(và một số bài tranh luận)
Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015
Vấn Đề Dân Chủ Hoá ở Việt Nam
07:14
Hoàng Phong Nhã
No comments
TƯỞNG NHỚ MỘT NGƯÒI ANH EM
(và một số bài tranh luận)
(và một số bài tranh luận)
Lữ
Phương
9. Vấn Đề Dân Chủ Hoá ở Việt Nam
Trả lời phỏng vấn của báo “Diễn
Đàn”
Đoàn Giao Thuỷ thực hiện qua Internet
Đoàn Giao Thuỷ: Cám ơn anh đã nhận lời “nói chuyện” với chúng tôi về một vấn đề được
coi là khá “nhậy cảm” và cũng đồng ý cần nói thẳng, nói hết ý. Trước
hết xin hỏi anh: ở Việt Nam hiện nay có một phong trào gọi được là
“phong trào dân chủ” hay không?
Lữ Phương:
Tôi trả lời ngay là có. Dưới chế độ stalinít-maoít, nếu quan niệm
“phong trào dân chủ” như những đợt đấu tranh phản toàn trị, đòi tự
do cho đời sống thì ở Việt Nam phong trào ấy đã có từ thời
Nhân Văn-Giai Phẩm rồi. Mặc dù biểu hiện dưới hình thức văn nghệ,
văn hoá, ở mức độ phản kháng, bất đồng quan điểm, ý nghĩa chính trị
của phong trào ấy là rất rõ rệt. Có một phong trào cũng mang tính
chất như vậy rầm rộ hơn mà chắc anh chưa quên: đó là phong trào vận
động “đổi mới” diễn ra từ 1986, mà nội dung chính yếu của nó là đả
kích thẳng vào cách thức quản lý chuyên chính duy ý chí của Đảng về
mọi mặt, sau đó không lâu bị Đảng trấn áp, nhưng vẫn tiềm tàng phát
triển và dẫn đến đợt đấu tranh hiện nay.
Đoàn Giao Thuỷ:
Như vậy “phong trào” hiện nay chỉ là một sự nối tiếp liên tục con
đường dân chủ hoá ở Việt Nam từ 1954 đến giờ?
Lữ Phương:
Cuộc đấu tranh dân chủ hoá lần này khác với những lần trước rất
nhiều, chủ yếu là do tình hình chính trị hơn một thập niên qua trên
thế giới đã tạo ra những chuyển động mà chúng ta đều biết: sự sụp đổ
của “phe ta ”, mô hình “xã hội chủ nghĩa” nhà nước toàn trị phá sản,
chính sách mở cửa đưa đất nước vào cuộc chuyển mình chung của thế
giới, những cải cách kinh tế trong nước tạo ra những con người phi
bần cố nông và phản vô sản theo kiểu Mao, Stalin … Từ những nỗ lực
tranh thủ những quyền tự do căn bản cho đời sống, phong trào
đã tiến lên hẳn một bước đặt vấn đề nhà nước pháp quyền, từ bỏ độc
quyền ý thức hệ, chấm dứt độc tôn quyền lực… tất cả đã buộc Đảng Cộng sản phải đối mặt với một thách thức hết sức gay gắt.
Đoàn Giao Thuỷ:
Nhưng cũng như những đợt trước, lần này phong trào đã bị trấn áp một
cách quyết liệt!
Lữ Phương: Cần chú ý một điều mới mẻ này: chỉ những ai mang những ý tưởng ấy ra
vận động hình thành những tổ chức mang tính chất đối lập trực diện
mới bị đàn áp thôi, còn những phê phán khác (cũng rất quyết liệt)
thì vẫn không bị đụng đến, lại có vẻ như dần dần được xem là bình
thường. Và cũng cần chú ý thêm điều này: nếu việc trấn áp những
người bất đồng chính kiến trong chế độ stalinít là bình thường
thì đem chuyện giam hãm người ta không cần lý do và vô thời hạn
trước đây so với việc lần này đưa người ta ra toà án rồi
sau đó bịt miệng lại để khỏi phải nghe tiếng người ta chửi mình
trước toà án thì điều đó lại cho biết chế độ đã phải lùi bước trước
công luận như thế nào. Điều đó chứng tỏ rằng những người theo chủ
nghĩa Stalin đã hiểu ra rằng trước tình hình mới hiện nay, họ
không còn có thể duy trì kiểu thống trị cũ được nữa. Tôi cho rằng sự
trấn áp ấy không thể thay đổi được xu thế dân chủ hoá của đất nước.
Vấn đề hiện nay là phải biết nhìn lại một cách tổng kết những chuyện
đã qua.
Đoàn Giao Thuỷ:
Theo anh thì “phong trào” cần phải nhìn lại mình như thế nào? Tôi đề
nghị có thể chúng ta đi thẳng vào một số hình thức đấu tranh cụ thể,
có liên hệ đến sự kiện “bịt miệng” đã nói, như cái tổ chức gọi là
“Khối 8406” chẳng hạn.
Lữ Phương:
Tôi mới đọc bài “nói chuyện” của anh với Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt và thấy
ý kiến của anh ấy không phải là quá đáng, nếu dựa vào đó tìm hiểu
hiện tượng hàng loạt những tổ chức ra đời cùng tính chất với “Khối
8406” anh vừa nhắc đến. Cứ viết bài chửi Marx, chửi Hồ Chí Minh tới
bến, càng dữ dằn, bạt mạng thì càng được xưng tụng là “chiến sĩ dân
chủ”. Chỉ với một số người cùng với mấy cái PC nặn ra một tuyên ngôn
kêu gọi đa nguyên, đa đảng gửi lên mạng toàn cầu là đã có thể khai
sinh cho một số tổ chức mệnh danh dân chủ (cũng với bao nhiêu nhân
sự đó), nếu có làm gì tiếp thì ngoài việc ra hết tuyên bố này đến
tuyên bố khác kết án cộng sản, là chờ dịp viết thư (đăng lên mạng)
kêu gọi những ông này bà nọ trong chính giới Mỹ dạy cho những người
lãnh đạo cộng sản Việt Nam một số bài học dân chủ và nhân quyền, kể
cả những bài học thực thi bằng biện pháp ngoại giao và kinh tế!
