ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 3/2001
KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC ĐIỂM (DẤU HIỆU), PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP THA MIỄN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÊ CẢM
TSKH, Q. Chủ nhiệm Khoa, Trưởng Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật thuộc ĐHQG Hà Nội
I. Cách đặt vấn đề
1. Vừa qua với lần pháp điển hóa thứ hai luật hình sự Việt Nam, ở một chừng mức nhất định, nhà làm luật nước ta đã điều chỉnh lại về mặt lập pháp và ghi nhận nhiều biện pháp tha miễn (BPTM) trong BLHS năm 1999 hiện hành. Chính vì vậy, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) việc nghiên cứu khái niệm BPTM, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa xã hội – pháp lý quan trọng, cũng như ý nghĩa khoa học – thực tiễn cấp bách trên các bình diện dưới đây:
Một là, về mặt lập pháp – bên cạnh các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, thì các BPTM trong luật hình sự góp phần thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và của luật hình sự nói riêng, đồng thời còn cho phép khẳng định trình độ văn hóa pháp lý của nhà làm luật, cũng như mức độ pháp chế, dân chủ và bảo đảm các quyền con người bằng PLHS trong một quốc gia khi chúng (các BPTM đó) được quy định nhiều hay ít, chặt chẽ hay tùy tiện.
Hai là, về mặt thực tiễn – kể từ khi thi hành BLHS năm 1985 (ngày 1/1/1986) và sau đó là BLHS năm 1999 (ngày 1/7/2000) đến nay đã cho thấy: do còn thiếu sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp hoặc thiếu những hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử nên hiện nay giữa các cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đôi khi vẫn còn thiếu đồng bộ hoặc chưa thống nhất trong việc nhận thức và áp dụng các quy phạm PLHS về các BPTM.
Ba là, về mặt lý luận – từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam các BPTM chưa bao giờ được các nhà luật học nước ta quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống trong tổng thể chung, cụ thể là: mới chỉ có một số công trình đề cập đến từng vấn đề hoặc chế định riêng biệt trong tổng thể đó (như thời hiệu truy cứu TNHS, thời hiệu thi hành bản án hình sự, án treo, v.v…), trong khi đó thì lại vẫn chưa có bài báo nào làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề có tính chất nhập môn cơ bản như: khái niệm, các đặc điểm, phân loại và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam.
2. Như vậy, tất cả những điều đã được phân tích trên đây không những cho phép nói lên sự cần thiết của việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm, các đặc điểm, phân loại và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam (với tính chất là sự bắt đầu cho một loạt các nghiên cứu chúng một cách toàn diện và có hệ thống trong tổng thể chung), mà còn là lý do luận chứng cho sự xuất hiện của bài báo này.
II. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tha miễn trong luật hình sự
1. Khái niệm BPTM trong luật hình sự:
Trở ngại lớn nhất, khi nghiên cứu vấn đề này là: về mặt khoa học, do ít được quan tâm nghiên cứu nên từ trước đến nay vẫn chưa có nhà hình sự học nào đưa ra khái niệm “BPTM trong luật hình sự” là gì? Nghiên cứu bản chất pháp lý của các quy phạm PLHS Việt Nam hiện hành về các BPTM tại 19 điều của BLHS năm 1999 (các Điều 23-25, 55-67, 76-77) cho phép đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm BPTM (nói chung) như sau: Biện pháp tha miễn trong luật hình sự là quy phạm (hoặc chế định) mang tính chất nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của Nhà nước đối với những người phạm tội và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng chỉ trong một số trường hợp nhất định khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
2. Các đặc điểm của BPTM trong luật hình sự Việt Nam:
Xuất phát từ khái niệm nêu trên về BPTM trong luật hình sự, chúng ta có thể nhận thấy nó có bốn đặc điểm chủ yếu như sau: a) BPTM trong luật hình sự là quy phạm (hoặc chế định) mang tính nhân đạo; b) BPTM trong luật hình sự phản ánh sự khoan hồng của Nhà nước đối với những người phạm tội; c) BPTM trong luật hình sự do cơ quan hình sự có thẩm quyền áp dụng chỉ trong một số trường hợp nhất định; và d) BPTM trong luật hình sự chỉ được phép áp dụng khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét nội dung của từng đặc điểm chủ yếu này.
- BPTM trong luật hình sự là một quy phạm (hoặc một chế định) mang tính chất nhân đạo vì nó thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người bằng PLHS như là những giá trị xã hội cao quý nhất.
