Thủy hử hay Thủy hử truyện, nghĩa đen là "bờ nước", là một trong bốn
tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm Tứ đại
danh tác. Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am (1).Cốt truyện là sự
hình thành và những chiến tích của cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều
đình nhà Tống, do Tống Giang lãnh đạo, thường gọi là 108 anh hùng Lương
Sơn Bạc. Nếu như Tam Quốc chí diễn nghĩa được xếp đầu bảng Tứ đại danh
tác thì Thủy hử đứng thứ hai: Đệ nhị danh tác! (Thứ ba là Hồng Lâu mộng
của Tào Tuyết Cần và thứ tư là Tây Du ký của Ngô Thừa Ân). Ngay
sau khi ra đời, Thủy hử được nhiều người sưu tập, khắc in và còn viết
thêm theo “cảm hứng” sáng tạo được kích hoạt bởi chính sự lôi cuốn của
số phận các nhân vật trong Thủy hử. Phổ biến nhất là 6 bản Thủy hử, gồm
hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Loại 70 hồi thường chỉ khác nhau một ít
ở hồi cuối cùng , hồi 71, do nhà bình luận hoặc người đứng ra khắc in
thêm vào, nhưng đều ghi rõ tác giả là Thi Nại Am và đều dừng lại ở thắng
lợi của nghĩa quân. Loại trên 70 hồi có nhiều bản, 100 hồi, 115 hồi,
120 hồi, 141 hồi, trong đó 70 hồi đầu giống nhau, những hồi sau khác
nhau về tình tiết câu chuyện nhưng đều nói đến quá trình tan rã của quân
Lương Sơn Bạc. Một trong những bản Thủy hử được phổ cập rộng rãi nhất
là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán (2), một nhà phê bình lớn đời Thanh
biên soạn. Ngoài phần phê bình văn chương, Kim Thánh Thán đã cắt bỏ đoạn
"anh hùng Lương Sơn phân chia ngôi thứ, phân công trách nhiệm" của
nguyên bản 71 hồi mà tạo ra một "giấc mộng kinh hoàng" của Lư Tuấn
Nghĩa: 108 vị anh hùng bị giết sạch và giữa trời đất xuất hiện 4 chữ
"Thiên hạ thái bình". Lương Sơn tụ nghĩa, Thế thiên hành đạo
Quá trình tụ nghĩa của các anh hùng hảo hán tại bến nước để hình thành
quân khởi nghĩa Lương Sơn Bạc được Thi Nại Am dành 70 hồi để diễn giải.
Tuy nhiên, nhân vật đầu tiên được đề cập không phải là một trong các vị
anh hùng Lương Sơn, mà là Cao Cầu. Theo ý kiến các nhà nghiên cứu (Lời
bình của Kim Thánh Thán về vấn đề này có ở cuối bài viết), quá trình
thăng tiến của gian thần Cao Cầu chính là sự tố cáo cho chính sự thối
nát của nhà Bắc Tống (3) khi đó mà người chịu trách nhiệm cao nhất là
hoàng đế Tống Huy Tông (4), một quân vương chơi bời, không quan tâm tới
việc triều chính. Từ một tên du đãng, Cao Cầu liên tục gặp may,
trở thành sủng thần của vua Tống Huy Tông và được phong chức Thái úy.
Mối liên kết giữa các gian thần Cao Cầu, Dương Tiễn, Lương Trung Thư...
và bộ máy quan lại tham lam, xảo quyệt, độc ác bên dưới đã làm hại các
lương thần của triều đình (Lâm Xung, Võ Tòng, Dương Chí, Tống Giang, Hoa
Vinh...) khiến họ lần lượt phải bỏ sự nghiệp đi theo Lương Sơn Bạc.
Cũng có những anh hùng xuất thân nơi thôn dã, không có chức vụ quyền
hành nhưng bất bình với sự áp bức, bóc lột của quan lại địa phương như
Lý Quỳ, Sử Tiến, Lưu Đường... nên đã ra tay cứu giúp người hoạn nạn hoặc
tự cứu bản thân mình, trở thành người phạm tội và cũng lên Lương Sơn.
Từng nhóm anh hùng được tập hợp riêng lẻ, rồi sau đó tất cả đều tụ về
Lương Sơn. Có những người lên Lương Sơn bằng con đường vòng vo, trắc trở
như Tống Giang, vì ông vốn mang tư tưởng trung quân với triều đình; lại
có những người con đường lên Lương Sơn thẳng tuột như Lý Quỳ bởi ông
coi việc làm phản khi bị ức hiếp là đương nhiên. Thủy hử phản ánh thực
trạng trong xã hội phong kiến muôn đời: "quan bức thì dân phản". Và thời
thế đó đã tất yếu đã sinh ra những “Anh hùng thời loạn” - những người
có khả năng dựng ngọn cờ “Thế thiên hành đạo” để quy tụ lực lượng quần
chúng lao khổ nhất tề đứng lên chống cường quyền áp bức, đó chính là 108
Anh hùng Lương Sơn bạc. Điều đó rất hợp với tâm lý của đông đảo quần
chúng lao động nghèo khổ bị bóc lột, áp bức nên Thủy hử dễ cuốn hút và
đi sâu vào tiềm thức của đông đảo công chúng văn học và quần chúng nhân
dân nói chung. Điều khiến Thủy hử trở nên cuốn hút, hấp dẫn là
ngoài tính cách đa dạng của các nhân vật, các tình tiết còn mang nhiều
tính bất ngờ, thú vị cho người đọc. Người thủ lĩnh đầu tiên của Lương
Sơn Bạc là Vương Luân, nhưng chính Vương Luân lại bị Lâm Xung giết để
tôn Tiều Cái. Tiều Cái được xem là người khai sáng Lương Sơn, nhưng lại
không thuộc vào số 108 vị anh hùng - không thuộc vào 36 vị thiên cang
hay 72 vị địa sát - vì ông bị tử trận trước khi Lương Sơn tập hợp đủ 108
người. Tài năng, tính cách của các anh hùng Lương Sơn cũng phong phú,
mỗi người một vẻ. Ngoài những người giỏi chinh chiến trên lưng ngựa như
Quan Thắng, Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Tần Minh, Đổng Bình...hoặc đánh bộ
như Lý Quỳ, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm... còn một đội ngũ các tướng chuyên
đánh dưới nước như anh em Trương Hoành, Trương Thuận, 3 anh em họ Nguyễn
và cả Lý Tuấn; các quân sư tài ba như Ngô Dụng, Chu Vũ; những người di
chuyển nhanh hoặc giỏi đột nhập như Đái Tôn, Thời Thiên... Đặc biệt,
trong các anh hùng Lương Sơn còn có 3 nữ tướng là Cố Đại Tẩu, Hỗ Tam
Nương và Tôn Nhị Nương. Kết cục bi thảm của khởi nghĩa nông dân
Lương Sơn Bạc phát triển đến cực thịnh ở hồi 70 với việc tập hợp đủ 108
vị anh hùng được phân thứ hạng và nhiệm vụ ở Lương Sơn. Triều đình nhà
Tống nhiều lần điều quân đi đánh dẹp đều bị quân khởi nghĩa đánh bại.
Thái úy Cao Cầu đích thân cầm quân đánh dẹp, bị quân Lương Sơn bắt
sống. Tuy nhiên, do thủ lĩnh Tống Giang mang nặng tư tưởng trung quân
nên đã sai thả Cao Cầu và xin được về quy thuận triều đình. Dù bị nhiều ý
kiến phản đối (nhất là Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm và Lý Quỳ), Tống Giang vẫn
quyết ý dẫn các thủ hạ về quy hàng khi được triều đình chiêu an.
Sau khi về hàng triều đình, quân Lương Sơn được điều đi đánh quân nước
Liêu (5) xâm phạm bờ cõi nhà Tống. Quân Lương Sơn thắng quân Liêu liên
tiếp nhiều trận, sắp tiến đến kinh đô nước Liêu thì vua Huy Tông theo
lời các gian thần, chấp thuận cho nước Liêu giảng hòa và hạ lệnh Tống
Giang rút quân. Trở về, triều đình lại phái quân Lương Sơn đi đánh dẹp
các cuộc khởi nghĩa khác của Điền Hổ, Vương Khánh và Phương Lạp (6). Với
đội ngũ thiện chiến, tài năng, quân Lương Sơn dưới cờ hiệu của triều
đình nhà Tống đã dẹp được cả 3 cuộc khởi nghĩa quy mô lớn này.