Đoàn Giao Thuỷ:
Theo cách anh diễn giải như vậy chẳng lẽ các tổ chức tạo nên phong
trào dân chủ vừa qua chỉ là những thứ hữu danh vô thực, những thứ
tồn tại bằng ảo tưởng? Hà Sĩ Phu vẫn cho rằng internet, bên ngoài…
là cần thiết, vấn đề là làm sao sử dụng cho cân bằng.
Lữ Phương:
Tôi hiểu ý anh Hà Sĩ Phu, những gì tôi nói chỉ là xoáy vào một vài
sự kiện thực tế để minh hoạ thôi. Ở trên tôi đã nói phong trào
đó có cơ sở để ra đời trong tình thế mới, ít nhất là trong tình thế
Đảng cộng sản đã buộc phải thụt lùi nhiều bước quan trọng về đường
lối, để đẩy mạnh thêm quá trình dân chủ hoá cho đất nước. Quá
trình này là một tất yếu, một nhu cầu không thể thiếu được cho sự
phát triển. Những gì Hà Sĩ Phu nêu ra chắc chắn phải được những
người có trách nhiệm với “phong trào” quan tâm.
Đoàn Giao Thuỷ:
Anh vừa diễn giải Hà Sĩ Phu, nhưng ý kiến của riêng anh, đặc biệt
với “Khối 8406” thì như thế nào?
Lữ Phương:
Cách đây không lâu tôi có gặp hai người bạn trẻ thụôc thành
phần chủ trì trong “Khối 8406” và họ có ý rủ tôi
tham gia một tổ chức mới dự tính thành lập. Trong hai bạn này tôi
thấy một người rất nhiệt tình, chịu lắng nghe và có thể nói
chuyện nghiêm chỉnh. Tôi nói với các anh bạn này vấn đề cốt yếu ở
đây không phải là tham gia hay không mà là cái cương lĩnh của tổ
chức của các bạn ấy có thuyết phục được nhân dân về mặt đường lối
thay thế hay không. Nếu thuyết phục được thì dù người ta chưa tham
gia cũng là điều có lợi, vì điều đó nó chứng tỏ đã tạo ra được một
mảnh đất đồng thuận âm thầm cho những hoạt động lâu dài của họ. Với
suy nghĩ đó tôi đã nói với họ rằng với tư cách là người đã từng dấn
thân qua nhiều chế độ, chưa biết chủ trương của cái tồ chức mà bấy
giờ họ định thành lập ra sao nhưng nếu nó giống với tư tưởng
chính trị của “Khối 8406” tôi không tán thành.
Đoàn Giao Thuỷ:
Anh có nói rõ lý do ?
Lữ Phương:
Căn cứ vào những gì đã bộc lộ qua cơ quan phát ngôn của tổ chức này
tôi cho rằng nó quá biệt phái và cực đoan: đường lối tranh đấu và
xây dựng của tổ chức này đã dựa quá nhiều vào cái danh nghĩa Việt Nam
Cộng Hoà chỉ còn tồn tại như một “ngọn cờ di sản”, lại còn
lúc nào cũng đem những khái niệm riêng biệt trong Kitô giáo làm tiêu
chí vận động chống cộng sản, chống Hồ Chí Minh, trên cơ sở lập luận
đó đòi “giải thể” nhà nước đương quyền Việt Nam hiện nay. Tôi cho
rằng lập trường ấy không thể đại diện cho một cái gì đó cao
hơn bản thân những người như họ để đặt vấn đề cho toàn dân tộc, vì
thế không thể lôi cuốn được vào quỹ đạo của mình những xu
hướng dị biệt khác, chẳng hạn những người đứng giữa, những người
công giáo thiên tả, những Phật tử, những người mácxít không cộng
sản, những người cộng sản Đệ tứ, Dân chủ xã hội, những người cộng
sản đã ly khai…
Đoàn Giao Thuỷ:
Vậy anh nghĩ gì về triển vọng của một đường lối như vậy
đối với sự chuyển biến chính trị ở Việt Nam? Tích cực hay tiêu cực?
Lữ Phương:
Một cách thực tế, theo tôi, sự xuất hiện của những hình thức đối lập
đó vẫn có tác động đến những người cộng sản có tầm nhìn xa,
buộc họ phải xét lại chủ trương độc tôn quyền lực đã lỗi thời của
Đảng, ít nhất thì cũng phải nhận ra rằng quyền lực ấy ngày nay
không thể đặt nền trên trấn áp (và trấn áp một cách thô lỗ). Vấn đề
dân chủ hoá hệ thống chính trị trong chế độ tất yếu cũng phải được
đặt ra và giải quyết theo một tinh thần đổi mới tích cực. Còn với
các xu hướng “đối lập” đã nói, muốn giữ được vai trò nào đó với sự
chuyển mình của đất nước, một cách hoà bình, bất bạo động như họ nói
thì họ không thể không từ bỏ các chủ trương cực đoan và biệt
phái, quá lệ thuộc bên ngoài để tìm ra những phương thức hoạt động
phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lý của những người trong nước.
Đoàn Giao Thuỷ:
Tôi đề nghị anh nói rõ ý này: phải chăng anh cho rằng ngoài sự cực
đoan, biệt phái, xu hướng ấy còn có nhược điểm là quá dựa dẫm vào sự
yểm trợ của bên ngoài?