- BPTM trong luật hình sự phản ánh sự khoan hồng của Nhà nước đối với những người phạm tội vì nó cho thấy sự quan tâm của Nhà nước trong việc cải tạo và giáo dục họ, khuyến khích họ sửa chữa sai lầm nhằm tránh khỏi con đường phạm tội trở về với cuộc sống lương thiện và sớm tái hòa nhập vào cộng đồng.
- BPTM trong luật hình sự do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào giai đoạn TTHS tương ứng) áp dụng chỉ trong một số trường hợp nhất định do PLHS quy định vì không phải trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng có thể được các cơ quan này áp dụng đối với những người phạm tội.
- BPTM trong luật hình sự chỉ được phép áp dụng khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định, mà cụ thể đó là các căn cứ và những điều kiện tương ứng để: a) không truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) hoặc không thi hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu; b) miễn TNHS; và c) áp dụng tám BPTM có liên quan đến hình phạt – miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt (CHHP), giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn CHHP, án treo, hoãn CHHP tù, tạm đình chỉ CHHP tù và xóa án tích.
III. Phân loại các biện pháp tha miễn và bản chất pháp lý của từng biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam
1. Phân loại các BPTM trong luật hình sự Việt Nam:
Nghiên cứu các quy phạm PLHS Việt Nam hiện hành về các BPTM tại 19 điều của BLHS năm 1999 (các Điều 23-25, 55-67, 76-77) chúng ta có thể phân chia chúng thành 10 dạng như sau:
- Không truy cứu TNHS do đã hết thời hiệu (Điều 23).
- Không thi hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu (Điều 55).
- Miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25).
- Miễn hình phạt (Điều 54).
- Miễn chấp hành hình phạt (Điều 57).
- Giảm mức hình phạt đã tuyên (các Điều 58-59 và 76).
- Án treo (Điều 60).
- Hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 61).
- Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 62).
- Xóa án tích (các Điều 64-67 và 77).
Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt nêu lên bản chất pháp lý của từng BPTM trong luật hình sự Việt Nam đã được phân chia theo hệ thống nêu trên.
2. Bản chất pháp lý của BPTM thứ nhất: Không truy cứu TNHS do đã hết thời hiệu là: sau một thời hạn nhất định do luật định đã qua (kể từ ngày phạm tội), đồng thời khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được ghi nhận trong PLHS thì người phạm tội không thể bị Nhà nước truy cứu TNHS. Căn cứ và những điều kiện áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS được BLHS năm 1999 quy định cụ thể (Điều 23), tuy nhiên cũng cần phải lưu ý là: nhà làm luật vẫn loại trừ các trường hợp ngoại lệ không được phép áp dụng BPTM này (Điều 24).
3. Bản chất pháp lý của BPTM thứ hai: Không thi hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu là: Sau một thời hạn nhất định do luật định đã qua (kể từ ngày bản án kết tội được tuyên có hiệu lực pháp luật), đồng thời khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được ghi nhận trong PLHS thì người bị kết án không thể bị Nhà nước đưa bản án kết tội đó ra thi hành. Căn cứ và những điều kiện áp dụng thời hiệu thi hành bản án kết tội được BLHS năm 1999 quy định cụ thể (Điều 55), tuy nhiên cũng cần phải lưu ý là: nhà làm luật vẫn loại trừ các trường hợp ngoại lệ không được phép áp dụng BPTM này (Điều 56)(1 ).
4. Bản chất pháp lý của BPTM thứ ba: Miễn TNHS là: Sự hủy bỏ toàn bộ hậu quả pháp lý đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định, tức là không áp dụng bất kỳ biện pháp cưỡng chế về hình sự nào được quy định trong PLHS đối với người đó. Các căn cứ và những điều kiện này đều được BLHS năm 1999 quy định cụ thể trong chín trường hợp tương ứng dưới đây:
- Ba trường hợp miễn TNHS trên những cơ sở chung (Điều 25)(2 ) là: a) do sự chuyển biến của tình hình (khoản 1); b) do sự ăn năn hối cải của người phạm tội (khoản 2); và c) do có quyết định đại xá (khoản 3).
- Sáu trường hợp miễn TNHS trên những cơ sở riêng biệt3 là: a) người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm (Điều 19); b) người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng (khoản 2 Điều 69); c) người phạm tội gián điệp ăn năn hối cải (khoản 3 Điều 78); d) người đưa hối lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác (đoạn 2 khoản 6 Điều 289); đ) người môi giới hối lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác (khoản 6 Điều 290); và e) người phạm tội không tố giác tội phạm đã can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm (khoản 3 Điều 313).