Khi đánh quân Liêu và các cuộc khởi nghĩa nông dân khác của Điền Hổ,
Vương Khánh, quân Lương Sơn toàn thắng và không có tướng lãnh nào tử
trận. Nhưng, khi đánh Phương Lạp, quân Lương Sơn bị tổn thất nặng. Và
khi giặc giã không còn, nhà Tống tìm cách trừ khử họ…Sự tan rã không thể
cưỡng lại của 108 Anh hùng Lương Sơn bạc đã phản ánh đúng hiện thực lớn
của xã hội phong kiến nói chung: hầu hết các cuộc khởi nghĩa nông dân
đều không tránh khỏi kết cục bi thảm! Những thành tựu Nghệ thuật nổi bật của Thủy hử truyện
Phần lớn các nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc đều nhận xét: Giá trị cơ
bản của Thủy hử là ở chỗ đã xây dựng được hàng loạt nhân vật anh hùng
hảo hán võ nghệ cao cường, giàu lòng vị tha, xả thân vì nghĩa. Vì vậy,
các hảo hán Lương Sơn đã được ca ngợi hết lời, là những người tượng
trưng cho ước vọng của quần chúng nông dân thấp cổ bé họng, là những ông
tiên ông Bụt bằng xương bằng thịt...vì thế lá cờ “Thế thiên hành đạo”
của 108 Anh hùng Lương Sơn Bạc mãi mãi được đông đảo công chúng ngưỡng
mộ…Đó là nhận xét đúng. Do phản ánh cuộc sống xã hội rộng lớn,
nên Thủy hử truyện có hàng mấy trăm nhân vật, trong đó có nhiều tính
cách nhân vật sắc nét, để lại cho người đọc ấn tượng khó phai. Nhất là
những hình tượng nhân vật anh hùng trong đội ngũ khởi nghĩa nông dân thì
được miêu tả rất xuất sắc. Tính cách của nhân vật Võ Tòng, Lâm
Xung, Lỗ Trí Thâm, Lí Quỳ, Tống Giang v.v…là những điển hình nghệ thuật
đỉnh cao, đều là những Đại anh hùng nhưng mỗi người một sắc thái riêng.
Võ Tòng tính tình cứng rắn, trọng tình nghĩa, đạo đức, ghét bạo tàn,
thương kẻ yếu, nói được làm được. Võ Tòng nhờ vào võ nghệ cao cường,
lòng quả cảm, quyết đoán kịp thời để “bình sinh chỉ đánh bọn ngang
ngạnh, không có đạo đức trong thiên hạ”. Những đặc điểm đó trong tính
cách của Võ Tòng làm cho anh ta khác hẳn Lâm Xung khoan dung, ôn hòa, do
dự, thiếu quyết đoán. Võ Tòng có dũng lại có mưu, làm việc cẩn
thận, trầm tĩnh, rất có chừng mực, trong Hắc điếm ở dốc Chữ thập, anh
ta đã bí mật lừa được Tôn Nhị Nương, một tay giầu kinh nghiệm đã thành
tinh trong cái nghề mua bán này. Ðể tìm ra chân tướng việc anh ruột bị
giết hại, tìm cách báo thù, giải oan, Võ Tòng sắp đặt chu đáo tỉ mỉ: tay
lăm lăm cầm dao nhọn, nghiêm giọng vặn hỏi Hà Cửu Thúc về tình hình lúc
liệm thây ; cho tiền, mời cơm, rồi ôn tồn hỏi thăm chú bán lê Kiều Vận
Ca đầu đuôi việc bắt kẻ gian ; hết bốn mươi chín ngày, bày tiệc rượu,
mời hàng xóm láng giềng tới làm chứng, đóng chặt cửa trước cửa sau, lấy
xong khẩu cung Vương bà và Phan Kim Liên, giết ngay Phan Kim Liên ; sau
khi đánh chết Tây Môn Khánh, đàng hoàng dẫn nhân chứng vật chứng tới cửa
quan tự thú. Trước mặt Thi Ân, Võ Tòng từng nhấc nhẹ nhàng trụ đá nặng
mấy trăm cân mà “mặt không đỏ, tim không đập mạnh, miệng không thở gấp”.
Chuyện đánh hổ trên núi Cảnh Dương là chuyện ai cũng biết. Có thể nói,
Võ Tòng là điển hình của một dũng sĩ, và đã trở thành tấm gương cho quần
chúng nhân dân học tập noi theo trong cuộc đấu tranh kiên cường chống
mọi loại kẻ thù. Ngoài những “Đại đầu lĩnh” như Tống Giang, Võ
Tòng, Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Lí Quỳ, Thủy hử truyện khắc họa tính cách
các anh hùng Lương Sơn bạc khác cũng rất nổi bật và thành công ở sự đa
dạng, phong phú như chính hiện thực đời sống. Như Thạch Tú với lòng dũng
cảm vô song trên chiến trường, với lòng can đảm và trí thông minh hơn
người đã nhảy lầu, cướp pháp trường, với cái tinh ý, cẩn thận, bạo tay
cứng cỏi, trước và sau khi giết Phan Xảo Vân ; như ba anh hùng nhà họ
Nguyễn với tính cách phản kháng “không sợ trời, không sợ đất, không sợ
quan” được hun đúc trong cảnh nghèo khó ; còn Dương Chí, Ngô Dụng, Đái
Tôn, Tần Minh, Sử Tiến, Lí Tuấn, Trương Thuận, Yến Thanh, Nhạc Hòa,
v.v…, nhân vật nào cũng sống động, mỗi người một vẻ. Sự đa dạng, phong
phú trong tính cách của họ đã phản ánh khí khái anh hùng và tinh thần
phản kháng của quần chúng nhân dân qua nhiều mặt khác nhau.
Thành tựu của Thủy hử truyện về mặt miêu tả nhân vật không những được
thể hiện ở sự khắc họa tinh tế tính cách các nhân vật anh hùng giữ vai
trò quan trọng trong toàn bộ thiên tiểu thuyết, mà còn được biểu hiện ở
việc phác họa tính cách các nhân vật thứ yếu, xuất hiện rất ít. Tác giả
không tốn nhiều giấy mực, chỉ qua vài nét đơn giản là có thể phác họa cá
tính của họ một cách thần tình và sâu sắc. Hà Cửu Thúc là một ví dụ cụ
thể. Ông ta là nhân vật điển hình cho những người dày dạn gió sương,
hiểu thấu nhân tình thế thái, lại nhanh nhẹn tháo vát trong xã hội cũ.
Hoàn cảnh sống đã tạo cho ông ta tính thớ lợ, ranh mãnh, cầu an. Qua
việc ông ta lấy trộm hài cốt, tác giả tả ông ta có tính hai mặt vừa lão
luyện vừa khiếp nhược một cách sắc sảo. Còn nhân vật xuất hiện gần như
cùng một lúc với ông ta, chú bé bán tuyết lê Kiều Vận Ca, thì ngây thơ,
ngay thẳng, dám đến phủ quan làm nhân chứng, rất tương phản với tính
cách của ông ta. Vương bà là một ví dụ khác. Đó là một nhân vật kì hình
dị tướng sống trong chế độ phong kiến. Nghề nghiệp làm cho mụ sành sỏi
trong việc xem mặt bắt lời, làm việc gì cũng trơn tru trôi chảy.
Tác giả miêu tả hai điểm đặc sắc trong tính cách của mụ một cách sinh
động, đó là tham và ác. Những nhân vật thứ yếu được viết thành công kiểu
như Hà Cửu Thúc, Vương bà, còn có Nọc ong vẽ Hoàng Văn Bính, tinh ranh
giảo quyệt như cáo già, nhận ra ngay bức thư giả của Đái Tôn, như cọp
không lông Ngưu Nhị quen thói lăng loàn, cướp đoạt bảo đao của Dương
Chí, như chàng tu sĩ áo trắng Vương Luân lòng dạ hẹp hòi, tầm nhìn ngắn
ngủi, như Diêm Bà Tích tai quái ác độc, v.v…, tất cả đều rất sống động,
như có da có thịt vậy. Tác giả cũng rất giỏi về việc khắc họa
nhân vật qua hành động. Tính cách và diện mạo tinh thần liên quan tới
nhân vật đều do hành động của chính nhân vật đó nói lên, mà không cần
xen vào những đoạn giới thiệu dài dòng bằng lời của người thứ ba. Như
các nhân vật Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Lí Quỳ, Dương Chí, đều xuất hiện đột
ngột khi đang miêu tả việc của những nhân vật khác. Lỗ Trí Thâm đang
múa tít cây thiền trượng nặng sáu mươi hai cân trước mặt đám lưu manh,
bỗng nghe một tiếng khen, thế là Lâm Xung xuất hiện. Tiếp theo tác giả
miêu tả cách ăn mặc, diện mạo của Lâm Xung, anh ta cùng Lỗ Trí Thâm uống
rượu nói chuyện, rồi con hầu đến báo tin, và anh ta vội vã đi…Sử Tiến
đang hỏi thăm tông tích Vương Tiến trong quán trà ở Vị Châu thì Lỗ Trí
Thâm bước vào. Tiếp đó tác giả tả cách ăn mặc của anh ta qua con mắt của
Sử Tiến, hai người trò chuyện, ra phố, gặp Lí Trung, đuổi người xem,
lên tửu lâu, nghe thấy tiếng thổn thức của Kim Thúy Liên…Những hành động
tiếp nối nhau của các nhân vật đã dần dần bộc lộ tính cách của họ.