Lữ Phương:
Tôi không nói đến sự yểm trợ nói chung mà là sự kích động và lợi
dụng của những lực lượng chính trị có tôn chỉ lật đổ và phục hận.
Cũng có thể kể vào đó những thế lực ngoại bang muốn khai thác vấn đề
dân chủ để can thiệp vào nội bộ một đất nước có chủ quyền. Đối với
những lực lượng đó, tôi cho rằng dân chủ với họ chỉ là cái bình
phong, là phương tiện. Không tỉnh táo trước những toan tính ấy,
những người thực tâm theo đuổi con đường dân chủ trong nước sẽ không
tránh khỏi bị nghi ngờ, cô lập với môi trường xã hội mà mình sinh
sống. Vấn đề dân chủ ở đây không thể tách rời vấn đề chủ quyền dân
tộc.
Đoàn Giao Thuỷ:
Đến đây tôi có ý muốn chuyển sang một vấn đề khác không kém quan
trọng mà anh có nói qua khi tôi về Việt Nam thăm anh: ngoài cái xu
hướng chính trị mà chúng ta vừa nói, anh cho biết trong nước đã xuất
hiện một xu hướng đề xuất được một đường lối hành động phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. Đọc bài “Thảo luận với Hà Sĩ Phu” tôi thấy anh có nhắc đến tên ông Lê Hồng Hà, có phải anh cho
rằng đây chính là người phát ngôn cho xu hướng ấy?
Lữ Phương: Nếu anh có chú ý đến tên ông họ Lê này trong bài viết của tôi thì
tôi xin nói thêm với anh rằng bấy lâu nay tôi rất nể ông ấy về
phương diện lý luận, mặc dù ông không phải là người trước tác. Ông
là một trong những người đã phê phán rất sớm chủ nghĩa Marx, giới
thiệu Eduard Bernstein như cha đẻ của thứ chủ nghĩa xã hội dân chủ
hiện đại, vạch rõ cái nguyên nhân nội tại đưa đến sự sụp đổ của mô
hình “xã hội chủ nghĩa” xô viết… Tôi nhớ rất rõ một ý ông ấy
đã nói từ lâu (nay lặp lại): mô hình xô viết mà “phe ta” coi là tấm
gương học tập là một mô hình “tự vỡ” vì nó không chịu đựng nổi
cuộc thách thức về phát triển trong thế giới hiện đại; Việt Nam theo
mô hình ấy rồi cũng tự vỡ thôi, nhưng sẽ tự vỡ theo kiều của ta, tức
là tự vỡ một cách … “trì trệ”!
Đoàn Giao Thuỷ:
Tôi có nghe qua một cuốn băng có những lời phát biểu đó!
Lữ Phương:
Anh còn nhớ sau khi Liên xô sụp đổ trong giới nghiên cứu người ta đã
nói đến khái niệm “implosion”, tức là ùa dồn vào trong rồi ứ lại
mà ngắc ngứ chứ không bùng ra ngoài rồi vỡ tan theo kiểu “explosion”!
Với những người hiểu biết về chế độ cộng sản stalinít
thì nhận xét ấy cực kỳ quan trọng: mọi toan tính từ ngoài đánh vào,
nhất là những mưu toan “giải thể” bẳng bạo lực hoặc vũ trang, đều
không có tác dụng, vì tất cả đều đã húc đầu vào những chỗ mạnh nhất
của chế độ. Tôi suy ngẫm từ lâu về điều đó và cho rằng những chỗ
mạnh nhất ấy Đảng Cộng sản đã có được trong hoàn cảnh chiến
tranh, cách mạng ở đó những chiến lược về nổi dậy, cướp chính quyền,
những biện pháp tổ chức bí mật, tuyên truyền huyễn hoặc… mới có điều
kiện phát huy. Khi đất nước bước vào xây dựng hoà bình những kinh
nghiệm ấy đã được duy trì chính yếu là để trấn áp nhưng khi
đụng tới những chuyện phát triển kinh tế, thảo luận dân chủ, luật
pháp, định chế, xã hội công dân, công khai, minh bạch … mọi thứ sẽ
ngược lại và làm bộc lộ tất cả những nhược điểm chết người của chế
độ ấy. “Glasnot” và “perestroika” của Liên xô là tiêu biểu.
Đoàn Giao Thuỷ:
Đề nghị anh nói rõ thêm về nhận định này, thí dụ về
mặt kinh tế.
Lữ Phương:
Chắc anh có để ý đến hình ảnh chữ i của Lenin mà tôi đã nói
trong bài “Thảo luận với Hà Sĩ Phu”. Hình ảnh ấy diễn tả tính chất
phản Marx của chủ nghĩa Lenin, nhưng cũng cho biết Lenin nhớ rất rõ
luận điểm của Marx về chủ nghĩa xã hội: về mặt kinh tế chỉ có một
phương thức sản xuất cao thì chủ nghĩa xã hội mới chứng tỏ được tính
chất ưu việt của mình. Chuyên chính vô sản (theo nghĩa phản Marx) đã
đựơc Lenin vận dụng giải quyết bài toán về công nghiệp hoá cho nước
Nga lạc hậu: dùng sự cưỡng chế bằng bạo lực nhà nước toàn trị để rút
ngắn thời gian tích luỹ ban đầu và đuổi kịp những nước đã phát
triển. Tính chất bóc lột vô độ tàn khốc đã biến Liên xô nhanh chóng
thành một cường quốc như thế nào thì chúng ta đều biết. Nhưng
rồi cũng cái chính sách ấy đã đẩy Liên xô vào trạng thái trì trệ như
thế nào thì chúng ta cũng đã biết: mô hình chuyên chính theo kiểu
trại lính, khắc nghiệt đã làm mất hết động lực của xã hội và không
có khả năng tự điều chỉnh để phát triển xa hơn, nhất là khi nó tồn
tại song hành, lại muốn thi đua (qua mặt rồi chôn vùi) với một thứ
chủ nghĩa tư bản đã bước vào cuộc cách mạng mới về công nghiệp.
