. Sự kiện này cho chúng ta thấy rằng chính sách ngu dân và bộ máy tuyền truyền của Giáo Hội quả thất là vô cùng tinh vi và cực kỳ siêu việt. Nói về đặc tính siêu việt của may tuyên truyền của Giáo Hội La Mã, học giả Da-tô Phan Đình Diệm ghi nhận như sau:
“LỜI BẢY: Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngòai nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây "vạn lý trường thành đức tin" và buông bức "màn sắt thần học" lên đầu đòan chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật "núi tội thành con chuột", "kẻ cướp mặc áo thày tu" và "quỷ Satan có diện mạo ông thánh".[xxviii]
Vì giới hạn của tập sách này, chúng tôi chỉ trình bày vấn đề này ngắn gọn như trên thôi. Còn rất nhiều chuyện kinh thiên động địa khác sẽ được trình bày đầy đủ với rất nhiều tài liệu trích dẫn ở trong hai mục V và VI, Phần II trong bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.




Chú thích Chương 1
[i] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Đỉêm, 2000), tr, 245.
[ii] Phan Đình Diệm, Tuyên Cáo 6. tanvien@kitohoc.com Ngày 15/6/1999. Xin đọc thêm Chương 4, Mục II, Phần I bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
[iii] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigon: Lửa Thiêng, 1973), tr 73-78.
[iv] Phan Đinh Diệm. "Mea Culpa Bài 3 - Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm" http:// www.kotohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000.
[v] Malachi Marin, The Decline and Fall of The Roman Church (NY: G.P. Putnam’s Sons, 1981), p. 140
[vi] Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), 76-77.
[vii] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 320.
[viii] Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion (Riverside, CA: Ralph Woodrow Evangelistic Assoc, Inc., 1981), p 91.
[ix] Chu Văn Trinh, Gia Tô Thực Dân Sử Liệu [The Documented History of Catholic Colonialism] Tập 1 (Mt. Dora, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực, 1990), tr 103-113 và 139-174.
[x] Chu Văn Trình, Sđd., tr. 108.
[xi] Chu Văn Trình, Sđd., tr. 109.
[xii] Peter de Rosa, Vicars of Christ (Dublin Ireland: Poolberg Press,Ltd., p.406.
[xiii] Peter de Rosa, ibid.410.
[xiv] Peter de Rosa, Sđd., tr 416.
[xv] Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế Số Ra Mắt 15/6/2002 (Fountain Valley, CA, TXB, 2002), tr 27.
[xvi] Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế Số 2 15/7/2002 (Fountain Valley, CA, TXB, 2002), tr 31.
[xvii] Peter de Rosa. Ibid., p.101.
[xviii] Peter de Rosa, Sđd., tr. 408.
[xix] Peter de Rosa, Sđd., tr.404.
[xx] Peter de Rosa. Ibid., p.403.
[xxi] Peter de Rosa, tr 38.
[xxii] Richard P. Mcbrien. Lives of the Popes (New York: Harper San Francisco, 1997), p 162...
[xxiii] Ralph Woodrow. Babylon Mystery Religion (Rviverside, California: Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc., 1981), tr 91-92.
[xxiv] Peter de Rosa,.Ibid.,, p. 94-95..
[xxv] Peter de Rosa, Ibid., p. 11.
[xxvi] Trần Chung Ngọc. “Popes (Các Giáo Hoàng)”. sachhiem.net. Tháng 12/2007.
[xxvii] Charlie, Nguyễn , Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 228 và 272.
[xxviii] Phan Đinh Diệm, Tlđd.,.(Chú thích 41 ở trên).

0 nhận xét:

Đăng nhận xét