Những hành động của nhân vật thường có sự phát triển. Hoàn cảnh khác
nhau quyết định hành động khác nhau. Tính cách được biểu hiện qua hành
động tất nhiên cũng do đó mà phát triển, biến đổi. Ví dụ, Lâm Xung khi
tới miếu sơn thần trong lúc gió tuyết, đã biến thành một con người khác:
sau khi giết người, anh ta xử sự không còn nho nhã như trước nữa. Do
phẫn nộ, tính cách Lâm Xung từ chỗ khuất phục ẩn nhẫn chuyển thành ngỗ
ngược, ngang tàng: Lão trang khách không cho Lâm Xung rượu uống, anh ta
liền dùng cây thương hất mạnh thanh củi đang cháy trong lò vào mặt lão!
Và đến khi sống với Vương Luân thì nó đã phát triển tới đỉnh điểm.Tính
cách nhân vật biến đổi, phát triển trong những hoàn cảnh khác nhau, đó
là một đặc điểm nổi bật của Thủy Hử truyện. Một đặc điểm nổi
bật nữa trong việc xây dựng tính cách nhân vật của Thủy Hử truyện là
dùng bút pháp chạm khắc tinh vi để khắc họa nên những cá tính rõ nét.
Các nhân vật tuy cùng một tầng lớp xã hội, nhưng do sự từng trải đời
sống, hoàn cảnh sống khác nhau, nên cá tính vì thế cũng khác nhau. Lâm
Xung, Lỗ Trí Thâm, Dương Chí cả ba đều là anh hùng xuất thân từ hàng võ
quan, võ nghệ cao cường. Nhưng nguyên nhân và quá trình họ lên Lương Sơn
bạc lại hoàn toàn khác nhau. Vì là dòng dõi ba đời nhà tướng, mục đích
sống là “một thương một đao mưu cầu phong thê ấm tử, làm rạng rỡ tổ
tông”, nên khi mắc tội lần thứ nhất, Dương cố dùng cách hối lộ mong khôi
phục lại chức quan cũ, thậm chí khi đi qua Lương Sơn bạc, anh ta cự
tuyệt việc gia nhập Lương Sơn để khỏi làm “nhơ bẩn thanh danh”. Nhưng
khi gặp họa lần thứ hai vì để mất món đồ lễ sinh nhật, tính mạng bị đe
dọa, đành phải lưu lạc giang hồ lên Nhị Long sơn. Con đường Dương Chí
trải qua cố nhiên khác hẳn Lỗ Trí Thâm, khác xa với Lâm Xung.
Sự thể hiện tính cách nhân vật tinh vi, rõ nét còn thấy ở những tính
cách tưởng như gần nhau, giống nhau nhưng thực ra vẫn có những sắc thái
riêng độc đáo, không thể trộn lẫn. Ví dụ như Lỗ Trí Thâm và Lí Quỳ, đây
là hai nhân vật tính cách thô lỗ. Tính cách của họ giống nhau ở nhiều
điểm. Nhưng giữa cái thô lỗ của Lỗ Trí Thâm với cái thô lỗ của Lí Quỳ,
hiển nhiên có đường phân giới rõ ràng. Về cử chỉ và dáng người, Lỗ là
một hòa thượng to béo hay gây gổ. Nhưng trong cái thô lỗ của họ Lỗ có
cái cẩn thận, nhanh nhạy, sáng suốt. Ở cửa hàng thịt, trước tiên Lỗ giả
vờ mua thịt, cố ý bắt bẻ Trịnh Đồ một hồi, rồi sau mới chính thức nói rõ
chủ ý và đánh cho Trịnh Đồ nhừ tử. Khi thấy Trịnh Đồ đã chết, Lỗ giả vờ
nói: “Mày giả chết à? Ông lại đánh nữa”, nhưng trong đầu thì nghĩ:
“Mình chỉ tính đánh cho nó một trận, không ngờ đấm có ba quả mà nó đã
chết. Mình bị án thì ai cơm nước cho. Chẳng thà trốn sớm đi cho xong”.
Rồi co chân chạy…Hoạt động tâm lí lúc ấy thể hiện tính chất phác của Lỗ
Trí Thâm, mà việc thoát thân nhẹ nhàng lại thể hiện rõ cái cơ trí của
ông ta. Sau đó, cạnh hố phân trong vườn rau chùa Tướng Quốc, Lỗ lại khám
phá ra quỷ kế của bọn lưu manh, liền đá cho thằng đầu sỏ một đá, khiến
cả đám kinh hoảng. Khía cạnh tính cách này của Lỗ còn biểu hiện ở những
trường hợp khác, như lúc cứu Lâm Xung ở rừng Dã Trư chẳng hạn. Nguồn gốc
tính cách như vậy có quan hệ mật thiết với cuộc đời mà Lỗ đã trải qua.
Xuất thân từ hàng ngũ quan lại địa phương. Quá trình lâu dài sống trong
lòng giai cấp thống trị phong kiến và đấu tranh với thế lực tà ác đã
luyện cho Lỗ tính cách phản kháng, làm giàu thêm kinh nghiệm xử thế. Lỗ
biết rõ mọi mánh khóe độc ác, giảo quyệt của tầng lớp thống trị. Do đó,
nhất cử nhất động của Lỗ đều thành thục. Lí Quỳ đôi khi cũng có cái cẩn
thận trong cái thô lỗ. Khi mới gặp Tống Giang, Đái Tôn bảo Lí lạy, anh
ta nói: “Nếu là ông Tống Công Minh thực thì tôi lạy. Nếu là kẻ khác thì
việc đếch gì tôi phải lạy! Anh Tiết cấp ạ, anh đừng gạt tôi lạy, để rồi
anh cười tôi!”. Sau khi phá tan Cao Liêm, Lí tình nguyện xuống giếng khô
thăm Sài Tiến, khi đó anh ta nói với bọn Tống Giang: “Em xuống không
sợ, nhưng các anh chớ cắt đứt dây nhé!”. Khi lên rồi, Tống Giang bảo Lí
xuống lần nữa, anh ta lại bảo: “Anh không biết, ở Kinh Châu em đã bị hai
vố. Lần này đừng có chơi vố thứ ba đấy”. Song, cái cẩn thận này không
phải là lão luyện mà là thành thực. Một biểu hiện đầy ý nghĩa đặc trưng
của Lí Quỳ là: nửa người trên ở trần, hét lên một tiếng như sấm giữa ban
ngày, một mình xông lên trước, vượt lên trận tiền, múa vù vù đôi búa
chém tới tấp. Hành động như thế không thể thấy ở Lỗ Trí Thâm được. *
Thủy hử được dịch ra nhiều thứ tiếng (7). Bản dịch tiếng Việt đầu tiên
là của Á Nam Trần Tuấn Khải, có văn phong hàn lâm và hiện được cho là
bản dịch chính thức để dùng trong nghiên cứu và giảng dạy. Một bản dịch
sau, không có những hồi cuối của La Quán Trung, do Mộng Bình Sơn dịch,
có giọng văn quen thuộc hơn với người bình dân. Sau Thủy hử có
tác phẩm “tiếp nối” Thủy hử là Hậu Thủy hử (8) hoặc lấy một nội dung nào
đó trong Thủy hử làm đề tài sáng tác mới như Kim Bình Mai (9), lại có
tác phẩm “phản Thủy hử” như Đãng khấu chí (10). Thủy hử còn khơi gợi cảm
hứng sáng tạo đối với nghệ thuật Điện ảnh (11) và những bộ phim về Thủy
hử cũng cuốn hút công chúng không kém nguyên tác. * Bài ca ở
cuối Hồi Một là sự phác họa sinh động chân dung của người Anh hùng Lương
Sơn bạc đầu đội trời chân đạp đất, thấy sự bất bằng chẳng tha: Rượu còn chếnh choáng, Người đã xôn xao, Vì không tỏ mặt anh hào, Bỗng dưng đâu có lụy vào đến thân? Đã nên có dũng có nhân, Nặng lòng nghĩa hiệp, nhẹ cân bạc tiền, Nước non đã vực anh tài, Sá chi luồn cúi thiệt đời bồng tang; Tiếng hào còn để làm gương, Trăm năm thẹn chết những phường tham ngu. Lời bàn của Kim Thánh Thán ở cuối Hồi Một :
Một bộ sách lớn gồm bảy mươi hồi, sắp tả ra một trăm linh tám anh hùng.