Đoàn Giao Thuỷ:
Nhưng cũng đã có những nỗ lực canh tân mô hình về nhiều mặt không
thể nào không nói tới.
Lữ Phương:
Về mặt kinh tế thì chúng ta biết người đầu tiên đưa ra chiến lược
canh tân mô hình chính là Lenin với NEP, sự canh tân ấy sau này đã
được những nhà lý luận của mô hình vận dụng lại hy vọng lấy lại sự
năng động cho phát triển. Nhưng nếu chúng ta đi vào thực chất của
những canh tân ấy thì thấy nội dung của nó không phải cái gì khác
hơn là những biện pháp đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, và điều đó
ngày nay không biểu hiện ở đâu tập trung rõ hơn là ở Việt Nam và
Trung quốc. Khái niệm “tự vỡ” mà Lê Hồng Hà sử dụng ở đây đã
mang một ý nghĩa nền tảng: chủ nghĩa xã hội mang nội dung phản
mácxít (nhưng nhân danh Marx) mà Lenin đem ra áp dụng ở Liên xô là
hoàn toàn thiếu sức sống, không thể tự thân tồn tại nếu không cải tổ
và trở về chủ nghĩa tư bản để cải tổ. Thật oái oăm nhưng cũng thật
dễ hiểu: càng cải tổ bao nhiêu thì người ta lại tiến gần đến chỗ tự
diệt bấy nhiêu – cái lôgích chôn vùi kẻ thù bây giờ đã bị đảo
ngược thành cái lôgích “nuôi thù”!
Đoàn Giao Thuỷ:
Trong lĩnh vực chính trị văn hoá tôi thấy hình như không phải như
vậy!
Lữ Phương:
Không hoàn toàn như vậy, vì người ta vẫn cứ hô hào “đổi mới, không
đổi màu” nhưng cái lôgích “tự vỡ” vẫn cứ đi theo con đường của nó.
Với một nền kinh tế lúc nào cũng khan hiếm, thiếu thốn mọi thứ làm
sao anh có thể tuyên truyền cho cái gọi là “ngày mai ca hát” của anh
nếu không hứa và hứa. Nhưng hứa mãi mà không có thì làm sao người ta
không nói là anh chỉ hứa hươu hứa vượn! Anh nói anh “dân chủ gấp
triệu lần” nhưng trong thực tế anh lại thực hiện những cuộc thanh
toán kiểu Stalin, Mao Trạch Đông thì làm sao anh có thể cứ nói mãi
về cái gọi là “pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Tưởng rằng chỉ có những
kẻ chống cộng mới nhận ra điều đó thì không đúng. Đọc lịch sử các
đảng Cộng sản chúng ta đều biết chính một số lãnh tụ số một của Đảng
chứ không phải là ai khác đã nhận ra tình trạng ấy và đề xuất những
chính sách gọi là canh tân, cải cách, cải tổ liên tục, làm cho quá
trình “tự vỡ” ngày một diễn ra mạnh hơn. Chẳng phải “tự vỡ” là gì
những hành động của Kroutchev năm 1956 tố cáo tội ác của Stalin và
dọn đường cho sự ra đời của chính sách công khai, minh bạch của
Gorbatchev năm 1985? Ở Trung quốc là hành động phi Mao hoá của Đặng
Tiểu Bình năm 1978! Và ở Việt Nam là chủ trương “xé rào” của
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1979 dẫn đến Đại hội 6 “cởi trói” năm
1986!
Đoàn Giao Thuỷ:
Đặc trưng gọi là “tự vỡ” ấy có quan hệ gì đến cái chiến lược
dân chủ hoá cho Việt Nam hiện nay mà Lê Hồng Hà đã đề xuất?
Lữ Phương:
Tôi cho rằng để hiểu được chiến lược ấy chúng ta phải từ bỏ nhận
định cho rằng cái thực thể chính trị ở Việt Nam là một chế độ có bản
chất không cải tiến được mà chỉ có thể can thiệp từ bên ngoài hoặc
giải thể từ bên trong. Tôi đã trình bày ở những nơi khác rằng thực
chất cái mô hình đó chẳng có gì gọi là “cộng sản” hiểu theo
nghĩa mácxít cả: nó là một phó phẩm của chủ nghĩa tư bản trên con
đường toàn cầu hoá bằng biện pháp nô dịch và thống trị, nó kích
thích cái thế giới chậm tiến ngoại vi của nó vừa đi theo con
đường của nó lại vừa tìm cách chống lại nó bằng mô hình công nghiệp
hoá bắt kịp (catch-up industrialization), một mô hình quá độ, không
kéo dài vĩnh viễn nhưng từng bước theo sự thay đổi của thực tế mà
biến thể và hoá thân. Khả năng “tự vỡ” của mô hình mà Lê Hồng Hà nói
đến chỉ xảy ra rõ rệt vào giai đoan cuối trong quá trình phát triển
của nó, và chính đó là cơ sở thực tế để nói đến một chiến lược
chuyển hoá: nương theo sự đổ vỡ tự thân của nó tạo ra những áp lực
thúc đẩy thêm những chuyển biến từ bên trong và từng bước qua
những chuyển biến ấy mang đến lợi ích cho nhân dân và thuận lợi cho
phát triển.
Đoàn Giao Thuỷ:
Anh có thể nói rõ hơn về cái chiến lược gọi là “chuyển hoá” đó?