5. Bản chất pháp lý của BPTM thứ tư: Miễn hình phạt là: Tòa án không quyết định hình phạt trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tức là không áp dụng đối với người này biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy định trong PLHS. Cụ thể đó là căn cứ và những điều kiện được quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999 như:
- Căn cứ – trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ do luật định tại khoản 1 Điều 46.
- Những điều kiện – đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Hình phạt mà người bị kết án có thể được Tòa án miễn là hình phạt chính, và cả hình phạt bổ sung (nếu có).
6. Bản chất pháp lý của BPTM thứ năm: Miễn CHHP là: Tòa án quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, nhưng không buộc người này phải chấp hành toàn bộ hình phạt ấy khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Cụ thể đó là các căn cứ và những điều kiện được quy định tại Điều 57 BLHS năm 1999 tương ứng trong năm trường hợp dưới đây:
- Trường hợp 1: a) bị kết án một trong hai hình phạt (cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn); b) chưa CHHP đó mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo; c) nếu người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; và d) theo đề nghị của Viện trưởng VKS (khoản 1).
- Trường hợp 2: khi người bị kết án được đại xá hoặc đặc xá (khoản 2).
- Trường hợp 3: a) bị kết án về tội ít nghiêm trọng; b) đã được hoãn CHHP theo quy định tại Điều 61; c) nếu trong thời gian được hoãn người bị kết án đã lập công; và d) theo đề nghị của Viện trưởng VKS (khoản 3).
- Trường hợp 4: a) bị kết án tù về tội ít nghiêm trọng; b) đã được tạm đình chỉ hình phạt theo quy định tại Điều 62; c) nếu trong thời gian được tạm đình chỉ người bị kết án đã lập công; và d) theo đề nghị của Viện trưởng VKS (khoản 4).
- Và cuối cùng, trường hợp 5: a) bị kết án một trong hai hình phạt (cấm cư trú hoặc quản chế); b) nếu người bị kết án đã CHHP được 1/2 (một nửa) hình phạt đó và cải tạo tốt; c) theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người bị kết án CHHP (khoản 5).
7. Bản chất pháp lý của BPTM thứ sáu: Giảm mức hình phạt đã được tuyên là: Tòa án quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cho người bị kết án đã chấp hành hình phạt đó được một thời gian nhất định (đối với phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn) hoặc miễn phần hình phạt còn lại (đối với hình phạt tiền) khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy định trong PLHS. Cụ thể đó là các căn cứ và những điều kiện được quy định tương ứng trong năm trường hợp của BLHS năm 1999 (ba – tại Điều 58, một – tại Điều 59 và một – tại Điều 76) dưới đây:
- Trường hợp 1 - giảm mức hình phạt đã được tuyên: a) bị kết án cải tạo không giam giữ; b) nếu người bị kết án đã CHHP đó được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ; c) theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giáo dục, giám sát người CHHP (đoạn 1, khoản 1 Điều 58).
- Trường hợp 2 - giảm mức hình phạt đã được tuyên: a) bị kết án tù có thời hạn; b) nếu người bị kết án đã CHHP đó được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ; c) theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù (đoạn 2 khoản 1 Điều 58).
- Trường hợp 3 - miễn chấp hành phần còn lại của hình phạt đã được tuyên: a) bị xử phạt tiền; b) người bị kết án đã chấp hành được một phần hình phạt đó; c) bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hay bệnh tật gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn; và d) theo đề nghị của Viện trưởng VKS (khoản 2 Điều 58).
- Trường hợp 4 – có tính chất đặc biệt: Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 khi người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như: đã lập công, quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (Điều 59).
- Và cuối cùng, trường hợp 5 – được quy định đối với người chưa thành niên bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc phạt tiền (Điều 76): a) có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được1/4 thời hạn của hình phạt đã được tuyên, thì được Tòa án xét giảm (khoản 1); b) lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được Tòa án xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại (khoản 2); và c) theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 58, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại (khoản 3).
8. Bản chất pháp lý của BPTM thứ bảy: Án treo: Là biện pháp miễn CHHP tù có điều kiện do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Cụ thể đó là căn cứ và những điều kiện được quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999 như:
- Hình phạt được quyết định chỉ có thể là hình phạt tù với thời hạn không quá 3 năm.
- Căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ Tòa án xét thấy không cần buộc người đó phải CHHP tù đã được quyết định ấy.
- Tòa án bao giờ cũng phải ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm đối với người bị án treo.
9. Bản chất pháp lý của BPTM thứ tám: Hoãn CHHP tù là: Tòa án quyết định tạm dừng lại việc CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) trong một thời hạn nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Căn cứ đó là khi người bị kết án chưa CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội và có đầy đủ những điều kiện được quy định tương ứng trong bốn trường hợp cụ thể tại khoản 1 Điều 61 BLHS năm 1999 như:
- Hoãn CHHP tù cho đến khi sức khỏe được hồi phục – đối với người bị kết án là người mắc bệnh nặng (điểm “a” khoản 1).
- Hoãn CHHP tù cho đến khi con đủ 36 tháng – đối với người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng (điểm “b” khoản 1).
- Hoãn CHHP tù đến một năm – đối với người bị kết án là người lao động duy nhất trong gia đình mà nếu bắt người này CHHP đó, thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt (trừ trường hợp bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm “c” khoản 1).
- Hoãn CHHP tù đến một năm – đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng và do nhu cầu công vụ (điểm “d” khoản 1).
10. Bản chất pháp lý của BPTM thứ chín: Tạm đình chỉ CHHP tù (Điều 62 BLHS năm 1999) là: Tòa án quyết định tạm dừng lại việc CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (đang chấp hành hình phạt) trong một thời hạn nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Căn cứ – người bị kết án đang CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và những điều kiện – tương ứng trong bốn trường hợp cụ thể tại khoản 1 Điều 61. Có thể coi đây là trường hợp đặc biệt của BPTM thứ tám nêu trên – hoãn CHHP tù.
11. Và cuối cùng, bản chất pháp lý của BPTM thứ mười: Xóa án tích là: Sự hủy bỏ hậu quả pháp lý, tức là hoàn toàn chấm dứt việc thực hiện TNHS đối với người bị kết án sau khi người này đã chấp hành xong hình phạt và các quyết định khác của Tòa án trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định. Toàn bộ các căn cứ và những điều kiện xóa án tích được quy định cụ thể tại các Điều 64 – 67 và Điều 77 (dành riêng cho người bị kết án là người chưa thành niên) BLHS năm 1999.
IV. Kết luận
Việc nghiên cứu khái niệm, các đặc điểm, phân loại và bản chất pháp lý của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam cho phép đưa ra một số kết luận chung như sau:
1. Các BPTM trong luật hình sự là hệ thống các quy phạm (hoặc các chế định) của Phần chung thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo, vì vậy việc đảm bảo ghi nhận các BPTM một cách khoa học trong PLHS thực định, nhận thức thống nhất trong lý luận, đồng thời áp dụng một cách rộng rãi và chính xác trong thực tiễn xét xử là chức năng quan trọng của các luật gia – các nhà hình sự học Việt Nam.
2. Ngoài các đặc điểm chung của các BPTM trong luật hình sự Việt Nam, mỗi BPTM đều có bản chất pháp lý, cũng như căn cứ và những điều kiện áp dụng riêng của nó như đã được phân tích trên đây.
3. Đại xá và đặc xá là hai BPTM quan trọng trong luật hình sự nhưng vẫn chưa được điều chỉnh với tính chất là các chế định riêng biệt trong BLHS năm 1999, vì vậy chúng cần phải được các nhà hình sự học quan tâm nghiên cứu để đưa mô hình lý luận dưới góc độ nhận thức – khoa học nhằm góp phần hoàn thiện PLHS Việt Nam hiện hành.
4. Trong số các BPTM do BLHS năm 1999 quy định vẫn còn có một số biện pháp mà các dạng khác nhau của chúng thường xuất hiện trong thực tế khách quan nhưng lại chưa được ghi nhận về mặt lập pháp và do đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa về mặt lý luận để luận chứng cho tính hợp lý và sự cần thiết phải điều chỉnh chúng về mặt lập pháp chính là một trong những nhiệm vụ cấp bách của khoa học luật hình sự nước ta trong giai đoạn xây dựng NNPQ hiện nay.
(1) Trịnh Tiến Việt, Chế định thời hiệu thi hành bản án hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2000.
(2) Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2001.
(3) Lê Cảm, Về sáu dạng trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25) trong BLHS năm 1999, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2/2001.
Nguon: Tap Chi Khoa Hoc Phap Ly - DH.Luat TP.HCM
0 nhận xét:
Đăng nhận xét