Khi mới mở đầu câu chuyện không thề tả ngay ra hết, hãy tả một người
Cao Cầu như khởi điểm. Nếu chẳng tả Cao Cầu, lại tả ngay một trăm linh
tám vị anh hùng, thì ra mối loạn bắt đầu tự lũ dưới. Nay chẳng tả ngay
lũ anh hùng ấy, mà tả Cao Cầu trước, thì thấy mối loạn sinh ra vốn tự
người trên. Xét loạn tự lũ dưới sinh ra, sao dung thứ được? Đó là điều
kiêng kị của tác giả đối với mọi chuyện. Nay mối loạn tự người trên sinh
ra, không nên để cho to lớn, đó cũng là điều lo sâu của tác giả đối với
mọi chuyện. Một bộ sách lớn bảy mươi hồi, mở đầu thấy tả Cao Cầu mới
viết vậy. Cao Cầu trở lại Đông Kinh đắc dụng, khiến Vương Tiến
bỏ quan chức trốn đi, Vương Tiến kia là bậc thế nào? Vốn người chẳng bỏ
nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ, tức là con hiếu đấy! Khiến ta càng nhớ đến
câu: Muốn cầu tôi trung, phải xem ở đám con hiếu. Như thế Vương Tiến
cũng bậc tôi trung, từ xưa con hiếu tôi trung, được coi như tường lân
oai phượng, hay như ngọc bích tròn, với ngọc khuê vuông, tìm khắp bốn bể
chưa lấy nổi một người, thế mà đánh sịch một cái lại có đây, thì đáng
tôn quý, đáng vinh dự lắm chứ? Sao mà sinh sự oán ghét, lại toan đánh
mắng, đến điều muốn giết chết, bức bách cho phải bỏ đi, thế là tại đâu?
Đó là Vương Tiến bỏ đi, đem lại một trăm linh tám người tới vậy.
Như thế Cao Cầu khởi xướng cho một trăm lẻ tám người sinh chuyện. Vì
sau Vương Tiến bỏ đi, lại tiếp đến Sử Tiến, chữ Sử là họ kia cũng chữ sử
là sách sử vậy, ý nói quan Tỳ Sử cũng chỉ chép sử. Hỡi ơi! Từ xưa có sử
để mà chép mọi việc, thì nay quan Tỳ Sử chép gì, hãy chép việc của một
trăm lẻ tám người vậy, chép đám người ấy, cũng cho là sử ư? Cho là sử vì
lời bàn của dân chúng, cũng là sử được, kể ra dân chúng đâu dám cãi bàn
việc nước, bấy lâu nay dân chúng đâu dám cãi bàn, một khi dân chúng
chẳng dám cãi bàn, mà lại cứ dám cãi bàn, thì tại đâu nhỉ? Theo như
thiên hạ có đạo, thì dân nào dám cãi bàn, thì cũng đủ biết thiên hạ
không còn đạo nữa! Cũng như Vương Tiến phải bỏ đi, vì Cao Cầu được trở
lại vậy. Họ Sử cũng như sách sử vậy, vốn có chuyện vậy, còn
Tiến thì nghĩa sao đây? Xét rằng kẻ kia vốn tự hứa ra tên, dù chẳng phải
quan Tỳ Sử chép truyện, song đã tiến dẫn thành sử vậy, ngươi Sử Tiến để
tiến dẫn truyện thành ra sử, vốn có vậy. Còn Vương Tiến là nghĩa làm
sao? Xét rằng phải được người như thế, ngõ hầu bậc thánh ở ngôi vua, để
dạy dân tiến lên vương đạo, phải là như người Vương Tiến, rồi dạy dân
tiến lên vương đạo, thế thì một trăm lẻ tám người kia, theo vương đạo
phải đem giết bỏ. Một trăm lẻ tám người kia, theo vương đạo phải
đem giết bỏ, sao còn cho hiện lẫn ra một Vương Tiến đáng là dân của bậc
thánh minh? Xét rằng Vương Tiến chẳng bỏ nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ,
đáng xuất hiện trung gian, để làm gương lắm? Thế rồi chẳng hiện ở trung
gian như điểm danh chẳng tới, chẳng thấy từ đâu diễn mãi ra, trốn một
bước Diên An; Lại chẳng thấy hiện ra sau cuối nữa, chả có từ đầu tới
cuối, cũng như con thần long đó ư? Để cho một trăm lẻ tám người kia, đều
hiện ra hết, ta thấy rằng họ khỏi với tội chết vậy, nhưng vẫn chưa bằng
Vương Tiến, một trăm lẻ tám người kia, xét chưa bằng ấy, vậy sau mới
biết khó làm nổi như Vương Tiến. Xét, chẳng hiện làm đầu, để bảo cho
người ta, đời loạn nên ẩn, chớ xuất đầu ra; Xét chẳng hiện ra cuối nữa
cũng bảo cho người ta, đời loạn quyết không thu tàn cục. Một bộ
sách bảy mươi hồi, với một trăm lẻ tám người, theo 36 vị Thiên Cang,
thì ngôi sao Tống Giang làm chủ; mà khi trước làm trộm cướp vậy, lại
theo 72 vị Địa Sát, có ngôi sao Chu Vũ, dẫu rằng bút lục tung hoành của
tác giả rất khéo, song cũng ngược với đạo trời mà làm ra vậy.
Thứ diễn đến Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Sà Dương Xuân là ẩn nhiên
bao quát một bộ sách bảy mươi hồi, có một trăm lẻ tám người đều như hùm,
như rắn, chả quý gì mà biết tới. Đã biết sự ẩn quát một bộ sách bảy
mươi hồi, với trăm lẻ tám người, thì dùng để làm gì? Nói rằng đấy là Khế
Tử, để diễn ra một bộ sách, mà Thợ Trời hoá hiện, mới có một rắn một
hùm, khiến độc giả thấy Trần Đạt, Dương Xuân, làm danh hiệu bao gồm một
trăm lẻ tám vị anh hùng hảo hán vậy. * Câu cuối trong Lời bình ở Hồi 70, Kim Thánh Thán đã viết:
“Những tên sao Thiên Cang, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm người, sao
lại có áng văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn
làm sao dựng dậy Thi Nại Am mà hỏi cho ra!”. Như thế ta có thể
nói rằng, trong Thủy hử truyện (*) còn nhiều điều lạ lùng làm mê hoặc
lòng người, chưa dễ gì đặt dấu chấm hết cho việc tìm hiểu, khám phá
những giá trị còn ẩn tàng trong cuốn tiểu thuyết lịch sử thuộc nhóm Tứ
đại danh tác này!... Sài Gòn, tháng 7, 9-2010 Chú thích:
(1) Thi Nại Am (1296? - 1370?): được cho là người biên soạn đầu tiên
của Thủy Hử. Người ta biết rất ít thông tin về ông. Một số học giả ngày
nay nghi ngờ về sự tồn tại của Thi Nại Am và cho rằng tên gọi này chỉ là
bút danh của La Quán Trung người cũng được cho là đóng góp trong vai
trò người biên tập chính của Thủy Hử. Thi Nại Am, theo một vài
sử liệu, sinh năm 1296, mất năm 1370 tức là ông sống trong khoảng thời
gian cuối đời Nguyên, đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. Quê của ông
ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô sau dời đến Hưng Hóa. Thi Nại Am đỗ tiến sĩ
năm 1330 dưới đời nhà Nguyên, rồi ông làm quan 2 năm ở Tiền Đường (nay
thuộc tỉnh Hàng Châu, Trung Quốc). Sau vì bất mãn với triều đình nhà
Nguyên nên ông từ quan về ở ẩn, chuyên tâm sáng tác văn học. Thủy Hử là
tác phẩm nổi tiếng nhất của Thi Nại Am. sáng tác dựa trên các câu chuyện
truyền miệng trong dân gian đời Tống, Nguyên. Có giả thuyết cho rằng
Thủy Hử là do Thi Nại Am và La Quán Trung cùng sáng tác nhưng tính chính
xác của giả thuyết ấy không cao. Sở dĩ có giả thuyết trên vì cuộc đời
của Thi Nại Am và La Quán Trung có nhiều điểm giống nhau như đều sống
trong khoảng thời gian cuối đời Nguyên, đầu đời Minh, đều từ quan về ở
ẩn để chuyên tâm sáng tác văn học. (2) Kim Thánh Thán: Kim
Thánh Thán (1610? - 1661), tên thật Kim Vị , là một nhà văn, nhà phê
bình văn học theo lối ấn tượng của Trung Quốc, được người đời sau mệnh
danh là "Vua của thể loại văn bạch thoại Trung Quốc". Ông nổi tiếng là
một người đọc rộng, uyên bác nhưng tính tình cuồng ngạo, dị kì, thường
nói trong thiên hạ có 6 bộ sách tài tử (lục tài tử thư): Nam Hoa kinh
của Trang Tử, Ly Tao của Khuất Nguyên, Sử kí của Tư Mã Thiên, Thơ luật
của Đỗ Phủ, Thủy hử và Tây sương kí. Năm sinh của Kim Thánh Thán
chưa được xác định, có người nói năm 1608, có người nói 1610, chỉ biết
vào khoảng cuối thời Minh, đầu thời Thanh, mất vào năm Thuận trị thứ 18
đời Thanh thế tổ (1661). Ông có tên khai sinh là Trương Thái, lớn lên
mới đổi sang họ Kim. Ông là người Trường Châu, tỉnh Giang tô.Thời thanh
niên, ông bị hỏng trong kì thi tuế, lại đỗ đầu kì thi khoa sau khi đổi
tên thành Nhân Thụy. Nhưng lúc này nhà Minh đã mất, ông dứt bỏ ý định
làm quan. Kim Thánh Thán có sáng tác thơ, văn, hợp lại thành
"Thánh Thán toàn tập". Ông còn là người hiệu đính sách tài giỏi, những
cuốn Tây sương kí (2*), Thủy hử được ông hiệu đính lại và tự ý cắt bỏ
những đoạn không có giá trị ("Thủy hử" bị ông cắt hết 30 phần sau, kể từ
đoạn các hảo hán Lương Sơn Bạc quy phục triều đình), được người đời tôn
xưng. Nhưng thịnh hành nhất của Kim Thánh Thán có lẽ là những bài bình
giảng. Những sách Tây sương kí, Thủy hử... khi in ra thường thêm phần
bình giảng của ông, gọi là "Thánh Thán ngoại thư".Ngoài ra còn có "Đường
tài tử thi", "Tả Truyện" là những sách phê bình có giá trị.