Lữ Phương: Bài nói chuyện của Lê Hồng Hà với Hà Sĩ Phu và Bùi Minh Quốc (đã lên mạng, Diễn Đàn có đăng lại) đã nói khá rõ, anh đọc
lại sẽ thấy, theo tôi nó vừa mang tính chất tổng kết vừa đề nghị một
số chủ trương cụ thể, tất cả đều nhất quán với cái nhận định căn bản
về tính chất “tự vỡ” của mô hình “chủ nghĩa xã hội nhà nước” kiểu
Stalin: chế độ ấy tự mình phải thay đổi để tồn tại và một trong
những lý do quyết định buộc nó phải thay đổi để tồn tại là sự thờ ơ,
phản đối, chống trả liên tục dưới nhiều hình thức của các từng lớp
nhân dân trong đó có sự phê phán của những người trí thức kể cả
những nhà trí thức trong Đảng. Đó là một cuộc đấu tranh nội tại
trong dân tộc, là sự vùng vẫy của nhân dân để nới rộng cái không
gian sinh sống của mình, giữ lại những cái đã thắng lợi để cải tiến
tiếp chứ không phải là một phủ định toàn diện, buộc mọi thứ phải
khởi đầu lại từ số không, thực hiện bằng bạo lực đến từ bên ngoài
hoặc từ những toan tính mang tính phiêu lưu về “giải thể” xuất
phát từ bên trong. Anh có thể cho đó là một phương pháp tranh đấu
“cải lương” nhưng từ đó mà gọi đó là “thoả hiệp” thì không đúng.
Đoàn Giao Thuỷ:
Tôi có đã đọc ý kiến của Lê Hồng Hà và có cảm
giác như ông ấy sẽ bị nhiều người chỉ trích rằng cuộc đấu tranh đã bị
kềm lại ở tình trạng tự phát vì không quan tâm đến những hình
thức tập hợp, tổ chức cần phải có trong tình hình hiện nay.
Lữ Phương:
Tôi cho rằng với một người như Lê Hồng Hà thì điều chỉ trích đó chắc
chắn không hề bị bỏ qua trong tư duy chính trị của ông: cái gì nó
tới thì nó sẽ phải tới, một cách thực tế, có lợi cho sự nghiệp
chung, không nên gò ép để chạy theo một tình thế ngoại tại,
nhất thời, mang tính phô diễn rồi bị cô lập, mất uy tín với số đông.
Dân chủ là vấn đề cải tiến đời sống của nhân dân, là vấn đề nội tại
của dân tộc chứ không thể là phương tiện trả thù, khuynh đảo. Tôi
cho rằng những suy nghĩ mang tính tổng kết của Lê Hồng Hà, với tư
cách là một người ở bên trong, hiểu quá rõ sự khắc nghiệt của chế độ
chuyên chế stalinít và đã nhìn ra được những nhược điểm của chế độ
ấy cùng với cái khả năng chuyển hoá nó một cách hiện thực bằng sức
mạnh của quần chúng, những suy nghĩ ấy đáng được những người đứng
trong trào lưu dân chủ hoá đất nước tham khảo nghiêm chỉnh.
Đoàn Giao Thuỷ: Anh nghĩ gì nếu người ta nói rằng cách tranh đấu nói trên trong tình
hình có nhiều đột biến hiện nay là quá chậm chạp, quá rề rà?
Lữ Phương:
Tôi nghĩ đó không phải là vấn đề. Mỗi phương pháp đều có những cái
hay và cái dở của nó, vấn đề là nó có hiệu lực trong thực tế, nuôi
dưỡng được phong trào, làm nền cho những hành động tiếp theo, mang
lợi ích cho sự phát triển nhiều mặt trong đời sống của nhân dân hay
không. Tôi nghĩ chúng ta cần quan tâm đúng mực đến hiện tượng sau
đây: xu hướng tranh đấu mà Lê Hồng Hà tổng kết một thời đã bị đàn áp
vô cùng tàn tệ, khốc hại hơn rất nhiều so với trường hợp những người
đi theo xu hướng biệt phái và cực đoan hiện nay. Nhưng bây giờ
hãy nhìn những gì mà trên báo chí, ở Quốc hội, người ta ngang nhiên
đề cập những điều cấm kỵ thách thức với chế độ toàn trị (rõ nhất
trong khi chuẩn bị cho Đại hội 10 vừa qua) thì sẽ thấy tình hình đã
khác xưa rất nhiều. Những nhà nghiên cứu đứng ngoài có thể
dùng một số khái niệm để chỉ thị hiện tượng đó: sự mâu thuẫn
giữa phái “tiến bộ” với phái “bảo thủ”, sự hình thành một xu
hướng “đối lập trung thành” bên cạnh xu hướng chính thống trong Đàng
cầm quyền … dù gì đi nữa thì cũng xác nhận sự thực này: xu hướng
stalinít ở Việt Nam ngày nay không còn có thể tự tung tự tác trong
việc xác lập đường lối cho đất nước nữa.
Đoàn Giao Thuỷ:
Nhiều người cho rằng “phong trào dân chủ” ở Việt Nam hiện nay thiếu
cơ sở lý thuyết để định hướng, trong khi đó thì người trong nước lại
ít quan tâm đến vấn đề dân chủ.Tôi đề nghị chúng ta thử chuyển sang
khía cạnh lý thuyết để xem xét ý nghĩa của các hiện tượng đã phân
tích ở trên, điều mà tôi biết đã được anh quan tâm từ xưa đến giờ.
Lữ Phương:
Tôi cũng có chú ý đến khía cạnh này của vấn đề và cho rằng
những ai nói người Việt Nam trong nước không quan tâm đến vấn đề dân
chủ là không đúng: không cần nói nhiều nhưng đề nghị chúng ta hãy
nhớ lại không khí sôi nổi hào hứng chưa từng có trên báo chí
và các diễn đàn khắp nước trong những năm 1986 sau Đại hội 6 thì có
câu trả lời. Tôi cho rằng quên đi sự kiện đó để đưa ra những
thứ không hợp với nhân dân sau đó thấy người ta không theo mình thì
lên tiếng khinh miệt (có người chửi bới tàn tệ nữa) thì chính
chúng ta mới không dân chủ vì đã không hiểu rằng từ tiên khởi dân
chủ là sự chọn lựa của đa số chứ không phải là ý chí áp đặt của một
nhóm người, nhất là những người tự cho là ưu tú một cách không tưởng
và ngạo mạn.
Đoàn Giao Thuỷ:
Tôi thấy hiện nay có hai quan niệm sau đây được người ta nêu ra
(trong nước lẫn hải ngoại) để tranh cãi: 1) Dân chủ có thể thực hiện
trong điều kiện chỉ có một đảng cầm quyền, 2) Phải là đa đảng thì
mới có thể gọi được là dân chủ. Trong hai quan niệm trên đây theo
anh đại đa số người Việt Nam trong nước sẽ cho rằng quan niệm nào là
thích hợp với mình?
Lữ Phương:
Tôi là người đang sống trong nước (cụ thể trong một chế độ vẫn chưa
được tự do hoàn toàn), cũng là người có quan tâm đến vấn đề dân chủ,
tôi có thể trả lời rằng tôi không thể chọn một trong hai quan niệm
ấy một cách trừu tượng vì với tôi dân chủ luôn gắn liền với những
mục đích nào đó rất quan trọng của đời sống (tôi đang sống trong một
nước còn nghèo) chứ không tồn tại tự thân. Thí dụ với chủ trương đa
đảng, tôi thấy mọi việc sẽ không còn quá đơn giản để ca ngợi khi
hàng loạt những câu hỏi đã theo đó mà xuất hiện, chẳng hạn: có chắc
hễ cứ đa đảng là có công bằng chính trị, có tự do, có phát triển hay
ngược lại v.v… và để trả lời ai cũng thấy người ta có thể viện ra vô
số trường hợp để biện luận (vấn đề khá dài dòng nhưng hãy lấy
trường hợp Hồng Kông thời thuộc Anh mà có tự do, trường hợp
Singapore và Trung quốc chưa thật sự dân chủ nhưng phát triển hoặc
một số nước ở châu Phi đa đảng nhưng chẳng có tự do mà cũng
chẳng có phát triển…). Đọc một số bài viết gần đây nhất của
một số nhà nghiên cứu, tôi thấy vấn đề không còn đơn giản như trước.
[Nhân tiện cũng đề nghị ai muốn hiểu thêm hãy vào “Arts & Letters
Daily” trong mạng
Kinh tế Việt Nam của Trần Hữu Dũng để tìm những
tài liệu tham khảo cập nhật đáng đọc].
Đoàn Giao Thuỷ:
Đó là chuyện đa đảng còn về chuyện một đảng trong trường hợp Việt
Nam thì sao?
Lữ
Phương:
Xét về lý thuyết thì tôi sẽ theo Lenin để nói
rằng Việt Nam dân chủ “cả triệu lần hơn dân chủ tư sản” bởi nhà nước
Việt Nam hiện nay là “nhà nước xã hội chủ nghĩa” đại biểu cho quyền
lợi của đa số người trong dân tộc là lao động, cho nên sự chuyên
chính của Đảng chỉ có ý nghĩa với một thiều số nào đó “đi ngược lại
quyền lợi của nhân dân” thôi. Nhưng đứng về mặt thực tế mà xét thì
đó chỉ thuần là tưởng tượng. Nếu tôi chứng minh được rằng ở đây
chẳng có một tí gì là “xã hội chủ nghĩa” cả thì những cái gọi là “do
dân, vì dân, của dân” hoặc “nhân dân lao động” đều chỉ là sự
huyễn hoặc về khái niệm, là mạo nhận và chiếm đoạt danh nghĩa để
biện minh cho sự thống trị của một nhà nước nằm trong tay một đảng
thiểu số.
Đoàn Giao Thuỷ:
Theo anh thì nếu không chấp nhận hai quan niệm mà anh cho là trừu
tượng nói trên thì một quan niệm như thế nào mới được gọi thực tế,
được đa số chấp nhận?
Lữ Phương:
Tôi xin nhắc lại: phải từ bỏ hai lý thuyết về dân chủ chỉ giành cho
một thiểu số sau đây: một là dân chủ cho môt thiểu số dựa vào quyền
lực kinh tế, tiền bạc để thao túng nhà nước (chủ nghĩa tự do cá
nhân) và một là dân chủ cho một thiểu số dựa vào quyền lực
chính trị để chiếm lĩnh nhà nước (chủ nghĩa tập đoàn đầu xỏ ).Từ phủ
định nảy tôi cho rằng một chế độ dân chủ là một định chế bảo đảm
quyền tồn tại độc lập của xã hội công dân, không để cho nhà nước sử
dụng quyền lực nuốt chửng sinh mệnh của xã hội công dân. Và ý
nghĩa dân chủ hay không của một chế độ độc đảng hay đa đảng chính là
mức độ về sự tồn tại hay triệt tiêu sự tồn tại của xã hội công
dân với nhà nước chứ không phải là cái gì khác.
Đoàn Giao
Thuỷ:
Áp dụng vào thực tế, anh thấy tình hình ở Việt Nam hiện như thế nào?