(2*) Tây sương kí (truyện kí mái Tây), còn có tên đầy đủ là Thôi Oanh
Oanh đãi nguyệt Tây sương kí (truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới
mái Tây), là vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, sáng tác trong khoảng những
năm Đại Đức (1297-1307) đời Nguyên Thành Tông (1295-1307), miêu tả cuộc
tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến của Thôi Oanh
Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy. Khi công diễn lần
đầu, Tây sương kí được khán giả đương thời yêu thích phong là “Tây sương
kí thiên hạ đoạt mị” ( Tây sương kí đoạt được cái đẹp rất mực của thiên
hạ). Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu : Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương. Thôi, Trương là tên của hai nhân vật Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong Tây Sương ký.
Vương Thực Phủ là nhà viết tạp kịch nổi tiếng đời Nguyên, người Đại Đô
(nay là Bắc Kinh), năm sinh năm mất đều chưa rõ. Trong đời mình, Vương
Thực Phủ sáng tác được khoảng 40 kịch bản, trong đó Tây sương kí được
viết vào khoảng đời Nguyên Trinh, năm Đại Đức (1295 -1307), là một tác
phẩm tiêu biểu nhất của ông. Tây sương kí vốn xuất phát từ Hội
chân kí (ghi chuyện gặp gỡ chân thành), còn gọi là Oanh Oanh truyện của
Nguyên Chẩn (2*1) đời Đường. Kịch bản cũng cũng cho thấy những ảnh hưởng
lớn từ vở Tây sương kí chư cung điệu ( Các điệu thức âm nhạc của câu
chuyện ghi dưới mái Tây) của Đổng Giải Nguyên đời nhà Kim. Bốn
hồi cuối của Tây sương kí, theo nghi vấn của Kim Thánh Thán, rất có thể
không phải do Vương Thực Phủ viết, mà do Quan Hán Khanh (2*2), một nhà
văn cùng thời với Vương Thực Phủ chấp bút. Bản dịch của Nhượng Tống cũng
chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi-Trương thì kết thúc.
Tây sương kí có chủ đề là câu chuyện tình duyên giữa nàng Thôi Oanh
Oanh và thư sinh Trương Quân Thụy. Thôi Oanh Oanh là tiểu thư xinh đẹp,
con gái của một vị tướng quốc. Khi bố chết, hai mẹ con nàng về quê,
nhưng gặp loạn đành tạm lánh ở chùa Phổ Cứu, đất Bồ. Trương Quân Thụy,
một thư sinh nghèo, cha mất sớm, vãn du sang đất Bồ chơi, khi ngoạn cảnh
chùa đã gặp Oanh Oanh. Chàng đắm đuối trước sắc đẹp của nàng bèn tìm
cách vào chùa xin trọ. Đêm đến, họ Trương ngâm thơ tỏ tình, Oanh Oanh
họa lại. Khi Tôn phu nhân làm chay cho chồng thì Trương Quân Thụy cũng
nhờ sư cụ của chùa thêm một phần lễ làm chay cho cha mình để có dịp gần
Oanh Oanh. Lại có một nhân vật mang tên Tôn Phi Hổ, vốn là thủ
lĩnh thảo khấu đã đem quân bao vây chùa, đòi lấy Oanh Oanh. Thôi phu
nhân tuyên bố ai giải vây được chùa sẽ gả con gái cho. Trương Quân Thụy
bèn viết thư nhờ bạn là tướng quân Đỗ Xác đem binh tiến đánh và bắt được
Tôn Phi Hổ. Thôi phu nhân mở tiệc ăn mừng và tiệc có mời
Trương Quân Thụy. Ai cũng tưởng là tiệc cưới, nhưng Thôi phu nhân lật
hẹn, nói đã hứa gả cho cháu ngoại Trịnh Hằng, nên chỉ cho phép Oanh Oanh
nhận Quân Thụy làm anh em. Cả Oanh Oanh và Trương Quân Thụy đều rất mực
đau khổ, người hầu gái của Oanh Oanh mang tên Hồng nương cũng bất bình.
Sau buổi tiệc, Quân Thụy ốm tương tư, Oanh Oanh sai Hồng nương sang
thăm. Khi ra về, Trương Quân Thụy viết thư nhờ Hồng nương đưa cho Oanh
Oanh nhưng Hồng nương không dám đưa mà bỏ vào hộp nữ trang. Oanh Oanh vô
tình đọc được, rất mừng nhưng lại tự ái mắng Hồng, rồi viết thư trả lời
Trương Quân Thụy, sai Hồng nương mang sang. Do viết khi Oanh Oanh đang
giận dữ, Hồng nương tưởng đó là thư Oanh Oanh cự tuyệt Quân Thụy nên đã
an ủi Quân Thụy hết lời. Thế nhưng, sự an ủi đó lại càng khiến Quân Thụy
tuyệt vọng. Chỉ đến khi giở thư ra, thấy đây bài thơ Oanh Oanh hẹn
chàng ở mái phía Tây lúc trăng lên, họ Trương vui mừng liền hết bệnh.
Đêm hôm đó như đã hẹn Quân Thụy vượt tường đến mái Tây. Nhưng vì có
Hồng theo bên cạnh nên Oanh Oanh thẹn thùng. Nàng trở mặt mắng chàng
khiến chàng ngẩn người chẳng hiểu vì sao. Hồng nương cũng không rõ thực
hay giả vờ, ngỏ ý tố cáo Quân Thụy với Thôi phu nhân nhưng bị Oanh Oanh
ngăn lại. Về phòng, Quân Thụy lại trở bệnh nặng. Thôi phu nhân nghe tin
sai Hồng nương đến thăm. Oanh Oanh cũng viết thư hẹn tối đến thăm. Từ đó
Oanh Oanh và Trương Quân Thụy bí mật đi lại quan hệ với nhau như vợ
chồng. Chuyện vỡ lở, Thôi phu nhân trách mắng Hồng nương, nhưng Hồng đã
dùng lí lẽ thuyết phục phu nhân tác thành cho đôi trẻ. Bà nghe theo,
nhưng bắt Quân Thụy phải vào kinh thi hội, đỗ đạt mới cho kết hôn. Hai
người đau khổ chia tay nhau. Quân Thụy thi đỗ trạng nguyên vâng
lệnh triều đình lưu lại kinh đô làm quan. Oanh Oanh vui mừng khôn xiết
và mong ước tái ngộ. Nhưng Trịnh Hằng lại phao tin Quân Thụy đã lấy vợ
khác. Thôi phu nhân định cho Trịnh Hằng cưới Oanh Oanh, nhưng Quân Thụy
về kịp, nhờ tướng quân Đỗ Xác phân giải. Đỗ Xác đứng ra làm chủ hôn cho
Quân Thụy và Oanh Oanh. Thành tựu nổi bật nhất của Tây sương kí
là thay đổi chủ đề tình yêu tuân thủ lễ giáo phong kiến và kết cục có
tính chất bi kịch của Oanh Oanh truyện thành sự ca ngợi tình yêu nam nữ
chân thành tha thiết, dám phá bỏ sự ràng buộc của lễ giáo, bền bỉ đấu
tranh để có kết cục tốt đẹp về sau. Theo Hội chân kí, khi giấc mơ qua
rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường
chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng, trong khi đó Tây sương kí
tình duyên hai người không đứt đoạn mà kết thúc có hậu. Tuy cách giải
quyết mâu thuẫn vẫn là con đường khoa cử, công danh, nhưng tác phẩm vẫn
là tiếng nói đả kích mạnh mẽ quan niệm “môn đăng hộ đối”, “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” trong tình yêu và hôn nhân phong kiến, đề cao tự do
yêu đương và tự do kết hôn. Lời kịch của Tây sương kí tươi đẹp
trong sáng, giàu ý thơ. Nhiều tiết đoạn, đối thoại biểu cảm như những
bài thơ trữ tình. Tuy ảnh hưởng bút pháp, đề tài từ Oanh Oanh truyện và
đặc biệt mang dấu ấn của Tây sương kí chư cung điệu nhưng Vương Thực Phủ
đã gia công về nhiều mặt, phát triển và nâng cao truyện, lấp hết những
chỗ sơ hở trong truyện, loại bỏ những chỗ rườm rà, làm cho tính cách
nhân vật phát triển hợp lí hơn. Vương Thực Phủ cũng đã phát huy được sở
trường của thể hí kịch cao độ trong việc đẩy mâu thuẫn, kịch tính của
truyện lên cao trào, tính cách nhân vật trở nên rõ nét hơn, tâm lí miêu
tả tế nhị hơn, ngôn ngữ kịch tinh luyện hơn. Tây sương kí có
ảnh hưởng rất lớn đối với những sáng tác tiểu thuyết và kịch bản về đề
tài tình yêu ở các đời sau. Những cuốn Mẫu đơn đình (**) và Hồng lâu
mộng (***) đều hấp thu tinh thần dân chủ và đề cao tình yêu tự do nam nữ
của Tây sương kí ở những mức độ khác nhau. Trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần đã trích dẫn rất nhiều câu hay trong Tây sương kí: Ngã tựu thị cá "đa sầu đa bệnh thân", nhĩ tựu thị na "khuynh quốc khuynh thành mạo" (Tôi là người nhiều sầu nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành) Nguyên lai thị "miêu nhi bất tú, thị cá ngân dạng lạp sang đầu" (Chẳng qua tốt mã mà đoản, bề ngoài giáp bạc, cốt trong sáp vàng) Mỗi nhật gia tình tư thuỵ hôn hôn (Suốt ngày mê mẩn bồi hồi, tình riêng chán ngắt cuộc đời rỗng không) Nhược cộng nhĩ đa tình tiểu thư đồng uyên trướng, chẩm xá đắc điệp bị phô sàng (Nếu tôi được cùng tiểu thư đa tình sum vầy phượng loan, quyết chẳng để chị trải nệm quạt màn) Sa song dã một hữu Hồng Nương báo (Song the nào thấy ả Hồng báo tin) Một số lời bình luận về tác phẩm Kim Thánh Thán, trong khi bình tán về Tây sương kí trong phần Phép đọc vở Mái Tây đã viết:
Ai bảo vở Mái Tây là dâm thư, người ấy ngày sau nhất định phải sa xuống
ngục "nhổ lưỡi"! Sao vậy? Vở Mái Tây không phải bỡn, mà là văn hay của
trời đất... Từ khi có Trời Đất tất nhiên trong khoảng đó phải có áng văn
hay như thế. Không phải ai viết ra cũng được cả, mà là Trời Đất có phép
tự mình không kết bỗng soạn lên. Nếu nhất định muốn bảo là của một
người viết ra, thì Thánh Thán xin coi người ấy tức là hiện thân của Trời
Đất. Vở Mái Tây quyết không phải là dâm thư mà nhất định là một áng văn
hay. Từ rầy trở đi, ai bảo là văn hay, ai bảo là dâm thư, Thánh Thán
cũng mặc kệ! Kẻ thích văn xem đến cho là văn! Kẻ đã dâm xem đến cho là
dâm, thế thôi! Lý Trác Ngô (2*3), trong lời tựa Tây sương kí, đánh giá tác phẩm và tác giả trong sự đối trọng với vở kịch Tì bà, viết:
Người viết vở "Mái Tây" là thợ trời. Người viết vở "Tì Bà" chỉ là thợ
vẽ... Vở "Mái Tây" viết có khéo đâu! Viết khéo thì thực không vở nào
bằng vở "Tì Bà"! Người viết vở Tì Bà thực đã đem hết tài, hết sức mà
viết. Vì người viết đã cố viết cho thật khéo, không còn dư tài sức nữa,
nên lời hết thì ý cũng hết, mà văn đọc xác ra không còn ý vị gì! Vở "Mái
Tây" thì không thế. Trong khoảng trời đất này vốn có những đáng yêu như
thế. Họ viết văn cũng như thợ trời nặn muôn loài, cái khéo của họ ta
không thể tìm biết được?... Trời ơi! Ước gì tôi được gặp một người như
người viết vở "Mái Tây" Giả Trọng Minh đời nhà Minh, trong bài
Lăng Ba tiên khúc (Khúc nhạc vũ của tiên nữ ở Lăng Ba) đánh giá: Tạp
kịch mới, truyền kì cũ, Tây sương kí nhất thiên hạ. Chủ đề tình
yêu và quan hệ trai gái của Tây sương kí còn được nhắc đến trong kho
tàng truyện dân gian Việt Nam. Đó là câu truyện về một anh mù cả hai
mắt, tự xưng là sành thưởng thức văn chương, nói rằng chỉ ngửi hơi văn
cũng biết văn hay hay dở, hà tất phải đọc. Ông tú nọ đưa cho bộ Tây
sương kí, anh ta lật qua lật lại rồi bảo: - Tây sương kí đây mà. Ông tú
nọ thấy lạ quá, hỏi tại sao biết. Anh ta nói rằng: - Ngửi có mùi son
phấn. (2*1) Nguyên Chẩn: (tự: Vi Chi; 779 - 831), nhà thơ đời
Đường. Là bạn thân của Bạch Cư Dị (2*1*), thường gọi chung là Nguyên -
Bạch. Mười lăm tuổi đỗ khoa Minh kinh, giữ chức hiệu thư lang; sau đó,
đỗ chế khoa, giữ chức tả thập di, một chức gián quan. Làm quan cho đến
cuối đời, song luôn bị cách chức, biếm truất. Tác phẩm có “Nguyên thị
Trường Khánh tập” gồm 60 quyển. Chủ trương văn học của Nguyên Chẩn rất
giống Bạch Cư Dị. Ông cũng là một nhân vật chủ chốt của phong trào Tân
nhạc phủ. “Thư gửi Lạc thiên nói về thơ”, “Tựa nhạc phủ viết theo đề cổ”
của Nguyên Chẩn và “Thư gửi Nguyên Chẩn” của Bạch Cư Dị có thể xem là
tuyên ngôn của khuynh hướng sáng tác hiện thực trong thơ Trung Quốc đầu
thế kỉ 9. Cũng giống Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn chia thơ mình thành 6 loại,
trong đó, ông đặc biệt đề cao thơ phúng dụ, loại thơ có khuynh hướng
hiện thực và phê phán mạnh mẽ, “bài nào cũng có kí thác” và “rất gần với
ca dao”. Nguyên Chẩn còn sở trường viết về thơ tình yêu, thơ điếu
phúng. Ngoài thơ, ông còn có truyện ngắn Hội chân kí tả mối tình giữa
Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ, đặt nền móng cho vở kịch Tây sương
kí của Vương Thực Phủ. Nội dung chuyện Hội Chân ký: Trương Quân
Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha.
Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây
của chùa mà tình tự. Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không
thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng..."Hội Chân ký" kết thúc
khi mối tình tan vỡ. (2*1*) Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc
Thiên hiệu là Hương Sơn cư sĩ, là nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường. Tác
phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam có lẽ là bài Tỳ bà hành, Trường
Hận Ca. Tổ tiên ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư
tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của
lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người
ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm
thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người
lao động. Năm Trinh Nguyên thứ 16 (năm 800), ông thi đỗ tiến sĩ
được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Do mâu thuẫn với tể
tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào tham quân ở Kinh Triệu. Năm
Nguyên Hòa thứ 10 (815), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị
hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông
vượt qua quyền hạn, đày làm tư mã Giang Châu. Giai đoạn tuừ năm 821 tới
năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu
về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm
thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương. Những
năm đầu, ông cùng Nguyên Chuẩn ngâm thơ, uống rượu, được người đời gọi
là Nguyên Bạch. Sau này, khi Nguyên Chuẩn mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp
thành cặp Lưu Bạch. Người đời tôn xưng ông là Thi Ma. Ông chủ
trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, ông chủ trương thơ phải
gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn
chương hình thức. Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ
phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính
trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ ông mang
đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận
ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc
kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn
đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời
sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan
lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc
Phủ). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa
đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy
mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời
(Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại
và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).
Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không
những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng
của mọi người trước thế sự. Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi
đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường
học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở
chủ trương của mình hơn. Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận
Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ
đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp,
lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì
hòa đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm
của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài
thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.
Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u
hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về
Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân
tình thế thái. Ông để lại khoảng trên 2.800 bài thơ. (2*2) Quan
Hán Khanh : hiệu: Dĩ Trai (1227 – ?), nhà soạn kịch nổi tiếng đời
Nguyên. Quê: tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Từng sinh sống nhiều năm ở Bắc
Kinh, giao du rộng rãi với các nghệ nhân tạp kịch đương thời cho nên am
hiểu kĩ xảo biểu diễn của nghệ thuật sân khấu. Làm thơ hay, am tường y
học, âm nhạc, đặc biệt là nghệ thuật múa, hát, diễn xướng, v.v… Tạp kịch
của Quan Hán Khanh lấy đề tài trong đời sống dân nghèo và kĩ nữ; khuynh
hướng yêu ghét rõ ràng, văn phong bình dị, chất phác. Từng soạn khoảng
63 vở tạp kịch Nguyên; nay chỉ còn 12 vở nguyên vẹn, số còn lại bị thất
thoát hoặc chỉ còn một số đoạn. Viết cả bi kịch lẫn hài kịch, bao gồm
các loại đề tài và nội dung tư tưởng khác nhau. Tác phẩm phản ánh chân
thực và sâu sắc đời sống xã hội đời nhà Nguyên dưới ách thống trị của
giai cấp quý tộc Mông Cổ (“Đậu Nga oan”, “Vọng Giang đình”, “Hồ Điệp
mộng”, v.v…); ca ngợi tình yêu nam nữ và sự thuỷ chung son sắt (“Điều
phong nguyệt”, “Bái Nguyệt Đình”, v.v…); ca ngợi các anh hùng nhà Hán
(“Đơn đao hội”, “Tây Thục mộng”, v.v…). Tiêu biểu nhất là “Đậu Nga oan”
kể về một người đàn bà bình thường chết oan, khiến trời đất cũng phải
rung động; phản ánh tinh thần phản kháng quyết liệt của nông dân đối với
ách thống trị của nhà Nguyên. Nhiều tác phẩm khác được dịch ra tiếng
nước ngoài (cả phương Đông và phương Tây) và hiện nay vẫn thường xuyên
được công diễn trên sân khấu kịch hát Trung Quốc. (2*3) Lý Trác Ngô (1527-1602): nhà phê bình văn học đời Minh.
(3) Nhà Tống là một triều đại cai trị ở Trung Quốc từ 960-1279. Việc
thành lập nhà Tống đánh dấu sự tái thống nhất Trung Quốc lần đầu tiên kể
từ khi nhà Đường sụp đổ năm 907. Những năm giữa giai đoạn đó, được gọi
là thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, là khoảng thời gian chia rẽ giữa miền bắc
và miền nam cũng như sự thay đổi nhanh chóng của các thể chế cầm quyền.
Trong thời nhà Tống, có rất nhiều mối đe doạ từ biên giới phía bắc của
người Khất Đan (Khiết Đan) từ nhà Liêu người Đảng Hạng từ triều Tây
Hạ,và người Nữ Chân từ Nhà Kim. Thời đại nhà Tống cũng bị chia thành hai
giai đoạn: Bắc Tống và Nam Tống. Bắc Tống (960-1127) là giai đoạn khi
thủ đô ở Khai Phong phía bắc và triều đình kiểm soát toàn bộ Trung Hoa.
Nam Tống (1127-1279) để chỉ khoảng thời gian khi nhà Tống đã mất quyền
kiểm soát phía Bắc (thuộc quyền người Nữ Chân nhà Kim), Triều đình nhà
Tống lui về phương nam sông Dương Tử và lập kinh đô ở Hàng Châu. Nhà Kim
bị người Mông Cổ chinh phục năm 1234, sau đó Mông Cổ kiểm soát toàn bộ
phía Bắc Trung Quốc và luôn đe doạ triều đình Nam Tống. Một hiệp ước hoà
bình vội vàng được lập ra, khi Hốt Tất Liệt nhận được tin về cái chết
của Mông Ca (còn gọi là Mông Kha), vua cai trị Mông Cổ. Ông quay về nước
để chiếm ngôi báu từ tay các đối thủ, để nhà Tống yên ổn trong một thời
gian ngắn. Nhà Nguyên của người Mông Cổ được thành lập năm 1271, và
cuối cùng chinh phục nhà Tống năm 1279, một lần nữa thống nhất Trung
Quốc, lần này là một phần của Đế chế Mông Cổ rộng lớn. Sau này đế chế
Mông Cổ được gọi là nhà Nguyên. (4) Tống Huy Tông (1082 –1135)
là vị Hoàng đế thứ tám và là một trong những vị hoàng đế nổi tiếng nhất
của nhà Tống (960-1279) tại Trung Quốc. Tên thật là Triệu Cát, là con
trai thứ 11 của Tống Thần Tông , trị vì từ năm 1100 tới năm 1126. Huy
Tông nổi tiếng vì sự sùng tín Đạo giáo, tự xưng là “Giáo chủ Đạo Quân
Hoàng đế” hay “Đạo Quân Thái thượng Hoàng đế“. Huy Tông cũng là nhà thơ,
họa sĩ, nhà thư pháp và nhạc công có tài. (5) Nước Liêu: Nhà
Liêu ( 907-1125): đôi khi còn được biết đến như là Vương quốc hay Đế chế
của người Khiết Đan gốc Mông Cổ, do dòng họ Da Luật thành lập trong
những năm cuối của nhà Đường, mặc dù Da Luật A Bảo Cơ không công bố niên
hiệu cho đến tận năm 916. Người chính thức bắt đầu đế chế Khiết Đan,
hoàng đế Da Luật Đức Quang chính thức đặt tên là Đại Liêu hay nhà Liêu
vào năm 937. Tên gọi của đế chế là Khiết Đan trong các khoảng thời gian
từ năm 907 (khi lập quốc) đến năm 937 (947?) cũng như từ năm 983 đến năm
1066. Từ Китай trong tiếng Nga, Cathay trong tiếng Anh, Catai trong
tiếng Bồ Đào Nha, Catay trong tiếng Tây Ban Nha đều có nghĩa "Trung
Quốc" và đều bắt nguồn từ tên gọi của dân tộc này. Nhà Liêu bị
nhà Kim thôn tính năm 1125. Tuy nhiên, con cháu của nhà Liêu do Da Luật
Đại Thạch dẫn đầu đã chạy về phía tây để thành lập nhà Tây Liêu
1125-1220, còn được gọi là hãn quốc Kara-Khiết Đan, nhà nước này tồn tại
cho đến khi kỵ binh Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tràn xuống.
(6) Phương Lạp (? - 1121) : người huyện Hấp, tỉnh An Huy, có thuyết cho
là ở Thanh Khê, Mục Châu (nay là Thuần An, Hàng Châu, Chiết Giang) là
lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân cuối thời Bắc Tống. Có người cho rằng
sự thực lịch sử thì Phương Lạp không phải bị quân Lương Sơn bạc đánh mà
do một đội quân khác của Nhà Tống (?). (7) Bản tiếng Anh đầu
tiên do Pearl Buck, nữ nhà văn Mỹ từng đoạt giải Nobel Văn học, dịch và
mang tựa là All men are brothers (Mọi người là anh em, lấy ý câu Tứ hải
giai huynh đệ: Bốn bể là anh em). Bản dịch ra tiếng Pháp lấy tên là Les
chevaliers Chinois (Hiệp sĩ Tàu). (8) Hậu Thủy hử: Bộ truyện
Hậu Thủy hử cũng mang tên tác giả Thi Nại Am, tiếp theo hồi thứ 70 (hồi
cuối) của bộ Thủy hử, kể chuyện triều đình đánh mãi không thắng bèn dùng
kế chiêu an. Các anh hùng Lương Sơn Bạc nghe lời Tống Giang về hàng
triều đình, được phong quan tước và cử đi đánh dẹp quân Liêu ở biên giới
và các lực lượng nổi dậy khác (Vương Khánh, Điền Hổ, Phương Lạp). Sau
khi đánh thắng Phương Lạp trở về chỉ còn lại 27 anh hùng. Một số người
được phong các chức quan trấn nhậm các địa phương xa, một số người về
quê sinh sống. Các thủ lĩnh nghĩa quân như Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa...
một thời gian sau khi nhận chức quan bị triều đình sát hại. (9)
Kim Bình Mai: Truyện Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh bắt nguồn từ một
chi tiết trong Thủy hử, tích Võ Tòng giết chị dâu Pham Kim Liên để trả
thù anh Võ Đại. Ba chữ trong tựa là tên ba nhân vật trong đó Kim là Phan
Kim Liên, chị dâu Võ Tòng, Lý Bình Nhi và Bàng Xuân Mai. Có người coi
Kim Bình Mai là danh tác thứ năm, có người xếp Kim Bình Mai vào hàng tứ
đại danh tác thay vì Hồng lâu mộng. (10) Đãng khấu chí: Tác giả
truyện Đãng khấu chí là Du Vạn Xuân đời nhà Thanh. Du Vạn Xuân cho rằng
truyện Thủy hử cũng như Hậu Thủy hử quá tai hại đối với xã hội vì nó
kích động nhân dân chống đối triều đình và những cái chết oan uổng của
các anh hùng Lương Sơn sau khi quy hàng nhà Tống khiến nhân dân thương
xót "những kẻ làm loạn". Vì vậy mãi tới thế kỷ 19, Du Vạn Xuân mới viết
Đãng khấu chí (nghĩa là kể chuyện dẹp giặc cướp) nhằm mục đích “viết
lại” Hậu Thủy hử, nội dung kể về việc các anh hùng Lương Sơn Bạc bị
triều đình đánh dẹp thẳng tay và họ đã bị tiêu diệt chứ không phải chiêu
an. Họ bị mô tả như quân cường khấu, vô đạo, trái nghĩa. Tuy nhiên, khi
Đãng khấu chí ra đời, Hậu Thủy hử đã quá phổ biến, đã in sâu trong tâm
trí độc giả 500 năm và vì vậy, Đãng khấu chí rất ít được biết tới.
(11) Trong điện ảnh: Thủy hử đã đi sâu vào tiềm thức của nhiều người dân
Trung Quốc nói riêng và Châu Á nói chung. Từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20,
đoàn làm phim tỉnh Sơn Đông đã dựng phim Thủy hử, kể về giai đoạn hình
thành và phát triển của Lương Sơn Bạc và kết thúc ở hồi 70 khi các anh
hùng Lương Sơn tụ tập đủ, phân chia ngôi thứ. Vai chính Tống Giang do
diễn viên nổi tiếng Bào Quốc An (người thủ vai Tào Tháo trong phim Tam
Quốc Diễn Nghĩa) đóng. Tới cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20, hãng
phim truyền hình Trung Quốc dựng phim Thủy hử, dài 43 tập, kể đầy đủ về
sự hình thành cho tới khi thất bại của quân Lương Sơn Bạc. Vai chính
Tống Giang do diễn viên nổi tiếng khác là Lý Tuyết Kiện đóng. Đặc biệt,
bộ phim còn có sự tham gia của nhà chỉ đạo võ thuật nổi tiếng Viên Hòa
Bình. Bộ phim này tuy có nhạc hay nhưng lại chưa thể hiện được cái tài
của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc. Hãng phim truyện TVB của
Hong Kong cũng đã dựng phim Lâm Xung gồm 20 tập, chỉ đề cập tới một số
nhân vật Thủy hử là Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Thời Thiên, Yến Thanh, Lư
Tuấn Nghĩa, Lý Sư Sư, Cao Cầu và vua Huy Tông. (*) Thủy hử
truyện được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Bản dịch
tiếng Việt đầu tiên là của Á Nam Trần Tuấn Khải (*1), có văn phong hàn
lâm và hiện được cho là bản dịch chính thức để dùng trong nghiên cứu và
giảng dạy. Một bản dịch sau, không có những hồi cuối của La Quán Trung,
do Mộng Bình Sơn (*2) dịch, có giọng văn sát với truyện anh hùng, phiêu
lưu, mạo hiểm hơn và do đó quen thuộc hơn với người bình dân. Bản dịch
thứ ba là của Nguyễn Đỗ Mục (*3). Bản tiếng Anh đầu tiên do
Pearl Buck - nữ nhà văn Mỹ từng đoạt giải Nobel Văn học- dịch và mang
tựa là All men are brothers (mọi người là anh em, lấy ý tứ của câu Tứ
hải giai huynh đệ- bốn bể là anh em). Bản dịch ra tiếng Pháp lấy tên là
Les chevaliers Chinois (Hiệp sĩ Tàu). (*1) Trần Tuấn Khải (1895
–1983): Nổi danh là một nhà thơ, từ thời tiền chiến. Các bút danh của
ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm
Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ. Các tác phẩm dịch thuật:
Thủy hử (1925); Hồng lâu mộng (1934); Đông Chu liệt quốc (1934)… (*2) Mộng Bình Sơn: Đã dịch Hán Sở tranh hùng, Xuân Thu Chiến quốc, Thủy hử truyện…
(*3) Nguyễn Đỗ Mục (1866 - 1948): nhà dịch thuật Việt Nam. Quê: làng
Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Đỗ Tú
tài Hán học. Bắt đầu viết cho "Đông Dương tạp chí" trong mục "Gõ đầu
trẻ" bàn về giáo dục. Sau khi tạp chí này đình bản, viết cho "Trung bắc
tân văn", thỉnh thoảng có bài trong mục "Hài đàm" (nói chuyện khôi hài),
kí tên Hì Đình, Nguyễn Văn Tôi. Ông dịch tiểu thuyết Trung Quốc khá
nhiều. Hai bản dịch có giá trị hơn cả là: "Thuỷ Hử diễn nghĩa" (1933),
"Đông Chu liệt quốc" (1933). Bản dịch "Tây sương kí" của Vương Thực Phủ
[đăng "Đông Dương tạp chí" (1913 - 14)], Nguyễn Đỗ Mục phỏng dịch hơn là
dịch, thỉnh thoảng xen vào những câu tập Kiều. (**) Mẫu đơn
đình hay còn gọi là Hoàn hồn ký hay Đỗ Lệ Nương mộ sắc hoàn hồn ký là
một trong những vở kịch nổi tiếng trong lịch sử sân khấu Trung Quốc, do
nhà soạn kịch nổi tiếng thời kỳ nhà Minh là Thang Hiển Tổ viết năm 1598
mà đến nay vẫn được người Trung Hoa nghiên cứu dựng lại và diễn xướng.
Thang Hiển Tổ (1550 - 1616) tự là Nghĩa Nhưng, hiệu là Hải Nhược, Nhược
Sĩ, Thanh Viễn đạo nhân, sinh ở Lâm Xuyên, Giang Tây. Năm 21 tuổi ông
đỗ cao nhưng do cự tuyệt lời mời của quan Thủ tướng Trương Cư Chính nên
sau đó bốn lần thi tiến sĩ đều trượt. Năm 1583, khi Trương Cư Chính
chết, ông thi đậu tiến sĩ, được bổ làm chức Bác Sĩ ở Thái Thường Tự (hàm
thất phẩm), Lễ bộ chủ sự (hàm lục phẩm). Do tính cương trực, năm 1591
ông dâng dâng thư phê phán quyền thần trong triều nên bị giáng làm Điển
sử ở Từ Văn (Quảng Đông), năm 1593 lại bị điều đi làm tri huyện Toại
Xương (Chiết Giang). Đền năm 1598, vì không chịu được sự bức bách của
quyền quý triều đình nên ông bỏ quan về ở ẩn tại Lâm Xuyên, chuyên tâm
đọc sách, nghiên cứu và sáng tác kịch. (***) Hồng Lâu Mộng: Xem Đỗ Ngọc Thach: Hồng lâu mộng – Tiểu thuyết ái tình hay nhất mọi thời đại. Đỗ Ngọc Thạch
0 nhận xét:
Đăng nhận xét