Lữ Phương:
Về câu hỏi này thì tôi xin trở lại những gì đã phát triển ý kiến của
Lê Hồng Hà. Việt Nam hiện nay nói là theo “chủ nghĩa Mác-Lênin” cốt
chỉ đề xài cho được mấy chữ “chuyên chính vô sản” thôi. Nhưng chỉ
xài một cách dấm dúi, lén lút, phi pháp chứ không còn dám ngang
nhiên trắng trợn như trước. Trên thực tế, cái chế độ đó đã “tự vỡ”
lâu rồi. Khởi đầu bị thực tế đời sống lấn lướt từng phần nhưng dần
dà đến nay đã bị đẩy lui hầu hết, chỉ còn lại các công cụ trấn áp
bằng bạo lực. Vấn đề chính trị văn hoá cũng từ đó mà chuyển động
theo, không dám công khai nói ngược lại dân chủ; xã hội công dân một
thời bị triệt tiêu, nay đã ngoi lên và phục sinh, khẳng định sự tồn
tại độc lập của nó với những thuộc tính (quyền tư hữu
tài sản, tự do tín ngưỡng, ngôn luận, phê bình, tự do kinh doanh, đi
lại, sinh sống v.v…) đương nhiên được thừa nhận trên
thực tế, dần dần đòi luật pháp phải thừa nhận. Rõ ràng chế độ toàn
trị đã đổi màu, phải được gọi bằng một tên khác, thí dụ như khái
niệm “hậu toàn trị” mượn từ Đông Âu chẳng hạn!
Đoàn Giao Thuỷ:
Nếu vậy với những người hình dung cho Việt Nam một kịch bản chuyển
hoá theo kiểu Đông Âu thì anh nghĩ sao?
Lữ Phương: Tôi nhắc đến mấy chữ “hậu toàn trị” như một khái niệm nhưng không có
ý cho rằng giữa Đông Âu và Việt Nam có những điều kiện giống nhau.
Chúng ta biết Đông Âu là chiến lợi phẩm của Liên xô sau Thế chiến
II, những Đảng cộng sản Đông Âu nhiều lần bị Liên xô đàn áp vì những
cải cách đi ra ngoài khuôn khổ chủ nghĩa Stalin, vì thế khi xuất
hiện đường lối mới của Liên xô năm 1985 thì phong trào dân chủ hoá ở
Đông Âu đã bùng lên song hành với phong trào tự trị dân tộc đã tiềm
ẩn từ lâu. Nhiều người hiện nay nhắc đến Hiến Chương 77 ở Tiệp hoặc
Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan hàm ý coi đó là con đường có thể noi
theo nhưng lại quên hẳn tính chất quyết định của Liên xô với những
vệ tinh kế cận của họ như thế nào. Họ cũng quên hẳn Việt Nam cũng có
một thời theo mô hình Liên xô, nhưng sợ sụp đổ theo Đông Âu
nên đã quay ngoắt lại theo Trung quốc với mô hình cải cách hiện nay.
Đoàn Giao Thuỷ:
Anh cho rằng con đường gọi là “đổi mới” ở Việt Nam cũng chính là con
đường cải cách kiểu Trung quốc?
Lữ Phương:
Bỏ qua khía cạnh dân tộc trong mối quan hệ Việt Nam/Trung quốc, chỉ
đứng về mặt phát triển mà xét, tôi thấy vấn đề không quá tiêu
cực như một số người đã cho là vậy. Trung quốc cũng theo kinh tế thị
trường và mở cửa, quan hệ bình đẳng với các nước khác, với những
chính sách canh tân táo bạo sớm hơn và có hiệu quả hơn Việt Nam rất
nhiều. Riêng về mặt dân chủ hoá thì giả định như có thể bắt kịp cách
làm của Trung quốc, quá trình tự do hoá tư tưởng, văn hoá của Việt
Nam hiện nay chắc hẳn sẽ có nhiều đột biến tích cực hơn. Tôi nghĩ phong
trào dân chủ Việt Nam không thể nào không nghiêm chỉnh ghi
nhận ảnh hưởng quan trọng của mô hình Trung quốc trong quá trình
canh tân và dân chủ hoá. Thấy rõ ảnh hưởng đó để nhìn ra những thuận
lợi vẫn hơn là bắt chước những người chống cộng theo chủ nghĩa dân
tộc cực đoan lúc nào cũng chỉ biết nhắm mắt nhắm mũi đả đảo người
láng giềng phương Bắc.
Đoàn Giao Thuỷ:
Nhìn lại một cách tổng quát các xu hướng dân chủ hoá đang hình thành
ở Việt Nam, xét về mặt lý luận, anh thấy qua các xu hướng ấy những
gì giống nhau, những gì khác nhau?
Lữ Phương: Nói quá rộng e không chính xác, tôi xin giới hạn ở hai trường
hợp tiêu biểu như đã thảo luận ở trên, là cương lĩnh của “Khối 8406”
và sự tổng kết của Lê Hồng Hà và qua hai trường hợp này, tôi thấy cả
hai đều thống nhất ở mục tiêu cần đạt tới: từ bỏ mô hình satlinít
mệnh danh “xã hội chủ nghĩa” với chủ trương “chuyên chính vô sản” để
tiến tới xây dựng một một chế độ chính trị dân chủ đa nguyên đặt nên
trên một kinh tế thị trường hiện đại. Những gặp gỡ rõ ràng là như
vậy nhưng cái cách thức thanh toán quá khứ để đi đến tương lai thì
hai bên lại khác nhau hoàn toàn về nhận định lẫn biện pháp.
Đoàn Giao Thuỷ:
Chúng ta hãy nói trước về “Khối 8406”.
Lữ Phương:
Về nhận thức tôi thấy những người chủ xướng của khối này cho rằng
chế độ cộng sản Việt Nam là độc tài, gian manh, thủ đoạn, phản
nước, hại dân cần phải phủ nhận triệt để bằng cách kêu gọi mọi lực
lượng trong nước, ngoài nước quyết liệt hành động để giải thể chế độ
ấy. Sự phê phán của họ với chế độ cũng mang ý nghĩa kích động giải
thể cho nên họ đả kích tất cả những gì của cộng sản, không cần phân
biệt quá khứ và hiện tại: những gì làm sai được coi là bản
chất còn những gì làm đúng và làm được thì cho là dối trá, bịp bợm,
từ Karl Marx. Hồ Chí Minh đến những người lãnh đạo ngày nay ai
cũng thế cả. Họ nói đa nguyên và đa đảng nhưng lại nghiêng hẳn về đa
đảng, lấy đó làm tiêu chuẩn duy nhất để vận động dân chủ, nên trong
đấu tranh họ đã dựa vào tiêu chuẩn ấy để tố cáo và thách thức chế
độ. Nói chung đó một phương pháp phủ định từ bên ngoài, phù hợp với
những nạn nhân đủ loại của chế độ, đa phần là những người của Việt
Nam Cộng Hoà đang sống ở hải ngoại.
Đoàn Giao Thuỷ:
Còn với những ý kiến của Lê Hồng Hà?
Lữ Phương:
Điều dặc biệt nhất trong nhận thức của Lê Hồng Hà là luận điểm của
ông về tính chất “tự vỡ” do đi ngược phát triển của chế độ mệnh danh
“xã hội chủ nghĩa” thực hiện bằng “ chuyên chính vô sản”. Tất cả
những đề xuất về đường lối đấu tranh thanh toán chế độ đó đều dựa
vào tính chất “tự vỡ” này để từng bước chuyển hoá nó, thuận lợi cho
phát triển và có lợi cho nhân dân. Dân chủ hoá trong phương thức đấu
tranh này là đi từ bên trong chế độ đi ra, không tự thân tồn tại,
nhất là không coi đa đảng là mục tiêu cấp bách nhất cần phải
thực hiện mà trái lại phải khởi đầu từ những nhu cầu cụ thể về
tự do và đa nguyên của đời sống để đấu tranh với chế độ từ đó dần
dần tập hợp lực lượng đến khi có đủ sức mạnh mới đặt ra vấn đề đa
đảng như giai đoạn cuối cùng. Tôi cho rằng những gì Lê Hồng Hà trình
bày chính là những điều mà các thành phần cấp tiến trong Đảng lẫn
trong guồng máy nhà nước công cụ của Đảng đã thực hiện và phải trả
giá từ bấy lâu, nay vẫn tiếp tục và được tổng kết.
Đoàn
Giao Thuỷ:
Trong trình bày vấn đề, tôi có nhận xét là anh đã tỏ ra có cảm tình
và nghiêng hẳn về cái “cương lĩnh” gọi là “bên trong” do Lê Hồng Hà
tổng kết…
Lữ Phương:
Chắc anh biết tôi là người từ “bên trong” mà ra cho nên nếu tôi có
phần nghiêng về phía ông Lê Hồng Hà và qua đó giới thiệu và phát
triển thêm một số ý ông đã phát biểu thì cũng tự nhiên vì từ
lâu tôi cũng đã có những suy nghĩ như ông. Nhưng tôi không cho rằng
trong những cuộc vận động đang tồn tại, phương hướng đó là duy
nhất. Cuộc sống sẽ tìm ra cho cuộc đấu tranh những giải pháp kết hợp
hiệu nghiệm hơn, tuỳ thuộc rất nhiều vào sự trưởng thành của các xu
hướng khác nhau. Và quan trọng hơn hết sẽ tuỳ thuộc rất nhiều
vào sự ứng xử của giai tầng cầm quyền mới, từ những thay đổi
đã trở thành hiền nhiên của đất nước, họ có nhìn ra được sự tăng tốc
của một quá trình phát triển không thể quay ngược để từ bỏ cái quan
niệm về quyền lực đã lỗi thời thuần dựa trên bạo lực và huyễn hoặc
hay không.
Đoàn Giao Thuỷ: Xin hỏi anh điều này: anh có cho rằng trong một tương lai gần cả hai
xu hướng “trong” và “ngoài” ấy có thể gặp gỡ nhau kết hợp lại thành
một sức mạnh đủ sức tạo nên áp lực đẩy nhanh được tốc độ dân chủ hoá
đất nước theo chiều hướng hoà bình và xây dựng?
Lữ Phương:
Về việc này thì chúng ta chỉ biết hy vọng thôi. Còn hiện nay thì tôi
cho rằng hơi khó. Tình hình mới khởi đầu nhưng dường như không hứa
hẹn điều gì đáng phấn chấn ngoài sự ồn ào trên các website đấu đá ở
hải ngoại. Mọi việc diễn ra cho chúng ta thấy cái thiếu hoàn
toàn cho điều đáng mong ước mà anh nói chính là cái gọi là “văn hoá
dân chủ”. Dân chủ vì phục hận, trả thù, dân chủ thực
hiện bằng chửi bới bạt mạng, cho mình là người duy nhất nắm chân lý,
dân chủ vì đô la, kèn cựa nhau để tìm chỗ dựa của bên ngoài…
thì như có người đã nói đó chỉ là thứ dân chủ ... “chợ búa”
thôi. Chưa tìm cách ngồi lại với nhau để thanh toán cho nhau cái thứ
“văn hoá dân chủ” ấy như Hà Sĩ Phu đã ám chỉ thì người ta chưa
thể bàn gì đến việc tập hợp lực lượng, huống chi là chuyện thống
nhất tổ chức.
Đoàn Giao
Thuỷ:
Xin lỗi anh nếu tôi nói không đúng điều sau đây: hình như anh hơi bi
quan trước tình hình thì phải!
Lữ Phương:
Hình như tôi cũng đã có nói điều này với anh thì phải: tới tuổi này
rồi, bi quan hay lạc quan với tôi chẳng có ý nghĩa gì nữa cả. Tôi
chỉ cố gắng để nhìn được sự việc và con người một cách thực tế hơn
thôi! Điều ấy cũng khó khăn chứ không dễ dàng đâu!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét